Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển Thứ 07

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 9484)
Quyển Thứ 07



THÀNH THẬT LUẬN 
Ngài HA-LÊ BẠT-MA tạo
Đời Diêu Tần Ngài TAM TẠNG CỰU MA LA THẬP dịch sang Hán Văn
Dịch giả: Tỳ-kheo THÍCH TRÍ-NGHIÊM

 

QUYỂN THỨ 7 

 

PHẨM TƯ LUẬN HÀNH-ẤM. TRONG NHÓM KHỔ-ĐẾ THỨ 84 

Trong kinh nói Tư là Nghĩ, là hành ấm.

Hỏi: Những gì là nghĩ?

Đáp: Nguyện cầu là nghĩ. Như trong kinh nói: “Nghĩ thấp cầu thấp và nguyện thấp.

Hỏi: Vì cớ chi biết “Cầu” gọi là nghĩ?

Đáp: Như trong kinh nói: “Vì khởi làm nên gọi là hành”. Thọ-ấm khởi làm ấy gọi là cầu. Như trong kinh nói: “Khởi làm đều nương nơi ái”. Lại trong kinh nói: “Như một bó lúa mạch để giữa đường ngã tư, sáu người đến đập, có người thứ bảy lại đến đập nữa. Ý các Tỳ-kheo nghĩ thế nào? Làm mềm nhừ chưa? Mềm rồi Bạch Thế Tôn! Phật dạy: Người si cũng vậy. Thường bị sáu món xúc-nhập đánh đập. Khi bị đập như vậy là nghĩ thân sau, ấy là đến mềm nhừ”. Phải biết cầu tức là nghĩ. Lại nói ý nghĩ ăn nên quán như đống lửa. Sao đem lửa mà dụ? Vì người nầy cầu thân sau; thân sau như lửa, vì thường sinh các khổ vậy. Lại trong kinh nói: “Ngã tức là chỗ động, cũng là hý-luận, tác khởi nương nơi ái; tùy chỗ có ngã thời có động nghĩ hý-luận, tác khởi nương ái”. Nếu pháp tác khởi, thì phải biết cầu tức là nghĩ. Lại nói nếu trẻ nít tập lòng lành từ nhỏ có thể khởi ác nghiệp, vì nghĩ ác nghiệp chăng? Không thể, Bạch Thế Tôn!” Nghĩa nầy cầu muốn là gây nghiệp. Lại nói nghiệp là nghĩ, nghĩ rồi. Nghĩ trong đây là ý nghiệp, nghĩ rồi thân và khẩu nghiệp. Nghĩa là nghĩ rồi gọi là cầu rồi. Lại trong kinh Hòa-Lợi nói: “Ni-Kiền-Tử dứt thọ nước lạnh, mà thọ nước nóng; khi sắp chết cầu nước lạnh trọn chẳng được mà chết, sinh ý mong lên trời”. Vậy thời vì nghĩ lạnh nên sinh. Nên biết cầu tức là nghĩ.

Hỏi: Ông nói cầu là nghĩ ấy. Đấy là tướng của ái, chứ chẳng phải nghĩ vậy. Tại vì sao? Vì trong kinh hữu nhân hữu duyên nói: “Sở cầu của người si tức là ái vậy.” Lại trong kinh đại-nhân nói: “Bởi ái nên mới cầu thảy”. Lại trong kinh nói: “Kẻ khổ nhiều cầu, kẻ vui chẳng cầu”. Lại nói nếu người muốn hành ngũ-dục. Muốn tức là cầu… Lại nói ái nhân duyên nên lấy. Trước cầu sau lấy, cầu tức là ái. Vậy nên ông cho cầu là nghĩ ấy. Cũng chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì trong kinh Hòa-Lợi nói: “Chẳng nghĩ mà gây nghiệp, thời nghiệp ấy chẳng nặng”. Chẳng nghĩ là chẳng biết trước. Thế-gian cũng cho biết là nghĩ, như nói kẻ Trí là thế nào? Là năng làm việc nầy; ai là kẻ có nghĩ, sẽ làm việc nầy. Nghĩa của lời nầy là kẻ Trí. Nên biết, biết tức là nghĩ?

Đáp: Nguyện gọi là nhóm. Nguyện một phần của muốn nên gọi là nghĩ; như người nguyện nói: Đời sau tôi sẽ được thân như thế.

Hỏi: Nếu nguyện là phần muốn nghĩ ấy. Thời không có nghĩ vô lậu. Lại nghĩ là nhân của ái. Như trong kinh nói: “Nếu biết thấy ý nghĩ ăn, tức là biết thấy dứt ba món ái.” Nên biết nghĩ là nhân ái?

Đáp: Ngươi nói không có nghĩ vô lậu. Tôi cũng chẳng nói có nghĩ vô lậu. Tại vì sao? Vì hành tướng khởi làm, nên gọi là nghĩ. Pháp vô lậu không có tướng khởi làm; nên nghĩ là khởi làm, chẳng phải Diệt-Pháp vậy. Lại người nói nghĩ là nhân ái. Đấy cũng chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì nghĩ là quả của ái, cũng là một phần của ái, chẳng phải nhân ái vậy. Vì quả dứt nên nói nhân dứt nghĩa là ý nghĩ ăn dứt nên ba ái dứt. Hành thảy các nhân-duyên đều lấy đấy mà đáp. Nên biết ái phần là nghĩ. Ái có hai thứ: có nhân có quả: Nhân gọi là ái, quả gọi là cầu. Cầu tức là nghĩ.

Hỏi: Nếu lúc nhân gọi ái, tác quả gọi nghĩ, thời nghĩ chẳng phải ái phần vậy. Tại vì sao? Vì nói pháp ở nhân tướng khác, ở quả tướng khác. Nên biết nghĩ chẳng phải ái phần. Như trong kinh hữu-nhân hữu-duyên nói: “Sở cầu của người si tức là ái, chỗ sở-tác của kẻ ái tức là nghiệp”. Vậy nên nghĩ tùy nghiệp tướng nên khác với ái. Lại như do tham sinh cầu. Cầu tức là nghĩ. Vậy nên tham ái là nhân của nghĩ?

Đáp: Tôi trước đã nói ái phần là nghĩ; ái phần tức là ái, chỉ ái mới khởi gọi là tham; tham rồi gọi là cầu. Lại người nói nguyện ấy. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì nguyện là một phần của nghĩ. Trước nguyện gọi nghiệp, sau nghiệp hồi -hướng.

Hỏi: Nghĩ với ý là một hay là khác.

Đáp: Ý tức là nghĩ. Như trong Pháp-Cú nói: “Ác tâm việc làm lời nói đều chịu quả khổ. Thiện tâm cũng như vậy”. Nên biết ý tức là nghĩ. Nếu ý chẳng phải là nghĩ, cái gì là ý-nghiệp? Ý nghiệp là ý-hành trong cảnh duyên. Vậy nên nghĩ tức là Ý. Tuy đã nói tổng-tướng nói ý-hành là nghĩ, mà nghĩ ấy phần nhiều nói ở trong thiện và bất thiện. Nghĩ này có lắm nhiều phần: Nếu người vì chúng-sinh kia cầu thiện cầu ác, bấy giờ gọi nghĩ; nếu việc cầu chưa được, bấy giờ gọi cầu; nếu cầu thân sau, bấy giờ gọi nguyện. Nên biết một món nghĩ mà dùng nhiều thứ tên để gọi. 

 

PHẨM XÚC THỨ 85 

Thức ở trong duyên gọi là xúc. Vì ba món hòa hợp gọi xúc, đấy chẳng phải tướng của xúc. Tại vì sao? Vì căn chẳng đến duyên. Vậy nên căn, duyên chẳng phải hòa hơp, vì ba món nầy năng lấy duyên nên gọi là hòa-hợp.

Hỏi: Riêng có tâm-số pháp gọi là xúc. Tại vì sao? Vì trong Thập nhị nhân duyên nói: Xúc nhân-duyên thọ. Lại nói xúc làm nhân cho thọ-tưởng-hành thảy. Nếu pháp không có, làm sao làm nhân? Nên biết có tâm-số pháp nầy gọi là xúc. Lại trong Lục-lục kinh nói có nhiều lục-xúc. Lại trong kinh nói: “Nên quán vô-minh các xúc”. Nếu nói các nhân thành giả-pháp, chẳng cần lại riêng nói giả-pháp. Lại trong kinh có hai thứ xúc: Một ba món hòa-hợp xúc; hai ba món hòa-hợp nên xúc. Nên biết xúc có hai thứ: Một có tự-thể; hai là giả-danh. Như nhật-châu và phân trâu, ba món khác với lửa, nguyệt-châu khác với nước, đất thảy khác với mộng. Như vậy xúc khác với mắt thảy có lỗi gì sao? Lại như các Tỳ-kheo hòa-hợp chẳng khác các Tỳ-kheo; các ấm hòa hợp chẳng khác các ấm; hai cây hòa hợp chẳng khác hai cây; hai tay hào hợp chẳng khác hai tay; các bịnh hòa-hợp chẳng khác các bịnh. Xúc cũng như vậy, chẳng khác mắt thảy lại có lỗi gì?

Đáp: Tôi trước đã nói tâm năng lấy duyên, bấy giờ gọi là xúc. Vậy nên, khi tâm làm nhân sinh thức, nhiên hậu thọ thảy các pháp mới sinh. Trong Lục-tục kinh cũng nói bấy giờ gọi là xúc. Thật là có đạo-lý. Lại chúng tôi không công nhận hai món xúc ấy. Thường nói ba món hòa hợp gọi là Xúc. Dù cho có hai món xúc ấy, cũng nên bỏ hẳn kinh ấy đi, vì trái với pháp-tướng vậy. Vậy nên dẫn kinh ấy là phi-nhân. Lại nếu xúc nầy khác nhau như nước lửa ấy, thì làm cũng ưng khác mà thật chẳng thấy riêng có khác với làm. Vậy nên biết xúc nầy chẳng khác với ba món kia. Lại nếu xúc là tâm-số thời cùng với tâm số khác nhau. Tại vì sao? Vì xúc là các tâm-số duyên mà xúc, chứ chẳng phải xúc duyên nên sinh khác, nên chẳng phải tâm-số pháp.

Hỏi: Vì xúc thù-thắng nên xúc duyên, tâm-số chẳng phải xúc duyên; xúc như thọ duyên ái chẳng phải ái duyên thọ?

Đáp: Xúc có thắng-tướng gì mà các tâm số không có, cần nói tướng nó ra? Mà thật nói chẳng được. Vậy nên phi nhân. Thọ là thời trước, ái là thời sau, nên thọ duyên ái, phi ái duyên thọ. Lại nếu xúc là tâm-số pháp riêng cần nói tướng nó, mà thật không thể nói được, phải nên biết chẳng khác. Lại Phật với trong pháp cũng có nói tên xúc như nói: Nếu có khổ-não đến xúc thân người. Lại nói: thọ-lạc xúc chẳng buông lung, thọ khổ xúc chẳng giận dữ. Với trong các thọ này là nói danh tự của xúc. Lại Phật nói với con quỷ lông mình nhọn như tên rằng: Xúc ngươi nhám rít chẳng nên lại gần thân. Lại như người đời nói xúc lửa là vui, cũng nói xúc là ăn, cũng nói tay xúc. Các việc trên đây đều do trong việc sở-tri nơi thân thức mà nói danh-tự của xúc. Lại các chỗ khác nói kẻ mù chẳng xúc sắc. Cũng đối với trong duyên sắc thảy mà nói danh tự của xúc. Xúc này vì lợi nói chẳng nhất định, nên chẳng phải riêng có tâm số pháp. Nếu nói xúc là tâm số thời với xúc tướng trái nhau. Tại vì sao? Vì Phật nói ba món hòa hiệp nên gọi là xúc. Nên biết thật không riêng có tâm số pháp. Lại như nói pháp đến nơi thân đều gọi là xúc. Lại tùy năng cùng với thọ thảy làm nhân cho tâm số, bấy giờ mới gọi là Xúc. 

 

PHẨM NIỆM THỨ 86 

Tâm tác-phát gọi là niệm, vì niệm nầy là tướng tác-phát nên niệm niệm mới hay sinh lại tâm khác. Lại nói niệm tướng năng thành xong công việc. Như trong kinh nói: “Nếu nhãn-nội-nhập sắc chẳng hư-hoại, ngoại nhập là hiện tiền, mà trong ấy không có niệm hay sinh tâm khác, thời nhãn-thức chẳng sinh.

Hỏi: Biết của các thức đều do niệm-lực sinh khởi phải không?

Đáp: Không phải. Tại vì sao? Vì các thức sinh biết bất tất quyết định: Hoặc do sức tác-phát mà sinh, như cưỡng trừ dục thảy; hoặc do sức của căn mà sinh, như cưỡng trừ dục thảy; hoặc do sức của căn mà sinh, như kẻ tỏ mắt năng thấy từng đầu sợi lông; hoặc do sức của căn mà sinh, như kẻ tỏ mắt năng thấy từng đầu sợi lông; hoặc do sức duyên nên sinh, như xa thấy ánh sáng đèn mà chẳng thấy xao động; hoặc do khéo tập nên sịnh, như nghề nghiệp tinh xảo thảy; hoặc do chăm lấy tướng nên sinh, như đắm say nơi sắc; hoặc do pháp tự phải sinh, như thiền-định trong thời kiếp tận; hoặc do thời tiết nên sinh, như chúng-sinh ác tâm bị đoản-mạng; hoặc do chỗ sinh nên sinh như tâm trâu dê thảy; hoặc tùy thân lực nên sinh, như tâm nam nữ thảy; hoặc tùy năm tháng nên sinh như tâm tiểu nhi thảy; hoặc do mỏi mệt nên sinh, hoặc do nghiệp lực nên sinh, như kẻ thọ các món dục; hoặc do Định lực nên sinh, như bụôc tâm một chỗ là tăng thêm trí hiểu biết; hoặc do quyết định nên sinh, như thứ-vô-ngại-đạo quyết sinh giải thoát; hoặc do lâu chán nên sinh, như chán mùi cay đắng thời nghĩ thèm ngon ngọt; hoặc tùy ưa vui nên sinh, như đối với sắc thảy; hoặc thích xem sắc, mà chẳng ưa nghe tiếng, với màu xanh đỏ thảy cũng vậy ; hoặc do mềm-mại nên sinh, như lông đâm vào mắt thời sinh khổ tâm mà đâm vào nơi khác thời chẳng vậy; hoặc do hết khổ nên sinh, như chữa lành bịnh mắt thời ăn mới biết ngon; hoặc do dứt chướng nên sinh như diệt trừ được dục thảy, thời mới biết nó là tội lỗi; hoặc lần lữa nên sinh, như nhân hạ mà sinh trung, nhân trung mà sinh thượng; hoặc tùy chỗ nghiêng nặng mà sinh.

Hỏi: Nếu tất cả biết thức đều do thứ lớp thuộc nhau cớ sao lại nói: “Không năng sinh tâm niệm khác” ư?

Đáp: Vì ngoại đạo vậy. Các ngoại đạo nói vì Thần ý hiệp nên biết của thức mới sinh. Vì muốn phá thuyết ấy, nên mới chỉ rõ các biết của thức đều thuộc lớp duyên, nên nói lời như vậy. Nếu người không năng sinh tâm nghĩ khác, thời biết của thức chẳng sinh. Tại vì sao? Vì thứ lớp duyên vậy, thời biết của thức có nhân, mỗi mỗi mới sinh. Lại tùy chỗ nghiêng nặng mà mỗi mỗi mới thức sinh biết, như đốn cây, cây thường ngã về phía nghiêng nặng. Lại như trước đã nói các thức chẳng phải sinh đồng thời. Vì những duyên cớ ấy mà biết các thức mỗi mỗi theo thứ lớp mà sinh. Lại các thức-pháp phải là theo thứ lớp mà sinh, chớ chẳng đợi Thần-ý hòa hiệp, như ngoại vật mộng, cây, nhánh, lá, hoa và trái thứ lớp mà sinh. Nội pháp cũng như vậy, biết của mỗi mỗi thức thứ lớp mà sinh. Niệm ấy có hai thứ: Một chính hai tà; chính là thuận-lý, như nói chính-vấn chính-nạn, ấy là nên đáp, vì nạn vấn có lý. Lại như hỏi thật tướng các pháp, tính vô thường thảy, ấy gọi là chính. Lại tùy sở năng thành nên gọi là chính. Cho nên biết tùy-thuận đạo niệm chân-thật niệm thảy gọi là chánh niệm. Lại tùy khi người nghĩ gọi là chính niệm, như người đa-dục quán bất-tịnh là nghĩ niệm-chính; khi tâm mờ nhìn thời phát-khởi-tướng lên là chính-niệm. Mà trái lại với trên đấy gọi là tà-niệm. Chính-niệm năng sinh tất cả công-đức mà tà-niệm khởi tất cả phiền não

 

PHẨM DỤC THỨ 87 

Tâm có điều cần dùng ấy gọi là muốn. Tại vì sao? Vì kinh nói muốn-muốn. Vì cần dùng các điều muốn nên gọi muốn-muốn. Lại trong kinh nói: “Muốn là gốc của Pháp”. Vì muốn tìm nên được tất cả Pháp, nên gọi gốc của Pháp. Lại nói: “Nếu các Tỳ-kheo lắm muốn Pháp Ta, thời pháp lâu còn”. Nếu chăm một lòng cần dùng gọi là lắm muốn. Lại trong như-ý-túc nói: “Dục tam-muội, tinh-tấn tam-muội, tâm tam-muội, tư-duy tam-muội”. Tùy tâm chỗ dùng gọi là muốn. Đấy là muốn Pháp, nhờ tinh-tấn giúp tu tập Định-huệ do nhờ dùng bốn món nầy đều được gọ Như-ý-phần. Lại nói người muốn bay đi. Lại có một vị Tỳ-kheo thường ưa đọc-tụng. Vị nầy tu thiền chứng được A-La-Hán, nên chẳng đọc tụng nữa; có vị Trời hỏi rằng: Ngươi thường ưa tụng, nay sao chẳng tụng nữa? Tỳ-kheo đáp: Trước kia tôi chưa ly-dục nên phải cần muốn kinh thơ, nay đã lìa ba cõi nên chẳng cần dùng nữa. Có bao nhiêu kinh sách, thiền-định, trí-tuệ đều do Thánh-nhân nói ra, ấy là pháp đáng bỏ. Nên biết cần dùng là nhân của muốn, vì cần dùng nên mới tham các món muốn, nên gọi là tham dục

 

PHẨM HỶ THỨ 88 

Tâm muốn ưa vui ấy gọi là mừng. Như nói chúng-sinh tính loại theo nhau: Vui ác theo ác, ưa lành theo lành, ấy gọi là ưa mừng.

Hỏi: Tính chẳng phải gọi là mừng. Tại vì sao? Vì Phật b iết chúng-sinh nhiều thứ tính, tính ấy là trí-lực; biết nhiều món mừng, dục là trí lực. Cho nên biết tính ưa mừng đều khác.

Đáp: Tu lâu nhóm họp tâm thời gọi là tính, tùy tính sinh ưa mừng. Vậy nên biết lâu nhóm tâm gọi là tính-trí-lực. Trí tùy tính sinh ưa mừng, gọi là dục-trí-lực. Nên nói chúng-sinh tùy tính theo nhau lâu nhóm ác tâm, thời ưa mừng điều ác; lâu nhóm thiện tâm, thời vui mừng điều thiện, như lúc lạnh ưa nóng. Đấy là nhân duyên hiện tại chẳng phải theo tính sinh, ấy là tính ưa mừng sai khác. 

 

PHẨM TÍN THỨ 89 

Quyết định là tướng Tín.

Hỏi; Quyết định là tướng-huệ. Quyết định gọi là dứt nghi, đấy gọi tướng huệ?

Đáp; Tự mình chưa thấy pháp theo lời dạy của Hiền-Thánh, tâm mới được thanh tịnh. Đấy gọi là tin.

Hỏi: Nếu vậy là tự thấy pháp rồi chẳng cần tin nữa?

Đáp: Phải. A-La-Hán mới được gọi là kẻ bất tín. Như trong Pháp-cú nói: “Kẻ bất-tín, kẻ bất tín ân gọi là bực Thượng-nhân”. Lại trong kinh nói: “Bạch Thế Tôn Tôi với trong việc nầy theo lời Phật mà tin”. Nếu tự thấy pháp tâm được thanh tịnh, ấy gọi là tin. Trước nghe pháp, sau dùng thân chứng, khởi nghĩ như vầy: Pháp nầy chân-thật chắc-chắn chẳng luống dối, thời tâm được thanh-tịnh, ấy gọi là tin. Ở trong tứ-tín: Ví như có người bệnh, trước tin lời Thầy, rồi uống thuốc lành bệnh, nhiên hậu đối với Thầy sinh tâm thanh tịnh, ấy gọi là tin. Tín nầy có hai thứ: Một từ si sinh, một từ trí sinh. Kẻ từ si sinh là chẳng nghĩ lành dữ, như đối với chỗ bọn ác sư Phú-Lan-Na thảy sinh tịnh-tâm; kẻ từ trí sinh là như trong tứ-tín nói đối với Phật thảy sinh tịnh-tâm. Tín nầy ba thứ: Thiện, bất thiện, vô-ký.

Hỏi: Bất thiện tín nầy tức là phiền não. Pháp bất tín trong đại-địa chẳng phải là tín vậy?

Đáp: Chẳng phải pháp bất tín. Tín nầy là tịnh tướng, bất thiện tín ấy cũng là tịnh tướng. Nếu chẳng phải vậy thời bất-thiện-thọ chẳng nên gọi thọ, mà thật chẳng phải vậy. Nên mới có ba thứ sai khác. Nếu như lòng tin ở căn số tùy-thuận giải thoát; ở 37 phẩm trợ đạo thời quyết định là thiện. 

 

PHẨM CẦN THỨ 90 

Tâm phát hành động đây gọi là cần. Thường nương các pháp hoặc nghĩ nhớ hoặc định, trong ấy phát động một lòng thường hành đấy gọi là cần. Cần có ba thứ: thiện, bất thiệnvô ký. Nếu tại trong tứ-chính-cần đấy gọi là thiện, kỳ dư chẳng gọi là thiện. Nếu hành giả tin: Bất thiệntội lỗi, thiện pháplợi ích, nhiên hậu sinh siêng năng để dứt bất thiện, và nhóm pháp thiện vậy. Cho nên kề tín-căn mới nói tinh-tấn-căn. Cần nầy khi vào trong pháp lành gọi là tinh tấn, vì năng làm gốc cho tất cả việc lợi ích. Nhờ tinh tấn, vì năng làm gốc cho tất cả việc lợi ích. Nhờ tinh tấn nầy giúp cho các pháp nghĩ nhớ thảy mới năng được đại quả, như lửa gặp được gió đốt cháy càng nhiều. 

 

PHẨM ỨC THỨ 91

Biết cảnh từng trải qua từ trước ấy gọi là nhớ. Như trong kinh nói; “Đã trải qua lâu xa năng nhớ chẳng quên”. Đây gọi là nhớ.

Hỏi: Nhớ nầy ở trong ba đời. Tại vì sao? Vì trong kinh nói nhớ tất cả đều là nên phải. Lại nhớ nầy ở tại tứ-ức-xứ. Tứ-ức-xứ nầy cũng duyên ba đời. Mà tại sao chỉ nói quá-khứ ư.

Đáp: Đấy nói “đều là nên phải” chẳng những ba đời. Nếu tâm rung động, lặng chìm thời nhớ theo hai chỗ, ấy gọi khắp đi. Người nói tứ-ức-xứ duyên ba đời ấy. Trong ấy huệ-năng duyên hiện tại, chẳng phải là nhớ. Vậy nên đức Như-Lai trước nói tên nhớ, hiểu thời nói là huệ.

Hỏi: Tại sao một thức trải qua biết, lại một thức khác năng nhớ?

Đáp: Pháp nhớ nó như vậy, với trong pháp tự nói nhau sinh diệt, liền sinh thức khác trở lại tự năng duyên. Lại pháp tri-thức lẽ như vậy: thức khác trải qua, thức khác năng biết, như nhãn-thức biết sắc, ý thức năng tri. Lại người khác đã dùng qua người khác nữa năng biết, như các vị Thánh-nhân cho đến túc mạng của tấm thân thừa nầy đã từng trải qua, nhờ sức nhớ nên biết.

Hỏi: Nếu biết cảnh đã trải qua từ trước gọi là nhớ ấy. Nay pháp các thức đều nên gọi nhớ. Tại vì sao? Vì pháp ấy cũng đi cảnh đã trải qua từ trước?

Đáp: Các thức pháp cũng gọi là nhớ. Như Phật bảoTát-già-Ni-Diên Tử rằng: “Ngươi nhớ bổn-sự phải đáp đi”. Lại nói: Nếu nhớ việc giỡn vui từ trước thời phiền não phát sinh. Nên các thức pháp nhớ việc trước, nên cũng gọi là nhớ. Nhớ nầy do lấy tướng mà sinh, tùy pháp nào đó rồi lấy tướng thời nhớ sinh. Khác đi thời chẳng sinh. Định huệ trong phẩm định huệ sẽ nói. 

 

PHẨM GIÁC QUÁN THỨ 92 

Nếu tâm thường thường sinh khởi tản đi, đấy gọi là giác. Lại trong tản tâm, cũng có thô, tế. Thô gọi là giác, vì chẳng sâu nhiếp nên gọi thô-tâm. Như trong kinh nói: “Phật nói Ta đi có hạnh giác-quán”. Vậy nên sơ-thiền chưa sâu nhiếp được, nên gọi là hữu giác-quán. Tản tâm nhỏ yếu thời gọi là quán. Bởi hai pháp này ở khắp ba cõi. Vi tướng thô, tế của tâm này vậy. Lại tâm tán loạn gọi là giác quán, vì tướng này ứng tất cả chỗ. Lại việc chưa hiện biết phải dùng tỉ-trí mới biết: Nghĩ lường nên vậy hay chẳng nên vậy, đấy gọi là giác. Vậy nên nghĩ lường việc chưa hiện biết nên có tên chính giác và tà giác. Lìa phân bịêt nghĩ lường thì gọi là chính-kiến. Ba món biết nầy là: Tà-giác là suy nghĩ điên đảo rằng trong vô thường là thường thảy; chính giác chưa được chân-trí nhớ tưởng so sánh mà biết, kẻ hành giả này ở trong đạt-phần thiện-căn, đấy gọi là Nhẫn. Như vậy các điều thuận đạo so sánh biết, gọi là chính giác. Trong ấy, nếu xa lìa nhớ tưởng phân-biệt gọi là hiện tại tri. Với trong giác này suy nghĩ so tính: Nhờ nhân-duyên này nên như vậy, nhân-duyên kia nên chẳng như vậy, đấy gọi là quán.

Hỏi: Có thuyết cho rằng giác quán ở trong một tâm. Việc ấy thế nào?

Đáp: Không phải. Tại vì sao? Vì các ngươi tự nói dụ như đánh linh, tiếng đầu là giác, các tiếng ngân sau là quán. Lại như dụ sóng nước; thô là giác, tế là quán. Là vì thời gianphương hướng khác, nên chẳng phải ở một tâm. Lại năm thức không phân-biệt nên không có giác-quán. 

 

PHẨM DƯ TÂM SỐ THỨ 93 

Nếu chẳng làm lành, hoặc làm lành bất-chính gọi là buông-lung; không riêng có một pháp gọi là buông lung vậy. Lúc nào tâm làm gọi là buông lung. Trái lại với trên đây gọi là chẳng buông-lung. Nến tâm làm lành gọi là chẳng buông-lung, cũng không có pháp riêng. Lại tâm chạy theo bất-thiện gọi là buông-lung; thuận theo pháp lành gọi là chẳng buông-lung. Kẻ có căn lành thời chẳng có tham, sân và si: lấy nghĩ lường làm đầu, năng không tham đắm gọi là chẳng tham; lấy từ bi làm đầu, chẳng sinh giận dữ gọi là chẳng sân. Lấy chính kiến làm đầu, chẳng lầm lộn gọi là chẳng si. Không riêng có một pháp gọi là chẳng tham. Có người nói không tham gọi là chẳng tham. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì không tham gọi là không pháp. Không pháp làm sao làm nhân cho pháp? Không sân không si cũng như thế. Lại cùng với ba bất thiện căn trái nhạu nên chỉ nói ba. Kiêu mạn thảy cũng ưng là bất-thiện-căn, vì lược bớt nên chỉ nói là ba bất-thiện-căn. Trong phẩm bất thiện sẽ nói. Vô-ký-căn: có người nói có bốn là: Vô ký, ái kiến, mạn và vô-minh. Lại có người nói có ba là: Ái, vô-minh và huệ. Đấy chẳng phải Phật nói. Tùy tâm vô-ký mà nhân duyên nào sinh, thời gọi nhân-duyên ấy là vô-ký-căn. Lại vì nghiệp thân khẩu phần nhiều từ tâm vô ký sinh khởi. Vô ký tâm gọi là vô-ký-căn. Khi tâm hành năng khiến thân tâm yên tĩnh, diệt trừ được thô-trọng, bấy giờ gọi là khoan khoái. Khi tâm hành gọi nhiều tên xả: Như với trong các thọ tâm hành chẳng rõ cũng gọi là xả; trong các Thiền lìa khổ vui mặc cho tâm hành gọi là xả; trong thất giác chẳng chìm chẳng động, tâm hành bình-đẳng gọi là xả; lìa buồn mừng được tâm bình-đẳng gọi là xả; trong tứ vô-lượng lìa tâm ghét yêu gọi là xả. Như vậy tùy nhiều món pháp trái nhau thời có vô-lượng tâm-số sai khác. 

 

PHẨM BẤT TƯƠNG ƯNG HÀNH THỨ 94 

Tâm bất tương-ưng hành là: Đắc, bất-đắc, vô-tưởng-định, diệt tận định, vô tưởng xứ, mạng căn, sinh, diệt, trụ, dị, lão, tử, danh chúng, cú chúng, tự chúng và phàm phu pháp thảy.

Đắc là các pháp thành tựu vì chúng-sinh nên mới có được. Chúng-sinh thành tựu năm ấm thân đời hiện tại gọi là được. Lại trong đời quá-khứ nghiệp lành chẳng lành quả báo chưa chịu, chúng-sinh đã thành tựu pháp nầy. Như trong kinh nói: “Người này thành tựu pháp lành và cũng thành tựu pháp chẳng lành”.

Hỏi: Có người nói: thành tựu nghiệp thân khẩu lành chẳng lành đời quá-khứ, như người xuất gia thành tựu giới-luật nghi đời quá-khứ. Việc nầy thế nào.

Đáp: Đều đã thành tựu. Tại vì sao? Trong kinh nói: “Nếu người làm tội phước tức là đã có hai việc thường bám theo nơi thân, như bóng theo hình”. Lại trong kinh nói: “Họa phước bất-hủ, nghĩa là năng được quả báo”. Nếu chẳng thành tựu nghiệp tội phước thời của nên đắc quả, thời mất các hành nghiệp.

Hỏi: Luật nghi quá-khứ chẳng ưng thành tựu. Tại vì sao? Vì ông đã nói pháp quá-khứ diệt, vị-lai chưa có, hiện tại chẳng năng thường có thiện tâm. Thì làm sao thành tựu giới luật nghi được ư?

Đáp: Người nầy thành tựu giới luật nghi hiện tại, chẳng phải quá-khứ. Như bởi hiện ô nhiễm nên nhiễm. Như vậy lấy giới hiện tại nên gọi là trì giới, chứ chẳng lấy quá-khứ. Nhưng vì trước đã thọ mà chẳng xả, nên gọi thành tựu quá-khứ.

Hỏi: Có ông luận sư nói; Chúng-sinh thành tựu tâm-thiện bất thiện trong đời vị-lai. Việc ấy thế nào?

Đáp: Chẳng thành tựu. Tại vì sao? Vì chưa tác nghiệp mà đã được quả vậy. Vậy nên vị-lai chẳng thành tựu. Đây gọi là được là không riêng có tâm bất tương ưng pháp gọi là được. Với đấy trái nhau gọi là chẳng được. Cũng không riêng có pháp chẳng được vậy.

Vô-tưởng-định: Đây không có pháp nhất định. Tại vì sao? Vì phàm-phu chẳng năng diệt tâm và tâm-số-pháp (ra sau sẽ nói). Tâm và tâm-số-pháp nầy nhỏ nhiệm khó giác biết được, nên gọi là vô-tưởng. Vô-tưởng xứ cũng như vậy. Diệt-tận-định Tâm diệt không còn hành nữa nên gọi là diệt tận, không có pháp riêng giống như Nê-Hoàn. Mạng-căn: Vì nghiệp nhân-duyên nên năm ấm nối nhau gọi là mạng: mạng nầy lấy nghiệp làm gốc nên gọi là mạng-căn. Sinh năm ấm còn đời hiện-tại gọi là sinh; xả đời hiện-tại gọi là diệt. Nối nhau nên trụ: Trụ nầy biến khác nên gọi là trụ-dị, chẳng phải riêng có pháp gọi là sinh-trụ-diệt. Lại trong nghĩa Phật-Pháp sâu thẳm, nghĩa là các duyên hòa hợp mới có pháp sinh. Cho nên không có pháp nào năng sinh pháp khác. Lại nói nhãn-sắc thảy làm nhân duyên cho nhãn-thức. Trong ấy không nói có sinh, cho nên không sinh không có lỗi gì. Lại nói sinh thảy pháp đồng thời sinh. Nếu pháp đồng thời sinh tức diệt. Trong ấy sinh thảy dùng làm gì ư? Việc nầy cần suy nghĩ. Lại trong 12 nhân-duyên Phật tự nói nghĩa sinh: Các chúng-sinh nơi nơi sinh, thọ các ấm gọi là sinh. Vậy nên trong đời hiện-tại trước tiên được các ấm gọi là sinh. Cũng nói năm ấm lui mất gọi là chết. Cũng nói các ấm suy hoại gọi là già. Không riêng có pháp già chết.

Danh chúng: Do chữ sinh danh, như nói người nào đó theo chữ thành nghĩa gọi là cú. Các chữ gọi là chữ. Có người nói có các danh cú tự là tâm bất tương ưng hành. Việc nầy chẳng phải lẽ. Vì pháp nầy nhiếp vào trong thanh tịnh pháp.

Hỏi: Pháp phàm phutâm bất tương ưng hành. Việc ấy thế nào?

Đáp: Phàm phu pháp chẳng khác phàm phu. Nếu riêng có phàm phu pháp, cũng ưng thọ riêng có cái bình pháp thảy. Lại số lượng, nhất dị, hiệp ly, hảo xứ, thảy pháp đều nên riêng có. Trong ngoại kinh thư nói: bình khác, pháp bình khác; nhân bình pháp mới biết là bình sắc khác, sắc pháp khác. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì pháp gọi là tự-thể. Nếu ngươi bảo phàm phu pháp khác, thời sắc tự không có thể, cần đợi sắc pháp mới có. Việc này chẳng phải lẽ. Vậy nên bởi ngươi chẳng nghĩ kỹ nên mới nói riêng có phàm phu pháp. Có các luận sư học ngoại điển nên mới tạo luận A-tì-đàm nói riêng có phàm phu pháp thảy. Cũng có các luận sư nói riêng có như: pháp tính, chân tế, nhân duyên thảy các vô vi pháp vậy. Nên cần suy nghĩ kỹ lý nầy, đừng chỉ theo văn tự

- Hết nhóm khổ đế

 

PHẨM NGHIỆP TƯỚNG TRONG NGHIỆP-LUẬN NHÓM TẬP ĐẾ THỨ 95 

Luận giả nói: Đã nói xong Khổ-Đế, nay sẽ nói Tập-Đế. Tập-Đế là: Các nghiệp và phiền não. Nghiệp nầy có ba thứ: Thân-nghiệp, khẩu-nghiệp và ý-nghiệp. Thân-nghiệp là: Thân sở-tác gọi là thân-nghiệp. Nghiệp này là ba món đoạt mạng thảy là bất-thiện; khởi nghinh lễ bái thảy là thiện; nhổ có thảy là vô-ký.

Hỏi: Nếu thân ra làm gọi là thân-nghiệp ấy. Thời bình thảy các vật cũng ưng là thân-nghiệp, vì thân nó cũng có tác dụng vậy?

Đáp: Bình thảy là quả của thân-nghiệp, chứ chẳng phải là thân-nghiệp, vì nhân-quả khác vậy.

Hỏi: Chẳng nên có thân-nghiệp. Tại vì sao? Vì thân ra động-tác gọi thân-nghiệp, mà hữu vi pháp niệm niệm diệt, nên chẳng ưng có động-tác.

Đáp: Việc nầy trong phẩm niệm niệm diệt đã đáp, nghĩa là pháp khi sinh ở các chỗ khác tổn hại hoặc lợi ích cho kẻ khác, gọi đấy là thân-nghiệp.

Hỏi: Nếu như vậy thời thân tức là thân-nghiệp, vì sinh các chỗ khác, nên chẳng phải thân ra làm gọi là thân-nghiệp?

Đáp: Thân là dụng-cụ tác-nghiệp. Thân khi sinh ở các chỗ khác nhóm hợp tội phước gọi là nghiệp. Vậy nên thân chẳng phải nghiệp vậy.

Hỏi: Nhóm tội phước là vô tác, còn các thân-tác thế nào?

Đáp: Khi sinh thân ở các chỗ có bao nhiêu tạo-tác gọi là thân-tác.

Hỏi: Thân này ra làm hoặc thiện hoặc bất-thiện mà thân chẳng vậy. Vậy nên chẳng phải thân làm?

Đáp: Vì tâm-lực nên khi sinh thân ở chỗ khác năng nhóm nghiệp. Vậy nên hoặc nhóm thiện, bất-thiện, chẳng những là thân, mà khẩu-nghiệp cũng như vậy, chẳn những âm thanh-ngôn ngữ cũng lấy tâm-lực tùy âm-thanh ngôn-ngữ mà nhóm thiện ác gọi là khẩu-nghiệp. Ý-nghiệp cũng vậy, nếu tâm quyết định: Ta giết chúng-sinh nầy. Bây giờ nhóm tội phước cũng như vậy.

Hỏi: Như do thân khẩu iêng có nghiệp; ý với ý nghiệp là tức hay là khác?

Đáp: Hai món: Hoặc ý tức là ý-nghiệp hoặc do ý sinh nghiệp: Như ý quyết định giết chúng-sinh là bất-thiện, mà cũng là ý-nghiệp. Nghiệp nầy năng nhóm tội thắng hơn nghiệp thân khẩu. Nếu tâm chưa quyết định, là ý này cùng với nghiệp khác.

Hỏi: Đã biết tác tướng do tác mà sinh. Nhóm nghiệp khác, cái nào là tướng?

Đáp: Đấy tức gọi là vô tác.

Hỏi: Chỉ thân khẩu có vô-tác, ý không có vô-tác sao?

Đáp: Không phải: Tại vì sao? Vì trong ấy không có nhân-duyên, nên chỉ nghiệp thân khẩu có vô-tác, mà ý không vô-tác. Lại trong kinh nói hai thứ nghiệp: “Hoặc nghĩ, hoặc nghĩ rồi”. Nghĩ tức là ý nghiệp; nghĩ rồi hai thứ: do nghĩ nhóm-nghiệp và nghiệp thân khẩu, ý nghiệp rất quan trong, (ra sau sẽ nói) do trọng nghiệp nhóm gọi là vô tác, vì thường nối nhau sinh, nên biết ý-nghiệp cũng có vô tác

 

PHẨM VÔ-TÁC THỨ 96 

Hỏi: Pháp gì gọi là vô-tác?

Đáp: Nhân tâm sinh tội phước, ngủ mê, chết ngất thảy, những khi ấy thường sinh. Đấy gọi là vô-tác. Như trong kinh nói: “Nếu trồng cây gây vườn rừng, đào giếng, bắt cầu cống thảy. Người nầy ra làm phước ngày đêm thường tăng-trưởng”.

Hỏi: Có người tác nghiệp hiện khá thấy: Như bố-thí, lễ bái, sát-sinh hại mạng thảy là phải có; còn vô tác nghiệp vì chẳng khá thấy nên không có. Nhờ biện-minh cho nghĩa nầy?

Đáp: Nếu không có vô-tác, thời không có pháp lìa sát-sinh thảy.

Hỏi: Lìa gọi là bất-tác, bất-tác thời vô pháp, như người khi chẳng nói, thời không có pháp chẳng nói sinh; như khi chẳng thấy sắc cũng không có pháp chẳng thấy?

Đáp: Nhân lìa sát-sinh thảy được sinh lên trời. Nếu không pháp làm sao làm nhân?

Hỏi: Chẳng vì lìa nên sinh trời, mà vì lòng lành vậy?

Đáp: Không phải. Trong kinh nói: “Người tinh tấn tùy theo sống lâu được phước nhiều”. Vì tùy theo phước nhiều nên được hưởng thiên-lạc lâu dài. Nếu chỉ có lòng lành làm sao năng có nhiều phước? Vì người ấy chẳng năng thường có lòng lành vậy. Lại nói trồng cây thảy, phước đức ngày đêm tăng-trưởng. Lại nói trì-giới kiên-cố. Nếu không có vô-tác. Làm sao mà nói phước thường tăng trưởng và trì-giới kiên-cố? Lại phi tác tức là sát-sinh, tác thứ lớp sát-sinh pháp mới sinh nhiên-hậu bị tội sát; như người dạy giết, tùy thời gian dạy, kẻ dạy bị tội sát. Cho nên biết có vô-tác. Lại ý không có giới-luật-nghi. Tại vì sao? Vì người tâm ở trong bất thiện vô-ký, hoặc vô tâm, cũng gọi trì-giới. Nên biết, bấy giờ có vô-tác. Bất-thiện luật-nghi cũng như vậy.

Hỏi: Đã biết có pháp vô-tác chẳng phải tâm. Nay nó là sắc, hay là tâm bất-tương-ưng-hành?

Đáp: Đấy là nhiếp về hành-ấm. Tại vì sao? Vì tướng tác khởi gọi hành, vô-tác là tác khởi vậy. Sắc là tướng não-hoại chẳng phải tướng tác khởi.

Hỏi: Trong kinh nói: Sáu món nghĩ gọi là hành ấm, mà chẳng nói tâm bất-tương-ưng-hành?

Đáp: Việc nầy trước thuyết-minh rồi, nghĩa là có tâm bất-tương-ưng với tội phước.

Hỏi: Nếu vô-tác là sắc-tướng thời có lỗi gì?

Đáp: Năm pháp sắc thanh hương vị và xúc, vì chẳng phải tính tội phước, nên chẳng lấy sắc tính cho là vô-tác. Lại Phật nói: Sắc là tướng não-hoại. Trong vô-tác nầy tướng phiền não tìm chẳng khá được, nên chẳng phải sắc tính.

Hỏi: Vô-tác là tính thân khẩu nghiệp; thân khẩu nghiệp tức là sắc?

Đáp: Vô-tác chỉ gọi là thân khẩu nghiệp, mà thật chẳng phải thân khẩu ra làm, vì bởi thân khẩu mà ý-nghiệp mới sinh, nên mới nói thân khẩu ý-nghiệp-tính. Lại hoặc chỉ do ý sinh vô-tác, thời vô-tác nầy làm sao gọi sắc tính được? Lại trong cõi vô-sắc cũng có vô-tác. Trong vô-sắc làm sao có sắc ư?

Hỏi: Làm những gì năng sinh vô-tác?

Đáp: Do thiện bất thiện tác nghiệp năng sinh vô-tác, chứ chẳng phải vô ký, vì sức nó yếu ớt vậy.

Hỏi: Từ khi làm thời gian bao lâu sinh vô-tác?

Đáp: Từ đệ nhị tâm sinh. Tùy tâm thiện ác mạnh thời năng trụ lâu. Nếu tâm yếu thời trụ chẳng lâu, như thọ giới một ngày trụ một ngày, thọ giới trọn đời trụ trọn đời.

 

PHẨM CỐ BẤT CỐ THỨ 97 

Hỏi: Trong kinh nói: “Cố-tác nghiệp bất cố-tác nghiệp.” thế nào là cố ý tác và bất cố ý tác ư?

Đáp: Trước đã biết mà cứ làm gọi là cố-tác, trái lại gọi là bất-cố-tác.

Hỏi: Nếu bất-cố-tác chẳng gọi là nghiệp?

Đáp: Có nghiệp ấy, chỉ tâm cố làm thời nghiệp có quả-báo. Lại tâm quyết định làm nghiệp gọi là cố; tâm chẳng quyết định làm gọi là bất-cố. Như nói lỡ lời gọi là bất cố, chẳng lỡ lời gọi cố. Như trong kinh nói: “Người có tội lỗi, ta phải trách mắng; nếu nói lỡ lời thời ta chẳng trách? Hỏi như vậy ba lần”. Nếu trước không tâm làm mà làm như người khi đi dẫm phải hại trùng, đấy gọi là bất cố. Nghiệp bất-cố này, vì chẳng nhóm, nên chẳng năng sinh quả-báo. Nghiệp có bốn thứ: có làm chẳng nhóm, có nhóm chẳng làm, có cũng làm cũng nhóm, có chẳng làm chẳng nhóm. Làm mà chẳng nhóm: Như làm sát-sinh thảy nghiệp, sau liền sinh ăn năn; làm bố thí thảy nghiệp, về sau lòng cũng ăn năn; và tâm làm nghiệp rồi sau chẳng nhớ, ấy gọi là làm chẳng nhóm. Nhóm chẳng làm như kẻ khác làm sát sinh thảy mà lòng minh sinh vui mừng; họ làm bố thí thảy lòng cũng vui mừng. Cũng làm cũng nhóm: Như tự làm sát-sinh thảy tội, bố thí thảy phước, tự sinh lòng vui mừng. Chẳng làm chẳng nhóm: Cũng chẳng làm cũng chẳng sinh mừng. Với trong đây, cũng làm cũng nhóm, nghiệp ấy quyết định chịu quả-báo”. Vậy nên nghiệp làm nhóm, hoặc đời hiện chịu báo, hoặc đời sau chịu báo, hoặc sau đời sau nữa chịu báo.

Hỏi: Nếu nghiệp có tác nhóm quyết định chịu báo ấy, thời không giải thoát?

Đáp: Nghiệp tuy cố tác, nhưng vì được chân trí nên chẳng còn nhóm nữa, ví như rang giống chẳng năng sinh lại.

Hỏi: Trong kinh Giêm-lượng Phật nói: “Có người tạo báo nghiệp địa ngục mà đời hiện chịu nhẹ?”

Đáp: Nếu trọng ác nghiệp mà đời hiện nặng chịu nhẹ, cớ sao chẳng năng khiến cho hết sạch đi ư? Nếu người chẳng năng cụ tu chân trí, thời ác nghiệp được cơ hội trả báo, nên đời hiện tại ít chịu quả báo.

Hỏi: A-La-Hán tuy cụ tu chân trí mà cũng chịu ác báo?

Đáp Sâu tu pháp lành thời ngăn được chẳng lành. Vậy nên, nếu người ở trong trăm ngàn đời tu nhóm giới thảy các nghiệp lành, thời nghiệp chẳng lành chẳng năng sinh khởi được chính như các Đức Phật là bậc Nhất-Thiết-Trí. Còn những người khác chẳng năng như vậy, nên nghiệp bất thiện được cơ hội. Nên A-La-Hán tuy cụ túc chân trí, nhưng vì túc nghiệp đời trước nên cũng phải chịu ác báo.

Hỏi: Trong kinh cũng nói Phật cũng bị hủy báng thảy nghiệp báo bất thiện?

Đáp; Phật là bậc Nhất-Thiết-Trí, không còn ác nghiệp báo vì đã dứt tất cả cội gốc pháp bất thiện rồi. Nhưng chỉ vì thần thông vô lượng nên phương tiện thị hiệnPhật sự bất khả tư nghì. Như trong kinh Tăng-nhất A-Hàm nói có năm việc bất-khả-tư-nghì. Nghiệp có hai thứ: Định báo và Bất-định-báo. Định báo nghiệp: Hoặc nhiều hoặc ít quyết sẽ chịu quả báo, bất định nghiệp: là có thể khiến tiêu hết.

Hỏi: Thế nào gọi định báo nghiệp và bất định báo nghiệp?

Đáp: Trong kinh nói tội ngũ-nghịch là định-báo nghiệp.

Hỏi: Chỉ tội ngũ nghịch là nghiệp-định-báo, còn các tội khác có không?

Đáp; Trong các nghiệp khác cũng có phần ít định báo, nhưng không thể chỉ ra được. Hoặc vì sự trọng nên quyết định báo, như đối với Phật và đệ tử Phật, hoặc cúng-dường, hoặc khinh-hủy, hoặc vì tâm trọng nên có định báo, như người vì cố tâm trói giết hại trùng kiến, nặng việc giết người. Những nghiệp như vậy thảy quyết định có quả-báo.

Hỏi: Nếu tội ngũ-nghịch khá khiến mỏng bớt ấy, tại sao chẳng hay khiến cho tiêu hết đi?

Đáp: Cái lẽ của tội pháp nầy nó như vậy, không thể làm tiêu hết được. Như Tu-Đà-Hoàn dù cho giải đãi mấy nữa cũng chẳng đến tám lần thọ-sinh. Lại tội ngũ-nghịch vì bền chắc nặng nề nên không thể làm tiêu hết được. Như trong phép Vua kẻ bị trọng tội, khá được giảm-khinh, chứ không được trắng án. 

 

PHẨM KHINH TRỌNG TỘI THỨ 98 

Hỏi: Trong kinh nói có tội nghiệp nhẹ nặng. Nhẹ nặng là thế nào?

Đáp: Nếu nghiệp năng bị quả báo a-tì địa-ngục, gọi là tội nặng.

Hỏi: Những nghiệp gì năng bị quả báo ấy?

Đáp: Như hành nghiệp phá Tăng quyết chịu báo này. Tại vì sao? Vì chia lìa ngôi Tam-bảo, khiến Tăng-bảo lìa Phật-bảo cũng phá Pháp bảo nữa. Lại vì đó mà sinh tà-kiến hạng nặng nên năng sinh khởi nghiệp này. Cũng rất ganh, giận Phật, nên khởi nghiệp này. Cũng lâu nhóm ác tính, rất tham lợi dưỡng, nên khởi nghiệp này. Lại người này nói phi pháp là pháp phải thời, ngăn nhiều chúng-sinh tu các pháp lành, nên gọi trọng tội.

Hỏi: Chỉ có tội phá Tăng bị báo A-tì địa-ngục, còn các tội khác?

Đáp: Các nghiệp khác cũng có. Như nói không tội phước, cúng dưòng cha mẹ và các người lành không có quả báo. Những tà kiến nầy cũng bị quả báo ấy. Lại khiến kẻ khác đọa vào tà-kiến nầy, vì khiến nhiều chúng-sinh tạo các ác nghiệp nên cũng bị báo ấy. Lại năng trước tác các kinh thơ tà-kiến như vậy, như bọn Phú-Lan-Na thảy và các ông sư tà-kiến, vì hại chính-kiến, nên mở đường nhân-duyên cho nhiều chúng-sinh làm ác. Lại tội hủy báng Hiền-Thánh cũng bị quả báo ấy, như nói một phía hông tám muôn bốn ngàn năm chịu khổ. Lại như trong kinh Pháp-Cú nói:

“Thánh sống lâu vì pháp,

Đem pháp ấy giáo hóa.

Độn căn nương ác kiến

Trái nghịch lời như vậy,

Như tre gai sinh trái,

Thời tự hại thân hình,

Người nầy đọa địa ngục,

Đầu thòng chân chổng lên,

Kẻ ác tâm ác khẩu,

Vì bài báng Hiền Thánh.

Người nầy đọa mười vạn

Địa-ngục Ni-la-phù,

Ba sáu vạn địa-ngục,

Và năm A-phù-đa.”

Lại sát sinh thảy, nếu sự trọng, tâm trọng, tội này cũng đọa vào địa ngục a-tì; trái lại với trọng. đấy gọi là khinh, nghĩa là ở trong địa ngục nhỏ bị nướng trên lửa nướng thảy; súc sinh, ngạ quỷ và trong người trời chịu quả báo chẳng lành, ấy gọi là tội nhẹ

 

PHẨM ĐẠI TIỂU LỢI NGHIỆP THỨ 99 

Hỏi: Trong kinh nói: Có đại tiểu lợi nghiệp. Những gì là đại lợi nghiệp?

Đáp: Tùy theo nghiệp nào năng đến quả Chính-Đẳng-Chính-Giác cao tột, đấy gọi là tối-đại-lợi nghiệp. Nghiệp kề là năng được quả Bích-Chi-Phật Đạo. Nghiệp kề nữa là được quả Thanh-Văn Đạo. Nghiệp thứ tư là được quả báo cõi Hữu-đảnh, mạng sống đến tám muôn đại kiếp, đây là nghiệp báo tối đại trong sinh tử. Đến nghiệp thứ năm là được quả báo cõi vô-sở-hữu-xứ mạng sống được sáu muôn kiếp. Cứ như vậy lần lữa thứ lớp cho đến cõi Phạm-thế mạng sống nửa kiếp. Kế đến cõi trời tha-hóa tự-tại trong cõi Dục hưởng thiên-số muôn sáu ngàn năm cho đến cõi tứ-thiên-vương hưởng thiên số năm trăm năm. Như vậy trong loài người từ cõi tứ-thiên trở xuống đều theo nghiệp mà thọ quả báo. Như vậy súc-sinh, ngạ-quỷ, địa-ngục cũng có tiểu lợi nghiệp.

Hỏi: Những nghiệp nào năng được quả bực Chính-Đẳng Chính-Giác cao tột?

Đáp: Bố-thí thảy đầy đủ sáu pháp ba-la-mật, thời năng được quả Chánh-Đẳng Chánh-Giác cao tột. Rồi từ nghiệp lành nầy thứ lớp càng mỏng lần được Bích-Chi-Phật Bồ-Đề; càng mỏng lần nữa được Thanh-Văn Bồ-Đề. Nếu tu tăng lên bốn vô-lượng tâm thời được sinh về cõi hữu-đảnh. Tu bốn vô-lượng thứ lớp mỏng dần, kế là sinh về bực dưới. Tu bốn vô-lượng càng nhỏ mỏng nữa và tùy nhân-duyên giới-định nên sinh cõi Sắc. Vì nhân-duyên tu bố-thí trì giới tu thiện nên sinh cõi Dục. Nghiệp bố thí thảy nầy tùy theo phước-điền dày mỏng nên mới có sai khác. Như đối với trong phước-điền chư Phật mà tu, thời là rất hơn hết. Kế là đối với trong phước-điền Bích-Chi-Phật, thảy mà tu, thứ lớp càng ít dần.

Hỏi: Trí-đức phước-điền hơn, hay Đọan-đức phước-điền hơn?

Đáp: Nếu trí năng đạt pháp-tướng nghĩa là rốt ráo không, thời Trí ấy hơn. Tại vì sao? Vì như Đức Phật do trí nên với trong hàng đệ-tử Phật là hơn, chứ chẳng do Đoạn vậy. Như trong tạp-bảo-tạng nói: Nếu quét đất phòng Tăng rộng bằng một cõi diêm-phù-đề, chẳng bằng quét tháp Phật một chỗ bằng chừng một bàn tay”. Lại tất cả trí-huệ đều vì để đoạn vậy. Như các vị Bồ-Tát ở lâu trong sinh-tử đều vì khéo đoạn. Khéo đoạn: Nghĩa là dứt gút mình và dứt gút chúng-sinh. Các gút nầy đều nhờ trí dứt dần. Nên biết huệ phước-điền đối với đoạn đức là hơn.

Hỏi: Như Tu-Đà-Hoàn lợi căn, Tu-Đà-Hoàn độn căn, hai phước điền này bực nào cao hơn?

Đáp: Lợi-căn hơn, chẳng phải độn căn vậy.

Hỏi: Lời ấy nhằm chẳng lẽ. Như trong kinh nói: “Cúng dường trăm Tu-Đà-Hoàn, chẳng bằng cúng-dường một Tư-Đà-Hàm”. Lại nói: “Cỏ lát hại lúa; tham dục uế tâm, vậy bố-thí người vô-dục, phải được phước nhiều”. Tư-Đà-Hàm bá độc trước mỏng dần, Tu-Đà-Hoàn thời chưa, làm sao nói hơn được?

Đáp: Kinh nầy gọi là bất liễu-nghĩa. Tại sao biết được? Cũng tức nơi kinh nầy nói: “Thí cho loài súc sinh được lợi gấp trăm”. Mà thật thị cho quạ chim thảy được quả-báo thắng thí cho người ngoại đạo có năm thần-thông. Vậy nên kinh nầy phải biện biệt nghĩa lại, kinh nầy theo số nhiều nên mới nói như vậy, trừ trí-huệ. Lại Tu-Đà-Hoàn vì trí-lực nên tuy thọ các dục mà cũng gọi phước-điền, chẳng phải đoạn dục phàm phu cho đến kẻ năng được Định cõi hữu-đảnh. Lại trí đa-văn ở trong đạt phần còn hơn chứ chẳng Định hữu-đảnh ở phần bất thông-đạt. Lại Ngài Di-Lặc Bồ-Tát tuy chưa chứng Phật quả, nhưng cũng được các vị A-La-Hán lễ kính. Lại như kẻ chỉ năng phát suông tâm Bồ-Đề lền được La-Hán cung kính: Như có một Sa-di quảy mang áo bát đi theo vị A-La-Hán; Sa-di nầy bỗng phát tâm vô thượng Bồ-Đề, vị A-La-Hán liền lấy áo bát lại tự quảy lấy và đi theo sau Sa-di. Như trong thí dụ nói rộng. Cho nên biết trí-huệ phước-điền là hơn hết.

 

Thành Thật luận hết quyển 7.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22273)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16008)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15020)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18941)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14438)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18616)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14412)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13576)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13542)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11808)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13228)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13644)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13922)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13242)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15017)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16151)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11079)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16444)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11894)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17582)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12866)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13696)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12851)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14850)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16377)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13119)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12077)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12762)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12893)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12768)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14159)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14101)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16461)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12374)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14375)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11298)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11021)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13187)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13883)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13151)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12995)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13492)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12724)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10230)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13963)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10218)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13697)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16250)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11949)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12965)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11637)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12665)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10791)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10976)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10931)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11889)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12752)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11061)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12611)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11313)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant