Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tựa

29 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11247)
Tựa


NỀN TẢNG PHẬT HỌC THIÊN THAI TÔNG

NHỊ ĐẾ ĐƠM HOA TRÊN ĐẤT TRUNG QUỐC
(Foundations of T'ien T'ai Philosophy)
Paul L. Swanson biên soạn - Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch

Tựa

 Phật học Thiên Thai Tông thường được giới thiệu trong một cách thức giản tiện nhưng lại làm sai lạc nền tảng hệ thống phân định của tông phái nầy, được biết như “ngũ thời bát giáo”. Tại Nhật BảnTây phương, hệ thống nầy được dùng để phân định toàn thể giáo pháp Phật thành từng loại là cái được Phật lộ bày vào những thời điểm khác nhau trong các giai đoạn hoằng pháp của Ngài. Một cách rõ ràng ý tưởng nầy là phần quan trọng của truyền thống Thiên Thai, nhưng để lại ấn tượng rằng Phật học Thiên Thai Tông là dấu vết xa xưa của quá khứ mà những sự phân tích trân trọng của giới học giả thì không đi xa hơn khuynh hướng trường ốc hoặc lịch sử.

 Sự chuyển hướng cách nhìn về Phật học Thiên Thai Tông mà tôi muốn tranh biện ở đây mở ra một sự hợp nhất đa dạng và viên dung về giáo lýthực hành đặt nền tảng trên nguyên lý hằng hữu đã đưa Thiên Thai Tông vào đời, và trao giáo lý nầy vào tận tay thiện nam tín nữ trong thế giới ngày nay. Nguyên lý nầy, như chìa khóa mở cửa kho tàng Phật học Thiên Thai, là học thuyết Tam Đế: Không, Giả, Trung.

 Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo. Có thể rằng có những Phật tử Trung Hoa khác là những nhà chú giải kinh sách so đo, tỉ mỉ hơn. Thí dụ như người trẻ tuổi cùng thời là Chi-tsang (Cát Tạng), cống hiến cho chúng ta những phân tích về văn bản đầy đủ và chính xác, trong khi Trí Khải (có thể vì hầu hết các tác phẩm và tư liệu mà chúng ta có ngày nay được môn đồ ghi lại trong lúc đại sư thuyết giảng) đôi khi đưa ra những diễn đạt phóng khoáng hơn nguyên bản, và cách phân tích có lúc lại quá ư bác học. Có thể có những người khác thuần thục trong thiền định hoặc trong những cách thức thực hành hơn. Trí Khải đã bỏ ra một giai đoạn khá lâu trong đời mình để làm một ông thầy giáo nổi tiếng ở kinh đô, mặc dù hẳn nhiên hơn ai hết, đại sư tự dâng hiến cho cuộc đời tu hành, và được tôn sư ấn chứng rằng đã chứng đắc nhiều thứ bậc thiền định. Có thể có những người khác có khả năng sáng tạo hơn trong việc đưa đường Phật giáo vào cương thổ Trung Hoa, mặc dù Trí Khải là người tiên phong thành công trong việc quy về một mối tất cả những dáng vóc Phật pháp khác nhau có mặt trong thời đại sư để trở thành một tông phái thuần túy “Trung Hoa”. Dù sao đi nữa, không ai là người có thể tương xứng được với mức độ làm nung chảy tất cả những gì đến trước mắt khiến giáo lýthực hành hòa tan vào một toàn khối, và làm thay đổi tương lai Phật giáo Trung Hoa như Trí Khải. Nguồn tư tưởng trung tâm mà tất cả những thứ khác đều phải xoay quanhTam Đế, là nguyên lý đã đưa những thành phần riêng rẻ của Phật giáo vào một hệ thống liên tục của giáo lýthực hành. Theo đó, học thuyết nầy trở thành tiêu điểm đối với công trình vẽ lại nền tảng Phật học Thiên Thai Tông ngày nay.

 Trong chương thứ nhất, tôi cố gắng phát họa nền móng Tam Đế như một sự quảng diễn tư tưởng nhị đế - thế tục đếthắng nghĩa đế - của Trung Quán, và trình bày học thuyết ba mặt nầy đã có mặt trong tất cả các khía cạnh của Phật học Thiên Thai Tông như thế nào. Chương thứ nhất làm cả hai việc giới thiệu và tóm lược những điều tôi cố công trình bày qua tác phẩm nầy. Xin người đọc trở lại khảo cứu chương thứ nhất sau khi đã đọc hết những chương kia. Có thể những chỗ mơ hồ hoặc không rõ rệt sẽ trở nên sáng tỏ từ những chi tiết có trong các chương theo sau.

 Tôi đến với Phật học Thiên Thai Tông khi để tâm lưu ý đến tôn giáo Nhật Bản, đặc biệt Phật giáo. Chẳng bao lâu, chính tôi bị cuốn hút vào ảnh hưởng độc đáo của truyền thống Thiên Thai đối với tôn giáo, văn hóa, và lịch sử dân tộc Nhật. Nếu tất cả các con đường ở phương Tây đều sẽ đưa về La Mã, thì tất cả những con đường Phật giáo Nhật Bản và những hiện tượng tín ngưỡng liên hệ, có thể nói rằng, sẽ xoay quanh đỉnh núi Tỉ Duệ, tức đạo tràng chính của Thiên Thai Tông tại Nhật. Tôi tự hỏi, dù tôi chưa thể hoàn toàn chứng minh được, rằng một lời tuyên bố như vậy có thể dâng tặng cho vai trò của Thiên Thai Tông đối với Phật giáo Trung Hoa. Tôi tin tưởng có nhiều chứng cớ hiển nhiên cho thấy rằng gốc rễ lịch sử của Thiền Tông đã được nuôi dưỡng từ những điều đã xảy ra trên đỉnh núi Thiên Thai hơn là từ huyền thoại Bồ Đề Đạt Ma. Hoặc rằng ý tưởng trên sẽ gióng tiếng vào một ngày nào đó trong tương lai.

***

 Quyển sách nầy đã được biên soạn hơn mười năm, và làm sao nói hết được lời cảm tạ với những người đã cống hiến vào công việc nầy. Được tham cứu với Pier P. del Campana, trước hết tôi được giới thiệu Thiên Thai Tôngtác phẩm về Trí Khải đầu tiên của Leon Hurvitz. Sau đó, trải qua thời gianđại học Tokyo, Tamura Yoshiro trở thành người cố vấn của tôi, và không để cho mối quan tâm về truyền thống Tendai trong tôi phai mờ. Minoru Kiyota hướng dẩn sự tham khảo của tôi tại đại học Wisconsin- Madision, và không ngừng cho tôi những lời khuyến khích giá trị. Fukushima Kosai chỉ đường lối sưu tập tại đại học Ontani, và dành thời gian cùng tôi đọc “Pháp Hoa Huyền Nghĩa”, làm sáng tỏ những ngõ ngách cảm thấy dường như mù mịt. Sau khi trình luận án tiến sĩ năm 1985, tôi để các tài liệu qua một bên trong một thời gian ngắn để so lường những chỗ chưa hoàn toàn. Năm vừa qua, các người bạn đồng sự tại Nazan Institute for Religion and Culture tham dự các buổi thảo luận về các tác phẩm tôi biên soạn, sau đó, tôi xem xét, sửa chửa, và đánh bóng bản văn để chuẩn bị ấn hành. Tôi gởi lời cảm tạ đến tất cả những người đã giúp đỡ và khuyến khích tôi. Tôi cũng xin được cảm ơn David Chappell là người đã ghi lại những lời ân cần trong “Lời nói đầu” ông viết cho tác phẩm nầy, và Asian Humanities Press đã nhận lời phát hành. Sự tri ân đặc biệt xin gởi đến James Heisig là người đã khích lệ và hướng dẩn tôi trong nhiều vấn đề, cũng như đã đồng ý cho tác phẩm của tôi được để chung với các tác phẩm của ông, và sau cùng là những trợ giúp về kỹ thuật của ông trong việc ấn hành quyển sách nầy.

 Sau hết, xin hiến tặng việc tham khảo nầy đến vợ concha mẹ tôi – những người luân phiên cho tôi sự ủng hộ. Không khác với tôi, đã từ lâu, tác phẩm nầy thuộc về họ.

Paul L. Swanson

Nagoya, Japan

Ngày 7 tháng Giêng, 1989

 

Cái gì là sự cao cả khi làm vơi đi sức mạnh của đất, nước, cuồng phong  

chinh phục được không gianthời gian,

thấy được con đường chế ngự ảo ảnh

đã phát sinh từ những vọng dục hẫy hừng

đã đến đi rồi lại đến đi ?.

Tôi chỉ muốn

tóm cổ cái đang ẩn núp bên trong hình tướng,

tìm ra điều huyền hoặc đã mang tôi vào đời và rồi lại giết tôi đi,

khám phá đằng sau dòng thế tục huênh hoang không ngừng tuôn đổ kia,

một sự có mặt thầm lặng và không hề chuyển lay đang ẩn náu.

 

(What is the value of subduing the earth, the water, the air,

of conquering space and time,

of understanding what laws govern the mirages

that rise from the burning deserts of mind,

their appearance and reappearance ?.

I have one longing only:

To grasp what is hidden behind appearances,

to ferret out that mystery that brings me to birth and then kills me,

to discover if behind the visible and unceasing stream of the world

an invisible and immutable presence is hiding.)

Nikol Kazantzakis


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10250)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12234)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11528)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28682)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11927)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12900)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11341)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12257)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17278)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52696)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35368)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21213)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10587)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19088)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12306)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13209)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14271)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15957)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13627)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16712)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17402)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13017)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12434)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11522)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11472)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20259)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18815)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19420)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12101)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12189)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13742)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14887)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14955)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13861)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15421)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11298)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17018)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14829)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20042)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13748)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11630)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14936)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12884)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22750)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14475)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11543)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13078)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16776)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18239)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11858)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11412)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15714)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18784)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18260)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant