Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển Thứ 11

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 9383)
Quyển Thứ 11



THÀNH THẬT LUẬN 
Ngài HA-LÊ BẠT-MA tạo
Đời Diêu Tần Ngài TAM TẠNG CỰU MA LA THẬP dịch sang Hán Văn
Dịch giả: Tỳ-kheo THÍCH TRÍ-NGHIÊM

 

QUYỂN THỨ 11

 

PHẨM THÂN KIẾN THỨ 130

Ngã tâm trong ngũ ấm gọi là thân-kiến. Vì thật không có ngã nên mới nói duyên lấy ngũ-ấm. Ngũ-ấm gọi là thân; với trong ấy thấy sinh, biết rồi chấp, gọi là thân kiến. Với trong không có ngã mà lấy tướng ngã, nên gọi là kiến-chấp.

Hỏi: Với trong ngũ-ấm đặt hẳn danh tự là ngã đâu có lỗi gì? Như chiếc bình thảy các vật đều có tự tướng, trong ấy không lỗi, ngã cũng như vậy. Lại nếu nói lìa ấm riêng có ngã, đấy mới là có lỗi?

Đáp: Tuy chẳng lìa ấm nói ngã, đấy cũng có lỗi. Tại vì sao? Vì các bọn ngoại đạo nói ngã là thường, vì đời nay khởi nghiệp, đời sau chịu quả-báo vậy. Nếu nói như vậy ngũ-ấm lẽ phải là thường. Lại nói ngã ấy vì ngã là một. Vậy thời ngũ-ấm tức phải là một? Đấy là có lỗi. Lại ngã tức là lỗi Tại vì sao? Vì ngã-tâm nên mới có ngã-sở. Bởi có ngã-sở nên khởi ra tham sân thảy tất cả phiền não. Cho nên biết ngã-tâm là chỗ sinh phiền não. Lại người nầy tuy chẳng lìa ấm nói ngã, vì lấy tướng ấm nên chẳng tu không-lý. Vì chẳng tu không lý nên sinh phiền não. Do phiền não sinh nghiệp, do nghiệp sinh khổ. Như vậy sinh tử nối nhau luôn chẳng dứt. Lại người nầy vì chấp ngã nên không thể thô phân-biệt được thân đầu mắt tay chân huống chi năng phân biệt được các ấm, vì đã thọ ngã làm một, ngã là thường vậy. Nên chẳng phân-biệt được thời làm sao năng vào không-lý? Lại nếu chấp-ngã thời sợ Nê-Hoàn, vì cho ngã sẽ không có vậy. Như trong kinh nói: “Phàm phu nghe đạo lý “không vô ngã” sinh sợ hãi rất lớn, vì ngã sẽ không có nên đều không được gì hết”. Kẻ phàm phu mà như vậy thì cho đến tham cầu tấm thân con dã-can bị bệnh hủi, cũng chẳng dùng Nê-Hoàn. Nếu được không trí thời chẳng còn sợ gì. Như kinh Ưu-ba-tư-na nói: “Người thanh tịnh trì giới, khéo tu bát-thánh-đạo đến khi mạng chung lòng dạ vui mừng như phá vỡ đồ đựng chất độc”.

Nếu nói có ngã tức đọa tà-kiến. Nếu ngã là thường thời khổ vui chẳng biến đổi. Nếu chẳng biến thời không tội phước. Nếu ngã là vô thường, thời không có đời sau, tự nhiên giải thoát cũng không tội phước. Cho nên biết thân-kiến là tội nặng nhất vậy. Lại kẻ thân kiến gọi là rất si. Tất cả phàm phu đều bởi thân-kiến loạn-tâm sâu đắm hữu-ngã, nên bị qua lại sinh tử.Nếu thấy vô-ngã thời dứt qua lại.

Hỏi: Nếu ngũ ấm là vô-ngã, tại sao chúng-sinh với trong ấy sinh ngã-tâm?

Đáp: Hoặc nghe danh tướng người trời trái gái, vì tưởng phân-biệt nên sinh ngã-tâm. Và cũng bởi phi-nhân tợ-nhân nên sinh ngã-tâm. Chỗ gọi nếu không có ngã ấy, ai chịu khổ vui, uy-nghi ngôn-ngữ, khởi nghiệp tội phước và chịu quả-báo thảy ư? Lại từ vô thủy sinh tử lâu nhóm ngã-tướng thành thói quen rồi bị nó sai khiến, như tướng cái bình thảy nên sinh ngã tâm. Lại vì với trong các thọ ấm mà sinh ngã-tâm, chứ chẳng phải trong bất thọ vậy. Nghĩa là chỗ năng sinh ngã-tâm, vì trong ấy có ngã. Tại vì sao? Vì chẳng phải tất cả chỗ đều sinh được ngã-tâm vậy. Lại vì ngu si nên ninh ngã-tâm, in như người mù nhặt được sành đá thảy liền sinh tưởng là vàng ngọc. Lại người nầy chưa được không trí phân biệt vì si nên thấy có ngã, như trong những huyễn, mộng, thành càn-thát-bà và vòng lửa quây tròn thẩy mà sinh tưởng có thật.

Hỏi: Hiện thấy sắc thân tóc lông móng thảy các phần đều khác. Kẻ trí cớ sao cho đó là ngã?

Đáp: Có người thấy thần như hạt bắp, hạt cải thảy trụ ở trong tâm; Thần Bà-la-môn trắng; Thần Sát-Lợi vàng, Thầy Tỳ-Xá đỏ và thần của Thủ-đà-la đen. Lại trong sách Vĩ-đà nói: “Khi minh sơ, thần của các Đại-trượng-phu sắc như ánh sáng mặt trời nếu người biết Thần nầy thời năng vượt qua sinh tử, lại không còn đường nào khác. Tiểu nhân thời thần nhỏ, đại-nhân thời thần lớn, trụ ở trong hang thân”. Lại người tọa-thiền được tướng quang minh, mới thấy Thần ở trong thân như sợi chỉ trong lòng hạt tịnh-châu. Những người chấp sắc như thế thảy là kẻ suy nghĩ cạn nói: thọ là ngã, vì trong cây đá thảy không có thọ, nên mới biết thọ tức là ngã. Kẻ suy nghĩ bực trung nói: Tưởng là ngã, vì khổ vui tuy có lỗi, nhưng hãy có tưởng ngã tâm vậy. Kẻ suy nghĩ kỹ nói: Hành là ngã, vì tướng cái bình thảy tuy có lỗi, nhưng còn có nghĩ ngã tâm vậy. Kẻ nghĩ kỹ càng sâu sắc hơn nói: Thức là ngã, vì biết, nghĩ cũng còn thô nghĩ nầy tuy có lỗi, nhưng còn có liễu biệt được ngã tâm vậy. Lại với trong ngũ-ấm sinh ngã-tâm, người nầy chẳng năng phân biệt được thọ thảy các ấm. Với trong sắc, tâm hòa hợp sinh ngã tướng; như với trong sắc thảy bốn pháp tổng sinh tư tưởng cái bình, vì sắc thảy sai biệt nên có hai mươi phần thấy sắc là ngã. Tại vì sao? Vì sắc là pháp bị ngã rõ biết và là chỗ nưong của thọ thảy; các thọ thảy nầy buộc ở nơi sắc.Vậy nên gọi là sắc là ngã. Có người thấy sắc ở trong thọ thảy, vì thọ thảy là pháp bất liễu-biệt vậy nên bị sắc nương dựa, như hư-không chẳng liễu-biệt nên bị đất thảy nương dựa. Như vậy hai mươi phần đều do mà sinh.

Hỏi: Tại sao trong mắt thảy chẳng nói ngã phần?

Đáp: Cũng có. Như trong kinh nói: “Nếu người nói mắt là ngã, thời chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì mắt là sinh diệt mắt là ngã, thời ngã cũng sinh diệt”. Lại mắt thảy đều có tướng riêng; nếu nói mắt là ngã, tai thảy chẳng phải ngã, thời là chẳng được. Nếu tai thảy là ngã thời một người có nhiều ngã. Vì trong sắc thảy có sai khác vậy, nên được nói sắc là ngã mà chẳng phải thọ thảy.

Hỏi: Nếu nói vô-ngã cũng là tà-kiến. Việc ấy thế nào?

Đáp: Có hai đế-lý: Nếu nói đệ-nhất nghĩa-đế mà có ngã là bị tà-kiến; nếu nói thế-đế mà không ngã cũng bị tà-kiến. Nếu nói thế-đế nên có ngã, đệ-nhất-nghĩa-đế nên không ngã, thế nên chính-kiến. Lại đệ-nhất-nghĩa-đế nên nói không; thế-đế nên nói có, thời chẳng đọa kiến-trung. Lìa lời có, không như vậy đều thông. Như cọp tha con, nến mấm nặng con bị thương, mấm nhẹ con rơi mất. Như vậy nếu quyết định nói có ngã, thời đọa thân-kiến; quyết định nói không ngã, thời đọa tà-kiến. Lại thái quá và bất cập hai đều có lỗi: Nếu định nói không ngã, thế là thái quá; nếu định nói có ngã, thời là bất cập. Nên trong kinh nói: “Cần phải bỏ hai bên”. Nếu đệ-nhất-nghĩa-đế nên nói không; thế-đế nên nói có, gọi là bỏ hai bên đi giữa trung-đạo. Lại Phật-pháp là bất-khả tranh thắng. Nếu nói đệ-nhất-nghĩa-đế nên không, thời kẻ-trí chẳng hơn; nếu nói thế-đế nên có, thời phàm phu chẳng tranh. Lại Phật-pa là thanh tịnh trung-đạo phi-thường phi-đoạn. Đệ-nhất-nghĩa-đế không, nên phi thường, Thế-đế có nên phi đoạn.

Hỏi: nếu pháp đệ-nhất-nghĩa-đế nên không, lẽ phải là không hẳn, vì sao lại nói thế-đế nên có?

Đáp: Tất cả thế-gian có bao nhiêu lời nói là: Nghiệp và nghiệp báo, hoặc trói hoặc cởi mở thảy đều do si mà sinh. Tại vì sao? Vì ngũ-ấm là trống không, như trò huyễn, như ánh lửa nối nhau mà sinh vậy; vì muốn độ kẻ phàm phụ, nên mới tùy thuận nói có, nếu chẳng nói vậy là phàm phu mê muội hoặc đọa vào đoạn diệt. Nếu chẳng nói các ấm thời chẳng giáo hóa được, vì tội phước thảy nghiệp hoặc trói hoặc mở, đều chẳng thành lập được. Nếu phá được những lời si nầy thời tự năng vào được không lý. Bấy giờ không còn các tà-kiến. Vậy nên kế sau nói đệ-nhất-nghĩa-đế. Như ban đầu dạy quán thân để phá tướng nam nữ; kế đó lấy tóc lông móng thảy phân chia thân tướng chỉ có ngũ ấm. Sau rốt mới lấy không tướng để diệt tướng ngũ ấm. Diệt tướng ngũ ấm gọi là đệ-nhất-nghĩa-đế. Lại nếu nói thế-đế nên có, thời chẳng cần phải nói đệ-nhất nghĩa không có. Lại trong kinh nói: “Nếu biết các pháp không có tự-thể tính, thời năng vào không lý”. Nên biết ngũ-ấm cũng không có. Lại đệ-nhất-nghĩa không, trong kinh nói: “mắt thảy, vì đệ-nhất-nghĩa-đế nên không có; thế đế nên có”. Trong kinh đại không nói: “Nếu nói đây là già chết hoặc nói người nầy già chết như ngoại đạo nói thân tứ là Thần. Hoặc nói thân khác Thàn khác. Sự nghĩa là một, mà tên gọi khác”. Hoặc nói thân tức là Thần, thân khác Thần khác, là chẳng phải kẻ phạm hạnh. Nếu ngăn “người nầy già chết” tức nói vô ngã. Nếu ngăn “đây là già chết” tức phá lão tử, cho đến vô-minh. Cho nên biết trong đệ-nhất-nghĩa không có lão tử thảy. Nói sinh làm duyên cho lão tử, đều vì thế đế nên mới nói, gọi là trung đạo. Lại trong kinh La-Đà nói: “Đức Phật bảo La-Đà rằng: Sắc tán hoại phá vỡ khiến diệt chẳng còn hiện, cho đến thức cũng như thế”. Như vách đá thảy, vì chẳng thật nên có thể phá khiến chẳng còn hiện. Các ấm chẳng hiện cũng vì đệ-nhất-nghĩa nên không có. Tùy các ấm tướng tồn tại thời ngã tâm rốt ráo chẳng đoạn, vì nhân-duyên chẳng diệt vậy; như cây tuy đã bị đốn chặt, đốt cháy, cho đến thành tro than, như tư-tưởng cây hãy còn ám-ảnh. Nên tro than nầy bị gió thổi, nước trội, tưởng cây mới chịu diệt. Như vậy, nếu phá vỡ tán hoại diệt tướng ngũ-ấm, bấy giờ mới gọi là không tướng cụ-túc. Lại trong kinh nói: “La-Đà người phá vỡ tán hoại, chia chẻ chúng-sinh, khiến chẳng hiện còn”. Trong kinh nầy nói ngũ-ấm vô thường chúng-sinh trống không. Trong kinh trước nói ngũ-ấm tán diệt ấy là pháp không.

PHẨM BIÊN KIẾN THỨ 131

Nếu các pháp hoặc đoạn hoặc thường, đấy là biên-kiến, nghĩa là chấp chênh-lệch một bên. Có ông Luận-Sư nói: “nếu người nói ngã hoặc đoạn thường đây là biên-kiến, chứ chẳng phải tất cả pháp. Tại vì sao? Vì hiện thấy các vật bên ngoài có đoạn-diệt, nên trong kinh nói: “Thấy có, gọi là thường, thấy không, gọi là đoạn”. Lại thân tức là Thần gọi là đoạn-kiến, thân khác Thần khác gọi là thường-kiến. Lại chết rồi bất tác gọi là đoạn-kiến; chết rồi tác lại gọi là thường-kiến; chết rồi cũng tác cũng bất-tác, trong ấy chỗ có tác-giả gọi là thường; chỗ-bất-tác-giả gọi là đoạn: phi-tác phi bất-tác cũng như vậy.

Hỏi: Điều thứ tư nầy chẳng nên gọi kiến chấp?

Đáp: Vì người nầy đối với trong thế-đế cũng không có Người và Pháp nên gọi là kiến-chấp. Thường, vô thường; biên, vô biên thảy bốn câu cũng như vậy. Lại trong kinh nói: “Sáu xúc nhập diệt hết, mà còn có cái “khác” tức là thường, không còn cái “khác” tức gọi đoạn. Lại nếu chấp ngã trước tác, sau sẽ tác nữa gọi là thường-kiến; chấp ngã trước chẳng tác, sau cũng chẳng tác nữa, gọi là đoạn kiến. Lại kinh tà-kiến nói: “Thân người có bảy phần: đất, nước, lửa, gió, khổ, vui, thọ-mạng; nếu khi chết, tứ-đại quy về gốc, căn quy về hư-không”. Lại nói: “Lấy dao búa giết chúng-sinh chứa thịt thành đống, thời không tội sát-sinh, gọi là đoạn-kiến”. Và kinh Phạm-Võng nói đó là tướng đoạn-kiến. Nếu nói có kẻ tác-giả đời sau tức kẻ ấy là thọ-giả, gọi là thường-kiến.

Hỏi: Đoạn và thường-kiến sinh thế nào?

Đáp: Tùy theo bởi nhân-duyên nào đó nói: Chết rồi khởi trở lại nhân-duyên ấy nữa, nên mới sinh thường-biên-kiến. Tùy bởi nhân-duyên nào đó nói: chết rồi chẳng khởi nhân-duyên ấy nữa, nên sinh đoạn-diệt-kiến.

Hỏi: Kiến nầy làm sao dứt được?

Đáp: Chính nhờ tu tập không quán thời không có ngã-kiến. Vì không ngã-kiến nên không có chấp hai bên nữa. Như trong kinh Viêm-Ma già nói: “Nếu mỗi ấm chẳng phải là người, thời hòa-hiệp lại cũng chẳng phải người, mà ly ra cũng chẳng phải người. Hiện tại như vậy chẳng khá được, làm sao mà nói A-La-Hán chết rồi bất tác?” Vậy nên biết người chẳng khá được. Vì người chẳng khá được nên ngã-kiến và đoạn-thường-kiến cũng không.

Lại thấy các pháp do nhiều duyên mà sinh, thời không chấp hai bên. Lại như nói: Thấy thế-gian nhóm, thời dứt chấp không; thấy thế-gian diệt, thời dứt chấp-có. Lại vì hành trung đạo, nên diệt cả hai bên. Tại vì sao? Vì thấy các pháp nối nhau sinh luôn, thời dứt đoạn-kiến; thấy niệm niệm diệt thời dứt thường-kiến. Lại nói ngũ-ấm phi-tức ấm là người, cũng phi-ly-ấm là người. Cho nên biết chẳng phải thường chẳng phải đoạn. Vì năng được thân khác nên chẳng được nói là một; vì đều là chúng-sinh nên chẳng được nói là khác. Lại ngũ ấm nối nhau mới có chúng-sinh chết sống. Trong ấy chẳng được nói tức nơi đó; vì chỉ nối nhau luôn khác vậy; cũng chẳng được nói khác, vì trong nối nhau kia có thể nói một vậy. Lại nói: Vì từ ấm nầy đến ấm khác nhau, nên chẳng được nói thường; do sức nhân-duyên nối nhau sinh nên chẳng được nói đoạn.


PHẨM TÀ KIẾN THỨ 132

Nếu thật có pháp mà sinh tâm cho là không đấy gọi tà-kiến. Như nói không có tứ đế, Tam-bảo thảy. Trong kinh nói: “Tà-kiến là: Không thí, không thờ, không đốt, không lành, không dữ, không có nghiệp-bất lành dữ; không đời nay, không đời sau; không cha mẹ; không chúng-sinh thọ sinh thế-gian; không A-La-Hán chính-hành chính-trí, và tự mình rõ thấu chứng đời nầy đời sau; biết ta sinh tử đã hết, phạm-hạnh đã thành, sở-tác đã xong. Từ thân nầy trở đi không còn thân nào khác. Thí: là vì lợi-tha nên mới cho; Thờ: là những lời lẽ trong sách Vĩ-Đà do Trời mà có nên phải thờ; Đốt: là ở trong miễu thờ Trời đốt vật hương tô thảy; Lành: là năng được ba món ái-quả nghiệp lành; Dữ: là được ba món nghiệp dữ chẳng ái-quả; Nghiệp-báo lành dữ: là lành dữ đời nay danh tiếng thảy và quả-báo đời sau thân Trời thảy. Đời nay: là hiện tại; Đời sau: là vị lai; Cha mẹ: là kẻ năng sinh; Chúng-sinh thọ sinh: là từ đời nay đến đời sau; A-La-Hán: là kẻ hết phiền não nghĩa là không có những việc mà gọi là tà-kiến. Lại chúng-sinh dơ sạch, có biết thấy, không biết thấy đều không nhân-duyên. Lại không sức không mạnh và quả-báo nầy thảy, gọi là tà-kiến. Như vô thường tưởng là thường; khổ tưởng là vui; bất-tịnh tưởng là tịnh; vô-ngã, tưởng là ngã; phi thắng, tưởng là thắng; tịnh-đạo tưởng là phi tịnh-đạo; phi tịnh-đạo, tưởng là tịnh-đạo; trong không tưởng có, trong có tưởng không. Những tâm trái ngược như thế thảy, trong luận A-Tì-Đàm gọi là ngũ-kiến. Trong Phạm-Võng có sáu mươi hai kiến, đều gọi tà-kiến.

Hỏi: Tà-kiến nầy làm sao sinh?

Đáp: Bởi si nên sinh. Nhiễm đắm phi-nhân và tợ-nhân, nên mới sinh tà-kiến. Lại vì sau nhiễm đắm nhân vui nên bảo không khổ. Lại mất đạo-lý chân-không nên nói không khổ, vì cho không kẻ chịu khổ vậy. Như nói muôn vật trong thế-gian không nhân không duyên. Hoặc nói nhân nơi Trời Tự-Tại thảy chứ chẳng nhân nơi ái. Đấy gọi là không Tập. Tùy bởi nhân-duyên nào đó nói không Nê-Hoàn; hoặc nói Nê-Hoàn bằng một cách khác. Đấy gọi là không Diệt. Nếu không đạo Nê-Hoàn thời đến chỗ nào? Hoặc nói lại có đạo giải thoát khác là dứt tham thảy. Đấy gọi là vô-Đạo. Không Phật: là người nầy nói: các pháp nhiều vô-lượng mà làm sao một Người có thể biết hết được ư? Hoặc là nghĩ như vậy: Phật là bậc cao sang trong loài người, vì không người nào bằng, nên biết không Phật. Không hết phiền não, nên gọi không Pháp. Không kẻ chính-hành được Pháp nầy, nên gọi không Tăng. Bởi bố-thí chẳng được hiện-quả nên gọi không bố-thí. Lại có kinh sách nói không bố-thí. So sánh mà biết cũng chẳng quyết định: Thế-gian có kẻ ưa bố-thí mà lại nghèo cùng; kẻ tham lam mà được giàu sang. Do những nguyên nhân nầy nên nói không thí không thờ, không đốt cũng như vậy.

Nếu đem lửa đốt vật thành tro, trong ấy có những quả gì? Không lành dữ, không nghiệp báo lành dữ: Như nói Thần là thường thời không lành dữ, Nếu Thần vô thường thời không đời sau: vì không đời sau nên không lành dữ, không nghiệp báo lành dữ. Không đời nay: là chia chẻ các pháp, chung qui đều không có gì cả. Không đời sau: là tùy bởi chết rồi chẳng tác nhân duyên nghĩa là không đời sau. Không cha mẹ: là cũng đem từng phần chia chẻ khiến cho tiêu hết. Lại nói như do cục phân sinh trùng, cục phân dĩ nhiên chẳng phải cha mẹ con trùng. Lại thân phần đầu thảy, chẳng phải tức thân phần cha mẹ. Lại các pháp niệm niệm diệt, thời lấy gì làm cha mẹ? Không chúng-sinh thọ sinh: là vì pháp chúng-sinh không có, nên đời nay hãy không, huống là năng thọ thân đời sau. Lại duy nghĩ mà nói: thời chúng-sinh này là thân này hay là chẳng phải thân này? Nếu là thân nầy, thời mắt thấy thân nầy chôn làm đất; đốt thành tro; trùng ăn là thành phân nên không thọ sinh. Nếu là chẳng phải thân nầy thời có hai thứ: hoặc tâm, hoặc lìa tâm. Nếu là tâm, thời tâm pháp niệm niệm sinh diệt chẳng trụ, huống chi đến thân đời sau. Nếu lìa tâm, thời chẳng chấp ngã; với trong tâm kẻ khác hãy chẳng chấp ngã, huống là chỗ vô tâm. Vậy nên không kẻ thọ sinh. Không A-La-Hán: là người nầy thấy mọi người đói cầu ăn, lạnh cầu ấm, nóng cầu mát, hủy hại thời giận, kính nuôi thời mừng, nên không kẻ hết phiền não được. Lại kinh sách hoặc nói không A-La-Hán, do đó vin lấy kinh nầy nên sinh tà-kiến. Dơ sạch thảy không nhân-duyên: là người nầy thấy pháp dơ tự nhiên mà sinh. Và có thứ dơ tự thể nó dơ, nên mới nói vô nhân. Biết thấy không biết thấy cũng như vậy. Không sức không mạnh: là tất cả chúng sinh đều nhờ nhân-duyên hoặc có người nói ông Trời Tự-Tại mới có sở tác. Lại thấy chúng-sinh thuộc nghiệp nhân-duyên chẳng phải ông Tự-Tại, nên nói không sức mạnh và quả-báo này. Vô thường tưởng thường: là tùy đem nhân-duyên nào đó để phá niệm niệm diệt, nhờ nhân-duyên ấy nên sinh thường kiến. Lại nói các pháp khi diệt lại thành vi-trần; hoặc nói trở về bản-tính. Lại các pháp tuy diệt, vì nhớ tưởng, nên có thể chịu khổ vui, mới sinh trưởng là thường. Lại nói Thần là thường, âm thanh cũng thường. Vì những duyên cớ này nên sinh tưởng thường. Khổ: là kẻ ưa vui tùy đem nhân-duyên nào đó, bảo là có vui như trong phẩm tam-thọ trước đã nói. Do nhân-duyên nầy, nên sinh tưởng vui. Bất tịnh tưởng tịnh: là vì nhiễm đắm thân, nên mắt thấy bất tịnh mà sinh tưởng tịnh. Hoặc nghĩ như vầy: ta được nhân tướng thấy thân này chẳng tịnh, mà có chúng-sinh cho đó là tịnh. Do những nhân-duyên như thế nên sinh tưởng tịnh. Vô-ngã tưởng ngã: là thấy ấm nối nhau sinh, mới nhận lấy một tướng cho đó là ngã. Lại như trước đã nói nhân duyên sinh thân kiến. Vì những nhân-duyên nầy, nên sinh tưởng ngã. Chẳng hơn tưởng hơn: là người nầy đối với trong các thầy ngoại đạo Phú-Lan-Na thảy mà sinh thắng hơn. Lại Phạm-Vương tự nói: “Ta là Đại-Phạm-Thiên-Vương kẻ tạo ra muôn vật”. Như thế thảy. Có người nói: Nếu người hưởng vui ngũ dục đầy đủ, đấy là pháp hơn hết. Lại nói, nếu người ly dục vào sơ-thiền cho đến tứ-thiền, đấy là pháp rất hơn hết. Lại nói hiện thấy chúng-sinh trong thế-gian Bà-la-môn là cao cả, chứ chẳng phải hiện thấy trời trong chúng-sinh là cao tột. Đấy là chẳng hơn tưởng hơn. Hơn tưởng chẳng hơn: là trong tất cả chúng-sinh Phật là rất thù thắng, mà có người đối với Phật chẳng sinh tưởng hơn mà lại nói như thế nầy; là dòng sát-đế-lợi, lại là mới học Đạo không mấy ngày. Lại còn bảo: những lời trong Phật-pháp chẳng khéo đẹp, văn từ phiền phức trùng-điệp chẳng bằng sách Vi-Đà, đấy chẳng gọi là hơn. Trong chúng Tăng có bốn hạng người, vậy nên chẳng hơn. Như thế thảy với trong hơn sinh tưởng chẳng hơn.

Trong phi tịnh-đạo tưởng tịnh-đạo: Như người nói lấy tro nước thảy rửa người khiến cho trong sạch. Lại nói xong hết sinh tử gọi là thanh tịnh đạo. Lại chỉ tham đắm trì-giới, phạm hạnh, cúng dường Trời thảy. Cũng nói: Do Trời Tự-Tại nên được thanh tịnh. Hoặc nói tiêu hết bản nghiệp khổ hạnh, gọi là thanh tịnh. Lại mỗi khi muốn tắm rửa cho sạch phải đọc chú ngữ trong sách Vi-đà, nhiên hậu mới ăn uống, gọi là thanh tịnh đạo. Dùng các thứ tà đạo như thế thảy mà được giải thoát, chứ chẳng dùng bát-chính-đạo cho là thanh-tịnh-đạo. Trong có sinh tưởng không: Như trong pháp thế-đế có mà nói là không. Trong không sinh tưởng có: Như nói có đà-la-phiêu, có hữu-phần-giả, cũng nói có cầu-na số-lượng thảy cũng nói tổng tướng biệt tướng và chứa nhóm; cũng nói thế-tính thảy vô vật là có. Những nhân-duyên như thế thảy sinh tâm trái ngược, đều gọi là tà-kiến. Với trong tà-kiến nầy đặc-biệt bốn thứ kiến, thừa bao nhiêu điều nặng cũng đều gọi tà-kiến.

Hỏi: Tà-kiến nầy làm sao mà dứt?

Đáp: Trong kinh Phật nói chính kiến năng tiêu tà-kiến.

Hỏi: Làm sao sinh chính kiến?

Đáp:Như thấy, nghe, so sánh biết, chính quyết định là chính-kiến sinh. Lại khéo tu chính-định, thời sinh chính kiến. Như kinh nói nhiếp tâm năng như thật biết, chứ chẳng phản tán tâm vậy.

Hỏi: Tà-kiến nầy có những lỗi gì?

Đáp: Tất cả tội lỗi suy não đều bởi tà-kiến. Vì người ấy bảo: Không tội phước và nghiệp-báo lành dữ. Nên hiện tại họ không có các việc lành đẹp huống là đời vị-lai. Người phá lành dữ như vậy gọi là dứt gốc lành! Quyết định sẽ đọa a-tì địa ngục, như trong A-tì-đàm-lục-túc nói giết người nầy tội nhẹ hơn giết loại trùng kiến. Lại người tà-kiến nầy làm nhơ nhớp cõi đời, vì làm nhiều điều tổn giảm chúng-sinh nên lối sống của họ như cây độc-thọ sống làm não hại vậy. Lại người này khởi ra nghiệp thân-khẩu-ý đều là ác báo. Như trong kinh nói: “Người tà-kiến khởi ra nghiệp thân khẩu ý, nguyện muốn nghĩ nhớ, đều là ác báo, như trồng giống bầu đắng, giống câu-xa độc, quyết hại giống cây chu-mạn-đà”. Trong ấy có bao địa, thủy, hỏa, phong chưởng đều là vị đắng, vì trồng giống đắng vậy. Như vậy người tà-kiến các tâm-vương, các tâm-số-pháp, vì tà-kiến nên đều bị ác báo. Vậy nên người nầy dù có làm bố-thí thảy quyết không có quả-báo tốt, vì trước đã bị tâm tà-kiến làm hư hoại vậy. Người nầy gây ra những bất-thiện đều là thêm lên, vì chứa nhóm ác tâm đã lâu đời vậy. Lại nhờ giới-pháp mới có thể ngăn phi-pháp mà người nầy không có thiện ác nên không thể cấm kỵ họ được, nên rất là buông lung hoành hành những điều bất-thiện, quyết định phá vỡ hai pháp trong trắng là hỗ với trẽn, nên cùng với loài súc-sinh không khác! lại nếu người nói không thiện ác, là trong tâm người ấy thường ôm bất thiện. Lại người nầy không có nhân-duyên năng thọ thiện-pháp. Tại vì sao? Vì người ấy chẳng hay gần-gũi người lành, chẳng nghe thiện-pháp ác tâm dễ khởi, thiện-tâm khó sinh. Vì dễ khởi ác nên không nhân-duyên thiện. Như vậy dồn chứa thời dứt mất thiện-căn. Lại người tà-kiến nầy gọi là ở chỗ nạn xứ, như chúng-sinh trong địa ngục chẳng kham đắc Đạo. Nếu người nầy, dù sinh ở trung-quốc, đầy đủ sáu căn, năng phân biệt tốt xấu, nhưng cũng chẳng kham đắc Đạo. Lại người tà-kiến nầy không ác nào chẳng gây, chẳng kiêng cử nhẹ nặng. Lại họ gây chút bất-thiện cũng đọa địa ngục, vì nặng tội tâm khởi nghiệp nầy vậy, như trong phẩm Nghiệp giải thích nghiệp địa ngục. Vì những nhân-duyên này mà người ấy gây ra nghiệp đều là địa ngục. Lại người này chẳng hay hết nghiệp tội ác, vì pháp bất-thiện thường ở trong tâm vậy. Lại người nầy lần-lữa trong địa ngục khó được giải thoát. Tại vì sao? Vì người dứt căn lành trong khi căn lành chưa nối nhau quyết chẳng ra khỏi địa ngục; lại vì người nầy tà-kiến ở luôn trong tâm, thời căn lành làm sao sinh nối nhau lại được? Lại người tà-kiến gọi là bất-khả-tri, in như bệnh nhân mà tướng chết đã xuất hiện, dù có vị lương y cũng không trị được! Người nầy cũng vậy, vì không còn chút lành vậy. Cho đến các Đức Phật cũng chẳng cứu được. Vậy nên quyết phải đọa A-tì địa ngục


PHẨM NHỊ-THỦ THỨ 133

Đối với trong chẳng phải thật sự sinh tâm quyết định: Chỉ đây là sự-thật, kỳ dư đều là vọng-ngữ. Đấy gọi là kiến-thủ. Và như trước đã nói trong pháp chẳng hơn mà quyết định sinh tưởng cho là hơn, cũng gọi kiến-thủ.

Hỏi: Kiến-thủ có những lỗi gì?

Đáp: Người nầy được ít công-đức, rồi cho là tự-mãn. Lại người nầy uổng nhọc công-phu. Tại vì sao? Vì người ấy với trong việc phi-thiện mà sinh tưởng là diệu-thiện, rồi siêng năng tinh-tấn bởi nhân-duyên này về sau tâm sinh ăn-năn. Lại người nầy bị kẻ trí chê cười, vì với trong chẳng hơn mà sinh tưởng là hơn vậy. Lại nếu người chẳng hơn mà cho là hơn, là tướng ngu-si, in như kẻ mù đối với người sành ngói mà sinh tưởng là vàng bạc, bị kẻ sáng mắt cười cho xấu hổ. Kiến-thủ có những lỗi như thế.

Như những người bỏ trí-huệ mà dùng giới tắm rửa thảy mong được thanh-tịnh, gọi là giới-thủ.

Hỏi: Vậy thì chẳng cần giới mà được thanh-tịnh sao?

Đáp: Nhờ trí-huệ giới mới thanh-tịnh vì trí-huệ là căn-bản.

Hỏi: Giới-thủ có những lỗi gì?

Đáp: Thuyết ra lỗi kiến-thủ, và lấy việc tầm thường cho là mãn túc thảy, đều là lỗi ấy. Lại nhân-duyên giới-thủ uổng chịu các khổ nghĩa là chịu lạnh nóng, nằm trên tro đất, gốc cây, chông gai thảy; gieo mình xuống vực thẳm, nhảy vào lửa, tự nhào đầu xuống hố sâu thảy. Thì đời sau cũng chịu quả-báo khổ kịch liệt, Như trong kinh nói: “Trì giới trâu, nếu thành-tựu thời trở làm trâu, mà chẳng thành được thời đọa địa ngục”. Lại người nầy là hạng người từ tối vào tối, vì thọ pháp nầy đời hiện bị khổ, đời sau cũng khổ nữa. Lại người nầy bị tội rất nặng. Tại vì sao? Vì lấy phi pháp cho là pháp, rồi hủy hoại chân-pháp, và cũng bài báng những kẻ tu chính-pháp nữa, khiến nhiều chúng-sinh trái bỏ chân-tịnh-pháp, đọa trong vòng tội lỗi vậy. Vì chất chứa nhiều đại tội, nên bị quả-báo a-tì địa ngục. Thà chẳng tu còn hơn, chớ chẳng nên tu tà-đạo. Tại vì sao? Vì nếu từ trước chưa tu dễ khiến tu Đạo, chứ tu tà hư tâm, nên khó vào chính Đạo. Lại tuy là kẻ oán tặc chẳng hay khiến người suy não như sinh tà-kiến. Tại vì sao? Vì oán tặc chẳng hay làm ô uế người như chạy theo tà-kiến, chịu tu các tà giới ngoại đạo: Trần hình không hổ, xoa tro đất lên mình và nhổ tóc thảy vậy. Lại người tà-kiến đều mất thảy lợi vui thế-gian: hiện tại mất vui ngũ dục; vị lai mất vui sinh về cõi lành và vui Nê-Hoàn, nếu người cầu vui mà bị khổ, cầu giải thoát mà bị trói buộc, thì chẳng gọi là cuồng ư! Tại vì sao? Vì nhân-duyên thí một bữa ăn còn khá được sinh lên trời. Mà người nầy tu tà hạnh dù cho thí cả thân mạng vẫn không lợi ích gì!


PHẨM TÙY PHIỀN-NÃO THỨ 134

Tâm nặng nề muốn nhắm mắt gọi là nghỉ. Tâm nhiếp lìa thức tỉnh gọi là ngủ. Tâm tản duyên các trần gọi là trạo động. Tâm ôm gút lo gọi là ăn năn, chỗ gọi chẳng nên làm mà làm, nên làm mà chẳng làm. Tâm chiều uốn giả-dối lành gọi là khúc. Tâm dua dọc cầu thành sự gọi là gạt. Tự tác ác chẳng biết xấu gọi là không trẽn. Làm bậy giữa công chúng chẳng biết xấu chẳng e ngại gọi là không hỗ. Tâm chạy theo bất thiện gọi là phóng-dật. Thật không công đức mà tỏ muốn khiến người ta nhận có gọi là trá. Hiện tướng kỳ lạ vì cầu lợi dưỡng, dùng lợi-khẩu làm cho đẹp lòng người gọi là tham-dục. Vì muốn được vật của người, nên hiện tướng muốn được, như nói vật này tốt thảy, gọi là hiện tướng. Nếu vì muốn hủy nhục người nầy, nên ngợi khen người kia, như nói: “Thân phụ của ngươi tịnh-tiến, ngươi chẳng bằng vậy”, gọi là nói động mé. Nếu đem của thí đã được đề cầu của thí nữa, như nói: đây là vật thí do người nào đó mới cúng; những lối như thế gọi là dùng lợi để cầu lợi. Nếu người có bệnh ưa ngủ, gọi bệnh xưng đầy mắt. Nếu được chỗ tốt đầy đủ nhân-duyên hành đạo, mà thường buồn rầu, gọi là bất hỷ. Nếu người hay uốn mình, thân chẳng điều thích, vì nhân-duyên ngủ nghỉ, gọi là uể oải. Nều người chẳng biết điều hòa ăn uống nhiều ít, gọi là thực-bất-điều. Nếu bất kham tinh tiến, gọi là thoái tâm. Nếu các vị tôn trưởng có lời dạy bảo, mà chẳng kính sợ, gọi là chẳng tôn kính. Ưa vui kẻ ắc, gọi là ưa bạn ác. Những điều như thế gọi là tùy-phiền-não. Vì tùy-tòng mà sinh phiền não vậy.


PHẨM BẤT-THIỆN-CĂN THỨ 135

Ba bất-thiện-căn là tham, sân và si.

Hỏi: Những kiêu-mạn thảy lẽ cũng là bất-thiện-căn, tại sao chỉ nói ba món ấy ư?

Đáp: Tất cả phiền não đều do ba phiền não nầy; còn mạn thảy cũng là si phần nên chẳng nói rộng. Lại ba món phiền não nầy phần nhiều ở trong tâm chúng-sinh, mạn thảy chẳng phải vậy. Lại tham là bất-thiện-căn của sân, vì trái với sở-tham thời tùy đó mà sinh sân. Còn si làm gốc cho cả hai. Tại vì sao? Vì nếu người không si thời chẳng tham sân. Lại trong kinh nói mười-bất-thiện-nghiệp có ba món do tham-sân-si mà sinh chứ chẳng nói do mạn thảy mà sinh. Lại chỉ có ba món thọ, chứ không có món thứ tư; trong ba thọ nầy bị ba phần phiền não kia sai khiến; nếu riêng có mạn thảy thời sai khiến ở trong món thọ nào? Việc nầy thật chẳng nói được. Nên phải biết ba món nầy là gốc gác các phiền não.

Hỏi: Tại sao trong lạc-thọ bị tham sai khiến?

Đáp: Vì hiện thấy ở trong ấy sinh. Như trong kinh nói: “Người được lạc-xúc sinh mừng, khổ-xúc chẳng mừng”. Người nầy với trong các thọ: tập, diệt, vị, quá và xuất vì chẳng như thật biết vậy, nên với trong thọ chẳng khổ chẳng vui, bị vô-minh-sử sai khiến. Tại vì sao? Vì người nầy bị buộc trong cõi vô-sắc các ấm nối nhau, chẳng như thật biết, nên đối với trong ấy sinh tưởng tịch-diệt, hoặc tưởng giải thoát, hoặc tưởng chẳng khổ chẳng vui, hoặc tưởng ngã. Vậy nên mới nói trong thọ chẳng khổ chẳng vui sinh si.

Hỏi: Các món sử nầy là ở trong pháp mà sai khiến, hay là ở trong chúng-sinh mà sai khiến?

Đáp: Nhân pháp mà sinh tâm chúng-sinh; tùy tâm chúng-sinh mà lãnh các món thọ; tùy các món thọ tham thảy các phiền não sai khiến. Nên biết nhân pháp sinh sử rồi sai khiến chúng-sinh. Tại sao biết được? Vì nếu chúng-sinh chưa dứt sử nầy thời bị nó sai khiến; trái lại là chẳng còn khiến nữa. Nếu như trong pháp mà sai khiến, thời pháp là thường có, lẽ ra phải thường sai khiến, vì thường chẳng nên dứt vậy. Lại phi chúng-sinh-số lẽ cũng có sai khiến. Nếu như vậy thời như vì người sai khiến thời cái vách thảy cũng có sai khiến; vì người biết nên vách thảy lẽ cũng có biết. Việc nầy thật không thể được. Lại như vậy thời không A-La-Hán, vì người khác có sử, nên mình cũng có sử.

Hỏi: Sử nầy chưa dứt thời sai khiến, mà dứt rồi chẳng khiến?

Đáp: Hai món sử: một cảnh duyên sử; hai tương-ưng sử. Sử nầy hoặc dứt, hoặc chẳng dứt, tức là cảnh duyên và tương-ưng; tại sao nói dứt thời chẳng khiến? Nếu như vậy, lẽ phải nói tướng sử thứ ba? Vì không thể nói được, nên phải biết không có vậy. Lại sử năng duyên cõi khác mà chẳng sai khiến, nên biết chỉ sai khiến trong chúng-sinh, chứ chẳng phải trong pháp vậy.

Hỏi: Hai món sử một cảnh duyên hai tương-ưng. Các sử của chúng-sinh nầy, chẳng phải cảnh duyên, chẳng phải tương-ưng, làm sao mà sai khiến được?

Đáp: Việc nầy trước đã đáp: Các sử nhân pháp mà sinh và sai khiến chúng-sinh.Như trong A-tì-đàm thân-trung nói: “Chúng-sinh cõi Dục có bao nhiêu món sử sử thảy?”. Nếu chẳng sai khiến chúng-sinh làm sao có những câu hỏi như thế?

Hỏi: Nếu sử nó sử chúng-sinh, trong kinh lại nói trong lạc-thọ tham sử, thời trái nhau?

Đáp: Đấy là lời nói bất-tận. Nên phải nói đủ là: trong lạc-thọ sinh tham rồi sai khiến chúng-sinh.

Hỏi: Tham nầy cũng nhân sắc thảy mà sinh, cớ sao trong ấy chỉ nói nhân lạc-thọ mà sinh?

Đáp: Bởi nghĩ nhớ phân-biệt vui mừng thảy, nên tham mới sinh, chứ chẳng phải chỉ do sắc thảy mà sinh.

Hỏi: Nhân khổ-thọ cũng sinh tham, như nói kẻ vui chẳng cầu, kẻ khổ nhiều cầu. Cớ sao chỉ nói do lạc-thọ sinh?

Đáp: Chẳng vì khổ thọ nên sinh tham. Người này bị khổ làm bức ngặt, nên với trong lạc-thọ sinh tham.

Hỏi: Trong bất-khổ bất-lạc-thọ, cũng bị tham-sử sai khiến, cớ sao chỉ nói trong lạc-thọ?

Đáp: Người nầy cho bất-khổ bất-lạc-thọ là vui nên sinh tham, cho nên nói trong lạc-thọ tham sai khiến, vì trong ba món thọ nầy ba phiền não sai khiến, nên chỉ nói có ba.

Thành Thật luận hết quyển 11.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12443)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10313)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12294)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11591)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28752)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11989)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12964)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11399)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12316)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17385)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52928)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35428)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21322)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10647)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19175)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12371)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25954)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13285)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14329)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16041)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13683)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16802)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17504)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13096)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12493)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11568)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11557)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14466)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20381)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18915)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19504)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18572)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12149)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12270)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13808)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14943)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15005)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13945)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15486)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11357)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17126)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14909)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20126)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14581)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13798)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11670)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15008)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12956)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22826)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14524)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11606)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13129)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16836)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18307)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11914)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11470)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15810)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12832)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18863)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18360)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant