Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển Thứ 20

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 9913)
Quyển Thứ 20


THÀNH THẬT LUẬN 
Ngài HA-LÊ BẠT-MA tạo
Đời Diêu Tần Ngài TAM TẠNG CỰU MA LA THẬP dịch sang Hán Văn
Dịch giả: Tỳ-kheo THÍCH TRÍ-NGHIÊM

 

QUYỂN THỨ 20

 

PHẨM TAM TUỆ THỨ 194 

Tam-huệ: huệ nghe, hệ nghĩ và huệ tu. Do trong kinh thảy mười hai bộ mà sinh gọi là huệ nghe; vì nhờ đấy năng sinh vô-lậu thành-huệ nên gọi là huệ. Như trong kinh nói:: “Tỳ-kheo La-Hầu-La nay mới được thành-tựu hụê giải-thoát”. Tuy nghi Vi-đà thảy các kinh điển thế-tục mà chẳng hay sinh vô-lậu-huệ nên chẳng gọi huệ nghe. Nếu năng nghĩ lường nghĩa trong các kinh gọi là huệ nghĩ; như nói: hành-giả nghe Pháp rồi suy nghĩ nghĩa-thú. Lại nói: hành-giả nghe pháp suy nghĩ rồi phải tùy thuận mà tu, hoặc năng hiện tiền biết thấy thấy gọi là huệ tu; như nói: hành-giả ở trong Định tâm thấy ngũ-ấm sinh diệt. Như trong kinh nói: Tỳ-kheo các ngươi! Tu tập thiền-định sẽ được như thật hiện tiền biết thấy. Lại trong kinh Thất-chính-trí nói: “nếu Tỳ-kheo biết pháp gọi huệ nghe; biết nghĩa gọi huệ nghĩ; biết thời giờ thảy gọi huệ tu. Lại như La-Hầu-La đọc-tụng bộ ngũ-thọ-ấm gọi huệ nghe; riêng chỗ nghĩ nghĩa gọi huệ nghĩ, sau khi đắc Đạo gọi huệ tu. Lại trong kinh nói ba món đồ gậy: gậy nghe, gậy lìa và gậy huệ. Gậy nghe gọi là huệ nghe; gậy lìa gọi là huệ nghĩ, gậy huệ gọi huệ tu. Lại trong kinh nói nghe pháp có năm lợi: “chưa nghe thời nghe, nghe rồi rõ ràng, dứt nghi chính-kiến, dùng huệ thông-đạt nghĩa-thú thẳm sâu”. Chưa nghe thời nghe nghe rồi rõ ràng gọi huệ nghe; dứt nghi chính-kiến là gọi huệ nghĩ; dùng huệ thông-đạt nghĩa-thú thẳm sâu là gọi huệ tu. Lại trong Văn-pháp-lợi nói: “Hành-giả đem tai nghe Pháp, đem miệng tụng tập là gọi huệ nghe; đem ý nghĩ lường là gọi huệ nghĩ; đem thấy thông-đạt là gọi huệ tu”. Lại trong bốn phần Tu-Đà-Hoàn nghe chính pháp là gọi huệ nghe; chính nhớ nghĩa gọi huệ nghĩ; tu theo pháp là gọi huệ tu. Lại trong năm giải-thoát môn: Theo kẻ Tôn-trưởng nghe pháp là gọi huệ nghe thông đạt ngữ nghĩa là gọi huệ nghĩ; sinh vui mừng thảy là gọi huệ tu. Lại trong kinh nói: “Pháp Phật đã nói ra ba thời lành thảy. Thiện nam tử! hoặc kẻ trưởng hoặc người ấu nghe Pháp sinh nghĩ: tại-gia ồn-ào, xuất-gia vắng lặng. Nếu chẳng xuất-gia thời chẳng năng tịnh tu hiện pháp. Liền bỏ sở-hữu thân thuộc tài vật, xuất-gia trì-giới giữ hộ các căn; oai nghi đường hoàng. Riêng chỗ suy nghĩ, xa lìa năm món che, mới chứng được sơ-thiền thảy, cho đến hết lậu”. Trong ấy trưởng ấu nghe Pháp là gọi huệ nghe; nghĩ tại-gia ồn ào, xuất-gia vắng lặng là gọi huệ nghĩ; xa lìa năm món che cho đến hết lậu là gọi huệ tu.

Lại trong kinh nói: “Nhờ hai nhân-duyên mới năng sinh chính kiến: theo người nghe Pháp; tự chính nghĩ nhớ.” Theo người nghe pháp là huệ nghe; tự chính nghĩ nhớ là huệ nghĩ; năng sinh chính kiến là huệ tu. Lại bài kệ nói: quen gần người lành, nghe lãnh chính-Pháp, vui ở chỗ riêng, uốn đẹp tự tâm. Trong ấy quen gần người lành, nghe lãnh chính-Pháp là gọi huệ nghe; vui ở chỗ riêng là gọi huệ nghĩ, uốn đẹp tự tâm là gọi huệ tu. Lại Phật dạy các Tỳ-kheo: “Các ngươi! Mỗi khi nói năng phải nói tứ-đế; mỗi khi suy nghĩ nên nghĩ tứ-đế”. Trong đây nếu nói tứ-đế thì huệ nghe; suy nghĩ tứ-đế là huệ nghĩ; được tứ-đế là huệ tu. Như vậy thảy nhiều chỗ trong kinh Phật nói ba món huệ.

Hỏi: Ba huệ nầy mấy cõi Dục, mấy cõi Sắc và mấy cõi Vô-sắc?

Đáp: Hai cõi Dục Sắc có tất cả. Như ông Thủ cư-sĩ sinh về cõi trời vô nhiệt, nói Pháp trong ấy. Nếu người nói Pháp phải nghĩ nghĩa. Nên biết cõi Sắc cũng có huệ nghĩ. Trong cõi Vô-sắc chỉ có huệ-tu.

Hỏi: Có người nói cõi Dục không huệ tu, cõi Sắc không huệ nghĩ. Việc nầy thế nào?

Đáp: Vì lý do nào mà cõi dục không huệ tu?

Hỏi: Vì Đạo cõi Dục chẳng năng dứt các che, ngăn các buộc, vì món khiến món buộc cõi Dục chẳng hiện tại tiền.

Đáp: Trong Phật-Pháp không có lời nói nầy: Vì đạo cõi Dục chẳng năng dứt các che, ngăn các buộc, hai món khiến buộc cõi Dục chẳng hiện tại tiền. Mà lại nói vì Đạo cõi Dục năng phá phiền não. Tại vì sao? Vì cõi Dục có bất-tịnh quán thảy. Như trong kinh nói: “Khéo tu bất-tịnh quán năng phá tham dục”. Lòng Từ thảy cũng như vậy.

Hỏi: Cõi Dục nầy bất tịnh quán chẳng hay dứt hẳn phiền não?

Đáp: Bất-tịnh quán thảy cõi Sắc cũng chẳng năng dứt các phiền não rốt-ráo.

Hỏi: Dùng thô trọng chẳng điều thích thảy các hành năng dứt phiền não chứ chẳng phải bất-tịnh thảy?

Đáp: Không có kinh nào nói thô thảy năng dứt phiền não mà bất-tịnh thảy bất năng? Mà trong kinh nói dùng quán bất-tịnh thảy năng dứt phiền não. Lại thô thảy có thế lực gì năng dứt phiền não mà bất-tịnh thảy bất năng? Lại nếu cõi Dục có thô thảy hành nếu dùng hành ấy để dứt các phiền não; nếu không, phải nói lý do? Vì sao có bất-tịnh thảy mà không thô thảy? Nếu có mà chẳng dứt phiền não? Cõi Sắc tuy có cũng chẳng thể năng dứt ấy cũng nên nói lý-do? Vì sao cõi Dục chẳng năng mà cõi Sắc lại năng?

Hỏi: Cõi Dục tuy có thô thảy mà chẳng năng dứt các phiền não là vì cõi tán-loạn vậy. Kẻ tán-loạn-tâm không thể năng dứt như trong kinh nói nhiếp-tâm là Đạo, tán-tâm phi Đạo?

Đáp: Cần nói lý do vì sao cõi Dục gọi cõi tán-loạn? Trong ấy có bất-tịnh quán thảy, nếu là cõi tán-loạn làm sao năng quán cốt thảy các tướng biến khác. Lại cõi Sắc nhiếp-tâm có tướng gì khác mà cõi Dục không có?

Hỏi: Vì Đạo cõi Sắc năng được ly-dục. Ở trong đây chết sinh về cõi Sắc như lấy cái nêm để tháo nêm?

Đáp: Sao gọi ly-dục?

Hỏi: Dứt phiền não gọi ly-dục. Vì Đạo cõi Sắc năng dứt phiền não chứ chẳng phải cõi Dục.

Đáp: Các ngoại-đạo dứt gút rồi, rồi khởi lại sinh về cõi Dục. Vậy nên phàm phu chẳng gọi dứt gút tức là dứt phiền não. Nếu dứt rồi lại sinh thời dứt gút vô-lậu lẽ cũng sinh lại? Việc ấy chẳng thể được. Lại trong kinh nói ba gút rồi mới năng dứt ba món độc. Phàm phu chẳng nnưg dứt ba gút nên không được ly-dục. Lại phàm phu chẳng năng dứt ba gút nên không được ly-dục. Lại phàm phu thường có ngã-tâm thảy nên không có thể năng dứt thân kiến thảy. Nếu phàm phu năng ly-dục ấy, tất cả phiền não lẽ đều chẳng có. Tại vì sao? Vì tất cả phiền não đều do nhiều duyên mà thành, như trong kinh nói do nhiều duyên thành ngã. Nếu phàm phu nầy đối với ngũ-ấm cõi Dục chẳng khởi thân-kiến mà lại chưa được các ấm cõi trên, vậy thời lẽ chẳng phải không có thân-kiến? Có những lỗi như thế. Như vậy phiền não phải cần dứt hẳn hết; phàm phu nầy lẽ là La-Hán? Mà thật phiền não chẳng được dứt hết. Như trong kinh nói: “Nghe tiếng sấm lớn hai hạng người chẳng sợ: Chuyển-luân Thánh-Vương và A-La-Hán”. Nay phàm phu nầy lẽ cũng chẳng sợ?

Lại A-La-Hán sống chẳng mừng, chết chẳng sợ, như A-La-Hán Ưu-Ba-Tư-Na bị phải rắn cắn, khi mạng sắp chung các căn chẳng đổi khác nhau sắc chẳng biến. Người nầy lẽ cũng như vậy? Lại A-La-Hán, tám pháp của thế-gian chẳng năng che tâm. Người nầy lẽ cũng như vậy, vì đã ly dục. Mà thật phàm phu tuy nói ly-dục đều không các tướng nầy. Nên biết chẳng dứt phiền não.

Hỏi: Phàm phu năng dứt phiền não, vì mạng chung nơi đây vãng-sinh cõi Sắc, nếu chẳng dứt làm sao sinh kia được? Trong kinh cũng nói có ngoại-đạo ly-dục. Lại nói A-La-La-Ca-La-Ma Uất-Đầu-Lam-Phất bỏ lìa cõi Dục cõi Sắc sinh về cõi Vô-sắc. Lại nói dùng Sắc lìa dục, dùng vô-sắc lìa Sắc, dùng Diệt lìa khởi nghĩa nghĩ-niệm. Vậy nên ông nói phàm phu tuy dứt phiền não mà sinh trở lại nên chẳng gọi là dứt. Việc ấy chẳng phải lẽ. Ông cũng nói phàm phu có dứt bao nhiêu đều thật là ngăn, chỉ gọi là dứt lìa, kỳ thật chẳng dứt thôi. Thật chẳng ly-dục nói gọi ly-dục. Như trong kệ nói: Nếu nghĩ ngã, ngã-sở, chết đến mới năng dứt; trẻ nít chơi giỡn đất, khi còn yêu tham giữ; nếu khi lòng chán đã, liền phá mà bỏ đi. Đấy cũng gọi ly-dục. Nhưng ngoại đạo dứt cùng chết dứt có khác: Chết dứt chẳng sinh cõi Sắc, vô-sắc; trẻ nít bỏ đất tuy là cúng-dường nhưng không quả-báo lớn. Lời nói tuy đồng nghĩa mà nghĩa thời khác. Vậy nên biết phàm phu thật có đoạn-ly?

Đáp: Trong pháp ngăn chận có sai khác. Nếu năng ngăn phiền não sâu thời sinh hai cõi Sắc, vô-sắc. Lại nếu năng ngăn thân-kiến như trước đã nói lỗi; nếu chẳng năng ngăn thân-kiến cõi Dục làm sao năng sinh cõi Sắc, vô-sắc. Chỉ năng ngăn tham giận nên sinh cõi Sắc. Chẳng năng thân-kiến thảy. Nên biết phàm phu thật chẳng năng dứt gút. Cõi Dục cũng có pháp lành năng ngăn phiền não, nên biết cõi Dục cũng có tu huệ. Lại trong kinh nói trừ bảy chỗ nương cũng hứa cho Đắc-Đạo. Nên biết nương Định cõi Dục năng sinh chân-trí.

Hỏi: Người nầy nương sơ-thiền cận địa được A-La-Hán chẳng phải Định cõi Dục?

Đáp: Chẳng phải. Nói trừ bảy chỗ nương là trừ cả sơ-thiền và cận địa rồi. Lại trong ấy không có nhân-duyên năng nương cận địa mà chẳng phải Định cõi Dục. Nếu hành-giả ấy năng vào cận-địa tại sao chẳng năng vào sơ-thiền ư? Việc nầy cũng không lý-do. Lại trong kinh Tu-Thi-Ma nói: “trước pháp trụ-ttrí, sau Nê-Hoàn-trí”. Nghĩa nầy bất tất trước được thiền-định mà sau mới hết lậu, chỉ quyết dùng pháp-trụ-trí làm đầu, nhiên hậu hết lậu. Nên biết trừ các thiền-định. Trừ các thiền-định nên mới nói kinh Tu-Thi-Ma. Nếu thọ cận-địa, tức lỗi đồng các thiền. Lại không có kinh nào nói tên cận địa. Đấy ngươi tự nhớ tưởng phân-biệt mà thôi.

Hỏi: Trước tôi nói dụ cái nêm. Nên biết lấy Đạo bực khác năng dứt gút bực khác, như lấy nêm nhỏ năng tháo nêm lớn. Như vây lấy Đạo cõi Sắc năng dứt cõi Dục. Hành-giả, nếu trước dứt Dục và pháp ác bất thiện, nhiên hậu năng vào sơ-thiền. Nên biết chắc có cận địa lấy Định dứt Dục. Lại nói nhân sắc lìa dục. Nếu không cận địa làm sao nhân sắc. Lại trong kinh nói: “Nếu hành-giả được vui tịnh thời năng bỏ vui bất tịnh”. In như Nan-Đà nhân được thiếu nữ yêu mới bỏ được vợ nhà. Lại nếu kẻ chẳng được sơ thiền tịch diệt vị thời với ngũ dục chẳng thể sinh tâm hèn tệ. Vậy nên biết trước được sơ-thiền cận địa mới năng bỏ cõi Dục?

Đáp: Được tịnh thiện cõi Dục năng dứt bất thiện, như năm món xuất tính. Như Thánh đệ-tử hoặc niệm ngũ-dục mà chẳng sinh vui mừng, tâm chẳng thông hòa như đốt gân lông; nếu nghĩ xuất pháp là tâm thông suốt. Lại nói hành-giả tùy khi sinh Giáo quán bất thiện liền lấy thiện-giác-quán mà diệt. Vậy nên ngươi nói dụ tháo nêm cũng có thể là cõi Dục. Ngươi nói nhân sắc lìa dục là việc sau cùng. Hành-giả dùng Đạo cõi Dục dứt các phiền não, tùy theo thứ lần dứt, cho đến năng được thiện pháp cõi Sắc, bấy giờ mới dứt cõi Dục rốt ráo được pháp cõi Sắc, ngươi nói diệt-tận-định A-La-Hán cũng được các Định. Đó chỉ nói quả cuối cùng. Ngươi nói được vui tịnh-diệu và tịnh diệt vị đều đã đáp chung. Lại nếu cõi Dục không Định làm sao năng dùng tản tâm chứng được thiện cõi Sắc?

Hỏi: Huệ giải-thoát A-La-Hán không Định cũng chỉ có huệ?

Đáp: Trong ấy chỉ ngăn thiền-định; chắc phải có thời gian ngắn nhiếp tâm, cho đến một niệm. Như trong kinh Phật nói: “Tỳ-kheo khi lấy áo có ba độc, mặc rồi mới diệt”. Không có kinh nào nói trong tán loạn, tâm năng sinh chân trí, mà đều nói nhiếp tâm như-thật-trí.

 

PHẨM BỐN VÔ-NGẠI-TRÍ THỨ 195

 

Hỏi: Có thế-trí cận-pháp-vị, có phải vậy không?

Đáp: Đấy là trí trong Noãn-Pháp thảy năng phá giả-danh. Trí nầy dùng thế-tục thấy Đế-lý nên gọi thế-trí; cận Thánh Đạo nên gọi cận-pháp-vị.

Hỏi: Trong thấy Đế-Đạo là trí tu vị-lai thảy?

Đáp: Không có trí tu vị-lai thảy ra sao sẽ nói tại vì sao? Vì trong pháp-tướng không có tâm giả-danh, vậy nên trong thấy Đế-Đạo chẳng tu thế-trí.

Hỏi: Trong kinh có bốn vô-ngại-trí, có phải vậy không?

Đáp: Như vô-ngại-trí trong danh-tự gọi là pháp-vô-ngại; vô-ngại-trí trong ngôn-âm gọi là từ-vô-ngại nghĩa là khác phương khác tục nên tiếng tămlời nói sai khác. Như trong kinh nói “Hành-giả chẳng nên tham đắm tiếng tăm của cõi nước”. Hoặc có lời tiếng nghĩa bất-tiện và khó hiểu. Nếu không có danh-tự thời nghĩa chẳng rõ được. Cứ nơi ngôn-từ nầy chẳng lưu-ngại chẳng cùng tận gọi là lạc-thuyết-vô-ngại. Như trong kinh nói: “Có bốn lối thuyết-pháp: Hoặc thuyết có nghĩa-thú mà không được vô-lậu; có được vô-lậu mà không nghĩa-thú; có được cả hai; có cả hai đều hỏng.” ba món nầy gọi là ngôn từ phương tiện. Trí vô-ngại biết nghĩa trong danh ngữ gọi là nghĩa vô-ngã. Như nói có bốn lối thuyết-pháp: Có nghĩa phương tiện không ngữ phương tiện; có ngữ phương tiện không nghĩa phương tiện; có đủ hai phương tiện; có cả hai đều không phương tiện. Nếu người năng được bốn vô-ngại-trí đấy là đầy đủ phương tiện. Bực Trung Thượng Thuyết-pháp khó đáp lạii khó gần lạc-thuyết vô-lậu, cũng có nghĩa-thú trí-huệ vô cùng ngôn từ không bị ngăn trệ.

Hỏi: Làm thế nào sẽ được vô-ngại-trí nầy?

Đáp: Nhờ nghiệp nhân-duyên đời trước nên được. Nếu có thể đời đời khéo tu nhân-duyên trí-huệ và phương tiện các ấm, vì sức tu tập nên đời nay tuy chẳng học tập văn-tự, độc tụng kinh điển nhưng cũng có thể được như thiên nhãn thông thảy.

Hỏi: Hạnh người nào có thể được?

Đáp: Duy thánh-nhân năng được. Có người nói chỉ A-La-Hán được, chẳng phải kẻ học-nhân. Lời nầy bất tất vậy, học nhân cũng năng được tám món giải-thoát, tại sao chẳng năng được trí nầy?

Hỏi: Bốn vô-ngại nầy ở cõi nào?

Đáp: Hai cõi Dục Sắc có tất cả, trong cõi vô-sắc duy có nghĩa vô-ngại. Vô-ngại có hai thứ hữu-lậu và vô-lậu. Học-nhân đủ hai thứ, vô-học duy có vô-lậu. Nếu được thời nhất thời được hết. Nữ nhân được được. Như Tỳ-kheo-ni Đàm-Ma-Trần-Na vậy.

 

 PHẨM NĂM TRÍ THỨ 196

 

Năm trí: Pháp-trụ-trí, Nê-Hoàn-trí, Vô tránh-trí, Nguyện-trí và Biên-tế-trí. Biết các pháp sinh khởi gọi là pháp-trụ-trí, như sinh duyên lão tử cho đến vô-minh gọi là pháp-trụ-trí. Pháp nầy diệt gọi Nê-Hoàn-trí, như sinh diệt nên lão tử diệt cho đến vô-minh diệt nên các hành cũng diệt theo.

Hỏi: Nếu vậy là Nê-Hoàn-trí cũng gọi pháp-trụ-trí. Tại vì sao? Vì nếu có Phật hay không Phật tính nầy vẫn thường trụ vậy?

Đáp: Diệt hết các pháp gọi là Nê-Hoàn. Trong diệt hết ấy còn có pháp gì mà trụ được?

Hỏi: Nê-Hoàn chẳng phải thật có sao?

Đáp: Ấm diệt không còn nên gọi Nê-Hoàn. Trong ấy còn có gì nữa?

Hỏi: Thật có Nê-Hoàn. Tại sao biết được? Diệt Đế gọi Nê-Hoàn. Khổ thảy các Đế thật có, nên Nê-Hoàn lẽ phải có thật. Lại trí trong Nê-Hoàn gọi diệt-trí. Nếu không có pháp làm sao sinh trí? Lại trong kinh Phật vì các Tỳ-kheo nói; “Có sinh khởi làm hữu-vi pháp, có chẳng sinh khởi làm vô-vi pháp”. Lại trong kinh nói: “Duy có hai pháp: hữu-vi và vô-vi”. Hữu-vi pháp có sinh diệt trụ dị; vô vi pháp không sinh diệt trụ dị. Lại trong kinh nói: “Có bao nhiêu pháp hoặc hữu-vi hoặc vô-vi diệt hết Nê-Hoàn, duy đấy là cao thượng”. Lại nói: sắc là vô thường, diệt sắc nên Nê-Hoàn thường, cho đến thức cũng vậy. Lại trong kinh nói: “Diệt cần phải chứng”. Nếu không pháp chứng thứ gì? lại Phật nói ở trong Đa-tính kinh: “Kẻ trí như thật biết tính hữu vi và vô vi”. Tính vô-vi tức là Nê-Hoàn, dùng chân trí mà biết làm sao nói không? Lại trong các kinh không quyết định nói Nê-Hoàn là vô-pháp. Vậy nên biết ông tự nhớ tưởng phân-biệt bảo không Nê-Hoàn?

Đáp: Nếu lìa các ấm lại pháp khác gọi Nê-Hoàn ấy, thời chẳng nên gọi các ấm diệt hết cho là Nê-Hoàn. Lại nếu có Nê-Hoàn cần nói ra thể nó là thế nào? Lại Định duyên Nê-Hoàn gọi là vô-tướng, nếu pháp tướng vẫn còn ấy sao gọi vô-tướng được? Như trong kinh nói: “Hành-giả thấy sắc tướng dứt, cho đến thấy pháp tướng dứt”. Lại trong kinh chỗ chỗ đều nói: “Tất cả hành vô thường, tất cả pháp vô-ngã, tịch-diệt Nê-Hoàn”. Ngã trong ấy gọi là thể tính các pháp. Nếu chẳng thấy thể tính của các pháp mà gọi là thấy vô-ngã ấy, hoặc Nê-Hoàn thời pháp ấy không có thể-tính chẳng thể thấy được, vì pháp nầy chẳng diệt vậy. Như khi tùy có cái bình thời không pháp bình hoại; nếu khi bình hoại thời mới được nói bình hoại. Chặt cây thảy cũng như vậy. Như vậy nếu các hành hãy còn bấy giờ chẳng gọi Nê-Hoàn, vì các hành diệt mới có tên Nê-Hoàn. Lại khổ diệt chẳng gọi còn có pháp riêng, như trong kinh nói: “Các Tỳ-kheo! nếu khổ nầy diệt khổ khác chẳng sinh, không còn nối nhau, chỗ ấy là đệ-nhất tịch-diệt yên-ổn”. Chỗ gọi bỏ lìa tất cả thân tâm lìa diệt hết hẳn tham-ái Nê-Hoàn. Trong ấy nói dứt khổ nầy khổ khác chẳng sinh, đâu còn có pháp gì gọi Nê-Hoàn ư? Lại cũng không riêng còn có tận-pháp? Chỉ ái đã sinh diệt, ái chưa sinh chẳng sinh, bấy giờ gọi Tận, lại đâu còn có pháp gì nói gọi là Tận ư? Thật chẳng thể nói được! Lại nữa, có pháp dị-danh nầy là ngũ-ấm pháp không có mà gọi là Nê-Hoàn; trong ấy không mà gọi là có, đây là không thể được, vì diệt hết nên nói là Nê-Hoàn. In như hết áo lại không pháp riêng, nếu chẳng như vậy lẽ cũng phải riêng có pháp hết áo thảy. Ngươi nói có diệt-trí ấy cũng không hại gì, như với việc chặt cây thảy trí sinh cũng không riêng có pháp chặt. Lại do các hành nên trí sinh trong ấy nghĩa là tùy các hành không còn gọi là Nê-Hoàn, như tùy không có vật ấy biết vật ấy không có.

Hỏi: Nay không có Nê-Hoàn sao?

Đáp: Chẳng phải không Nê-Hoàn, chỉ không thật pháp. Nếu không có Nê-Hoàn thời thường ở trong sinh tử hẳn không mong ngày giải-thoát. Như bình bị vỡ cây bị chặt, chỉ chẳng phải thật có riêng. Nói các Đế khác thảy đều đã chung đáp. Tại vì sao? Vì có khổ diệt nên mới nói có các pháp bất-sinh bất-khởi bất-tác vô-vi thảy dều không hại gì. Vô-tránh-trí: Tùy dùng trí nào đó chẳng tranh cãi cùng kẻ khác gọi là vô-tránh. Có người nói chính là từ-tâm đó vậy. Vì từ-tâm nên chẳng não hại chúng sinh. Lại có người nữa nói chính là hành vậy. Vì không hành chẳng cùng với vật mà tranh. Lại có người khác nữa nói chính là tâm vui Nê-Hoàn vậy, vì tâm vui Nê-Hoàn nên không tranh cãi làm gì. Cũng còn có người nói nữa: Ở trong đệ-tứ-thiền. Lời này bất tất vậy. Vị A-La-Hán ấy dùng trí nầy tu tập nên không tranh cãi làm vì. Nguyện trí: Đối với trong các pháp trí không ngăn ngại gọi là nguyện trí.

Hỏi: Nếu nói như vậy duy Phật Thế-Tôn độc-đắc trí nầy?

Đáp: Chính như vậy. Duy Phật Thế-Tôn mới đầy đủ trí này. Còn người khác tùy sức sở cập mà được không ngăn ngại. Biên-tế-trí: Tùy kẻ hành-giả được trí tối thượng, nhờ tất cả thiền-định huân tu tăng trưởng; như đối với trong mạng sống lâu tăng tổn thảy được sức tự tại gọi là biên tế trí tức trí có chừng ngăn. 

 

PHẨM LỤC-THÔNG-TRÍ THỨ 197

 

Có sáu thông trí. SÁU THÔNG: Thân-thông, Thiên-nhãn, Thiên-nhĩ, Tha-tâm-thông, Túc-mạng và Lậu-tận. Thân thông là thân hành-giả luôn ra nước lửa, bay bổng lên nắm bắt mặt trời trăng và ẩn hiện, bay đến cõi Phạm-tự-tại và các pháp biến hóa. Các hành nghiệp như vậy thảy gọi là thần thông.

Hỏi: Việc ấy làm sao thành công được?

Đáp: Hành-giả tham tu thiền-định nên được. Như trong kinh nói sức kẻ thiền-định bất-khả-tư-nghì. Có người nói biến hóa là tâm vô ký. Việc nầy chẳng phải lẽ. Vì nếu hành-giả ấy vì lợi tha mà hiện các món biến hóa thì làm sao gọi vô ký được? Có người nói dùng tâm cõi Dục làm biến hóa cõi Dục, tâm cõi sắc làm biến hóa cõi Sắc. Lời ấy cũng chẳng phải lẽ. Mắt thảy lẽ cũng như vậy, có thể dùng thức cõi Dục thấy cõi Sắc ư? Như vậy thảy nếu tâm cõi Sắc làm biến hóa cõi Dục đâu có lỗi chi? Lại có người nói thần thông sơ thiền năng đi đến cõi phạm thế, cho đến thần thông tứ thiền năng đến cõi Sắc-cứu-cánh. Đấy cũng chẳng phải lẽ. Tùy căn lực sở cập: nếu kẻ lợi căn dùng thần thông sơ thiền năng đến tứ-thiền; kẻ độn căn dùng thần thông nhị thiền chẳng năng dùng sơ thiền như Đại-Phạm-Vương đến thiền trung gian, trong ấy không thần thông, vì sức sơ thiền năng đến cõi phạm thiên, liền dùng sơ thiền chẳng năng biết phạm vương ở chỗ nào. Lại Phật dùng túc mạng nghĩ nhớ cõi vô-sắc, Như trong kinh nói: “Nếu có chỗ sinh đời trước trong cõi Sắc và vô-sắc Phật đều nhớ biết”. Vậy nên chẳng nhất định. Lại có người nói thiên nhãn là huệ tính. Việc nầy cũng chẳng phải. Thiên nhãn do ánh sáng, mà thành huệ chẳng phải như vậy.

Hỏi: Trong kinh nói tu tướng ánh sáng năng thành tri kiến. Tri kiến tức là thiên-nhãn?

Đáp: Chẳng phải. Cũng nói thiên nhĩ của dùng huệ-tính, gọi đó là nhĩ, nên chẳng phải huệ vậy. Lại thiên nhãn duyên sắc hiện tại, ý-thức chẳng vậy. Lại trong lời giải thiên nhãn nói biết nghiệp báo chúng sinh. Nhãn thức không có sức nầy, chỉ trong ý thức khi biết dùng nhãn thức mà sinh vậy, như do thiền-định sinh sắc gọi là thiên nhãn.

Hỏi: Hình chỗ thiên nhãn lớn nhỏ?

Đáp: Chừng bằng tròng mắt.

Hỏi: Người mù thế nào?

Đáp: Cũng bằng chỗ mắt.

Hỏi: Thiên nhãn là một hay hai?

Đáp: Là hai.

Hỏi: Tùy ngó hướng nào thấy hướng ấy sao?

Đáp: Thấy khắp các hướng.

Hỏi: Hóa nhân cũng có sao?

Đáp: Không có. Kẻ tạo hóa có Luận thiên-nhĩ cũng như vậy.

Hành-giả nếu biết tâm kẻ khác gọi là tha-tâm-trí.

Hỏi: Tại sao chẳng nói biết tâm-số kẻ khác?

Đáp: Vì nhân-duyên nầy nên không có tâm-số riêng là biết thọ tưởng thảy của kẻ khác cũng gọi là tha-tâm-trí. Lại có người nói: trí nầy đồng tính duyên, như dùng hữu-lậu, vô-lậu biết vô-lậu. Việc nầy chẳng phải lẽ. Người nầy chẳng nói nhân-duyên quyết định, vì nhân-duyên ấy biết đồng-tính-duyên. Có người nói chỉ duyên hiện-tại. Đấy cũng chẳng phải. Hoặc duyên vị-lai như người vào Định vô-giác, biết từ Định nầy khởi, sẽ giác biết những việc như thế như thế. Có người nói trí nầy chẳng biết kiến-đế-đạo. Lời nầy cũng chẳng phải. Nếu biết có lỗi gì? Cố thuyết nói: “Bích-Chi-Phật muốn biết kiến-đế-đạo trong tâm thứ ba, tức thấy tâm thứ bảy; Thanh Văn muốn biết tâm thứ ba, thức thấy tâm thứ mười sáu”. Đấy chẳng gọi là kiến-đế-đạo ư? Lại có người nói trí nầy chẳng biết thượng-căn của người trên ở bực trên. Đấy cũng chẳng nhất định. Chư thiên cũng biết tâm Đức Phật, như có một hôm Phật rất muốn đuổi Chúng-Tăng, rồi lại nghĩ cho lại, Phạm-Vương đều biết. Lại có một khi tâm nghĩ muốn làm vua để dùng chính-pháp mà trị hóa cõi đời. Ma-vương liền biết đến mà khuyên mời. Lại Chư-Thiên cũng biết vị nầy A-La-Hán, cho đến vị nầy đang tu Tu-Đà-Hoàn. Lại các Tỳ-kheo cũng biết tâm Phật như khi sắp vào Nê-Hoàn thì A-Na-Luật thứ lớp biết Phật đã vào các thiền-định. Lại có người nói trí nầy chẳng biết cõi Vô-sắc. Đấy cũng chẳng phải lẽ. Phật dùng túc-mạng năng biết vô-sắc; tha-tâm-trí cũng như thế, biết có lỗi gì?

Hỏi: Làm sao biết tâm kẻ khác?

Đáp: Biết trong cảnh duyên. Như tâm đi trong Sắc gọi là tâm-duyên-sắc. Như thế thảy.

Hỏi: Nếu vậy thời tha-tâm-trí duyên tất cả pháp?

Đáp: Chính như vậy. Nếu chẳng biết duyên làm sao biết tâm. Như trong kinh nói: “Ta biết tâm ngươi như vậy “. Tức là duyên sắc thảy. Biết tha tâm có ba thứ: một tướng biết; hai báo được; ba tu được. Tướng biết: như dùng chú ương-già thảy nên biết. Báo được: như Quỷ Thần thảy. Tu được: sức tu thiền-định được tha-tâm-trí. Trong sáu pháp thông nầy tu được hoặc nhờ các ấm-thân trong đời quá-khứ gọi là túc-mạng-trí.

Hỏi: Nhớ ấm của ai?

Đáp: Nhớ ấm của mình, người và phi chúng sinh. Tuy chẳng năng nhớ ấm kẻ hờn mình mà năng giới thảy các pháp của kẻ hơn mình. Tại sao biết được? Như Xá-Lợi-Phất đáp Thế-Tôn rằng tôi chẳng năng biết tâm Phật quá-khứ vị-lai mà năng biết các pháp. Lại trời tịnh cư biết tâm Phật nên đến thưa Phật rằng: Như vậy Thế-Tôn! Các Đức Phật quá-khứ uy-nghi cũng như vậy”.

Hỏi: Trong giải nghĩa túc mạng, tại sao nói cọng tướng cọng tính?

Đáp: Nghĩ nhớ rõ ràng nên nói tướng danh tự như vậy, như tên người thảy. Lại vì biết việc nên gọi là tướng, họ, danh, dòng tộc, như nói đây là nhà của ngươi, đây gọi là dòng họ ngươi. Tướng tính hiệp nói, nên biết thảy rõ ràng.

Hỏi: Tại vì sao nhớ rõ ràng?

Đáp: Pháp quá-khứ diệt hết tướng mà năng biết được, đấy mới là lạ lùng. Có người dùng tướng nghĩ lường mà biết, chẳng được rõ ràng, rồi bảo đệ-tử Phật cũng như vậy. Vậy nên tính tướng hiệp lại mà nói. Có người dùng túc mạng trí; hoặc dùng hữu-đạo tư-huệ mà biết đời quá-khứ, như hành duyên thức; trong hai món nầy tư-huệ là hơn. Tại vì sao? Vì người nầy tuy biết tám muôn đại kiếp, mà không có tư-huệ nầy nên sinh tà-kiến cho rằng: từ trước đến nay gọi là sinh tử, quá đây lại không có gì cả. Nếu có đạo tư-huệ trọn không có tà tâm nầy. Có người nói trí nầy thứ lớp nghĩ nhớ quá-khứ. Việc nầy chẳng phải lẽ. Nếu như niệm niệm thứ lớp nhớ việc trong một kiếp hãy còn khó biết hết huống là vô lượng kiếp.

Hỏi: Tại sao trong kinh lại nói: “Ta từ ở trong chín mươi mốt kiếp đến nay chưa hề thấy bố thí tốn kém mà không quả-báo?”.

Đáp: Phật ở trong ấy lấy bảy Đức Phật làm chứng; lại cũng có sống lâu trong cõi tịnh cư cùng với các Đức Phật kia đồng thấy. Lại vì Phật được chân trí nên công đức thanh-tịnh, nếu người cúng dường được phước hai đời thời ngang với thuyết nầy. Có người nói trí nầy chẳng biết thượng địa. Việc nầy chẳng phải lẽ. Trong thân thông thảy ở trên đã đáp.

Hỏi: Nếu đấy là tính nhớ tại sao gọi trí?

Đáp: Nhớ tùy tướng sinh; quá-khứ không tướng mà năng nghĩ nhớ. Nên phải biết thắng-huệ gọi đó là nhớ. Nhớ túc-mạng có ba thứ một dùng túc mạng-trí; hai báo được; ba sinh ra bèn tự nhớ. Túc-mạng-trí: gọi tu được. Báo được: như Quỷ Thần thảy. Sinh ra tự nhớ: là trong nhân đạo.

Hỏi: Do những nghiệp gì nên sinh ra bèn tự nhớ?

Đáp: Nhờ nghiệp chẳng não hại chúng sinh nên mới được. Tại vì sao? Vì những khi chết khi sinh khổ rất ép ngặt nên quên mất nghĩ nhớ; trong khi ấy khó mà được chẳng quên mất, nên phải nhờ nghiệp lành. Lại có người quá-khứ cùng tột là bảy đời. Việc nầy chẳng nhất định. Có người đời thâm tu pháp chẳng hại, nên năng được nghĩ nhớ lâu xa.

Chứng lậu-tận trí-thông: Chính là kim-cương tam-muội vậy. Kim-cương tam-muội là lậu-tận; vô-ngoại đạo tận-trí là vô học-trí. Dùng kim-cương tam-muội mới diệt hết các lậu nên gọi chứng lậu-tận trí-thông.

Hỏi: Các thần-thông khác cũng nên nói nhờ pháp nào mà chứng được?

Đáp: Trước đã nói thâm tu thiền-định chứng thần-túc-thông. Lại tùy sở dụng chứng và việc sở chứng đều gọi thần-thông. Có người nói tất cả Thánh Đạo đều là phương-tiện hết lậu. Như trong kinh nói: “Nếu Phật ra đời nếu có người lành, nghe pháp xuất-gia, phụng-trì cấm giới, bỏ năm món ngăn che, tu Định thấy Đế…” Những điều ấy đều là phương tiện để hết lậu. Lại có người nói bố thí thảy các pháp lành cũng gọi là nhân-duyên hết lậu, như trong kinh nói: “Hành-giả bố-thí để giúp thành hết lậu, không, vô-ngã-trí”. Đấy là thật chứng lậu-tận trí-thông. Pháp nầy có tên riêng là kim-cương tam-muội. Năng phá các tướng nên gọi kim-cương. Các người ngoại đạo chỉ được gọi ngũ-thông, vì đều chẳng được chân-trí nầy vậy.

Hỏi: Lấy vô-ngã-trí mới phá ngã-kiến, tại sao lấy trí nầy dứt tham nhuế thảy?

Đáp: Vô-ngã-trí năng diệt các tướng, vì không còn tướng nên các phiền não diệt.

Hỏi: Vì ban đầu lấy vô-ngã-trí năng phá các tướng, còn trí thứ hai thảy lại dùng để làm gì?

Đáp: Các tướng tuy diệt mà sinh lại nên phải dùng trí thứ hai thảy.

Hỏi: Nếu tướng diệt rồi mà sinh lại là không ngằn. Vậy thời không có đạo A-La-Hán?

Đáp: Có ngằn. Như nay hiện thấy sữa diệt lại có sinh; có có khi sữa diệt bơ sinh. Như vậy là ngằn, tướng cũng như vậy. Như đốt sắt tướng đen diệt rồi sinh lại, đến tướng đỏ sinh, bấy giờ là ngằn. Các vị dụ dọt sữa trong thái tạng thảy cũng như vậy. Tùy đến khi nào các tướng diệt hết không còn tướng sinh bấy giờ gọi là được đạo A-La-Hán.

Hỏi: A-La-Hán đều không có các tướng sao?

Đáp: Nếu còn ở trong tâm bất định, bây giờ cũng có sắc thảy các tướng, nhưng chẳng sinh lỗi, như người thấy sắc, vì tà-tâm, tà phân biệt, khi ấy tướng năng sinh lỗi.

Hỏi: Không-vô-ngã-trí là thứ nào?

Đáp: Nếu hành-giả đối trong ngũ-ấm chẳng thấy giả-danh chúng sinh, dùng pháp không nên thấy sắc-thể diệt cho đến thức diệt. Đấy gọi là không-vô-ngã-trí.

Hỏi: Giả sử các pháp thường còn; ái thảy các phiền não cũng có thể trừ hết, như nói muôn vật thường tồn tại, mà kẻ tinh tiến năng trừ tham ái. Thì cần gì phải diệt tưởng?

Đáp: Trong kinh nói: “Có bao sinh tướng, biết điều diệt tướng, với trong các pháp, được pháp nhãn tịnh”. Như có diệt đoạn là rốt ráo đoạn; có hành-giả lìa các sắc dục, ngăn dứt tham nhuế; nên Phật nói vì đấy mà nói kệ như vậy. Lại nói các hành tính rỗng không như huyễn, kẻ phàm phu vô trí cho đó là thật có; kẻ học nhân rõ biết luống dối như huyễn. Nên biết tùy dùng huệ nào đó mà chứng các pháp diệt. Đấy gọi là chứng lậu-tận trí-thông.

 

PHẨM NHẪN-TRÍ THỨ 198

 

Hỏi: Trong kinh nói: “Nếu hành-giả có bảy phương tiện, ba món quán nghĩa, đối với trong pháp ấy, chóng được hết lậu”. Là trí nào ư?

Đáp: Bảy phương tiện là huệ nghe huệ nghĩ. Tại vì sao? Vì kẻ tâm chưa định khởi quán như vầy: Đây là sắc, sắc nhóm, sắc diệt, và Đạo diệt sắc, sắc đắm vị, tội lỗi xuất ly.

Hỏi: Nếu là huệ nghe nghĩ ấy, cớ sao nói chóng được hết lậu.

Đáp: Tuy là hệ nghe nghĩ như vậy phân biệt ngũ-ấm, năng phá được ngã-tâm, nên mới nói chóng được hết lậu. Ba món quán-trí: Nghĩa là quán hữu-vi vô thường, khổ, vô-ngã. Nếu dùng môn ấm-giới-nhập mà quán pháp hữu-vi thời không nghĩa lợi.

Hỏi: Nếu như vậy, trong lầm lỗi trước đã nói vô thường khổ; trong xuất ly đã nói vô-ngã, thì tại sao còn nói ba món quán nầy chi?

Đáp: Học tập ba món quán, trước tiên là huệ nghe nghĩ, nhiên hậu huệ tu. Trước với trong huệ nghe nghĩ nói bảy món, sau trong huệ tu nói ba món. Tại vì sao? Nếu vô thường, khổ hoại tướng là hoại vô thường, chứ chẳng phải hành vô thường. Tuy nói trừ dục nhiễm mà chẳng nói trừ bằng cách nào, sau mới nói nghĩa ba món quán.

Hỏi: Sao gọi tám nhẫn?

Đáp: Nếu có trí năng phá giả-danh, đấy gọi là nhẫn. Nhẫn nầy ở trong pháp: Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế-Đệ-Nhất.

Hỏi: Hành-giả cũng nhẫn trong Phật-Pháp-Tăng và giới thảy tại sao chỉ nói tám ư?

Đáp: Vì thắng hơn nên nói. Thắng gọi là cận-đạo. Huệ là trí nên gọi Nhẫn. Như là khổ-pháp-trí gọi khổ-pháp-nhẫn. Đại khái như vậy thảy. Tại vì sao? Vì trước dụng huệ nghĩ thuận Đạo, sau mới được hiện-trí, như người chăn voi trước xem dấu chân voi, dùng trí so sánh biết nó ở trong ấy, rồi sau mới hiện thấy. Hành-giả cũng như vậy, trước dùng nhẫn-trí so sánh nghĩ lường Nê-Hoàn, nhiên hậu lấy trí hiện thấy. Cho nên kinh nói kẻ trí-giả là kẻ kiến giả năng được hết lậu.

 

PHẨM CHÍN-TRÍ THỨ 199

 

Hỏi: Có ông Luận-sư nói? A-La-Hán khi chứng tận-trí được chín món trí của thế-tục là: buộc cõi Dục, thiện, vô-ký cho đến thiện, vô-ký cõi Phi-tưởng phi phi-tưởng-xứ. Việc ấy thế nào?

Đáp: Chẳng phải tất cả A-La-Hán đều được các thiền-định, làm sao mà được hết chín trí.

Hỏi: Tất cả A-La-Hán đều được hết thiền-định chứ? Nhưng chẳng phải tất cả đều năng hiện vào?

Đáp: Nếu chẳng năng hiện làm sao gọi được? như người nói tôi biết kinh thơ. Mà chẳng biết một chữ, việc nầy cũng vậy.

Hỏi: Nếu người ly-dục mà chưa năng hiện sơ-thiền; người ấy mạng chung chẳng sinh về kia sao?

Đáp: Trong kinh nói: “Trước ở đây vào, sau mới sinh kia”. Nay ở đây chẳng vào làm sao mà sinh về kia được?

Hỏi: Như khi ly-dục các thiền quá-khứ vị-lai đều đã được; mới được nhờ báo đấy mà sinh?

Đáp: Nghiệp vị-lai không-tác không khởi nên chẳng có quả-báo được; các thiền quá-khứ đã từng sinh nơi tâm, nếu cùng với quả-báo thời không hại gì. Lại chẳng lẽ được các nghiệp vị-lai, nếu có thể được ấy, tất cả vị-lai lẽ đều phải được chứ vì ai ngăng mà cái chẳng được?

Hỏi: Nếu pháp vị-lai chẳng thể được ấy. Thời kẻ học-nhân chẳng nên thành-tựu tám phần, vô-học chẳng nên thành-tựu mười phần. Tại vì sao? Vì nếu nương đệ-nhị-thiền thảy vào chánh-pháp-vị, thời người nầy vị-lai mới được chính-tư-duy. Lại nếu hành-giả tận-trí hiện-tiền bấy giờ vị-lai được thế-chính-kiến. Lại có người nương Định vô-sắc được quả A-La-Hán. Người nầy vị-lai được chính-tư-duy, chính ngữ, chính nghiệpchính mạng. Lại nếu người nương đệ-tam-thiền thảy được Thánh-đạo được mừng vị-lai. Những pháp như vậy thảy thời lẽ đều không. Nên biết có pháp vị-lai. Lại nếu không kẻ tu vị-lai (làm) sao mà được quả các thiền-định thảy? Hành-giả nếu ở trong đạo trí so sánh đều được quả nhiếp về các trí các Định nếu chẳng như vậy lẽ ra các quả ấy thường được. Việc nầy chẳng thể được. Nên biết phải có kẻ tu trong vị-lai?

Đáp: Người nói không các phần ấy. Đấy không hại gì. Tại vì sao? Vì tôi nói giới thảy các phần do thứ lớp mà được, đâu phải đồng thời được. Nên chẳng nạn vấn được vậy. Ngươi nói các được chủng loại ấy. Hành-giả khi được khổ trí, các loại trí khác đều gọi là được, như được nhân chủng nên gọi là được nhân tướng; cũng chẳng gọi ở trong từng niệm lần lữa được nhân tướng. Việc nầy cũng như vậy.

Hỏi: Hành-giả có bao nhiêu khổ thảy các trí thứ lớp được ấy, đều đã rời bỏ, lại đồng thời được quả Tu-Đà-Hoàn nhiếp được cái trí?

Đáp: Được các trí vô-lậu thời chẳng mất.

Hỏi: Nếu trước được chẳng mất thời “được hành” không riêng khác. Tại vì sao? Vì kẻ được quả tức là hành-giả. Có những lỗi nầy?

Đáp: Nếu không riêng khác đâu có lỗi gì? Như kẻ thành-tựu cũng gọi hành-giả. Đấy cũng như vậy. Lại người nầy còn được thắng pháp nên có sai biệt, vậy nên không lỗi. Như kẻ thọ ngũ giới lại được luật nghi xuất gia cũng chẳng mất bổn-giới. Lại kẻ đắc quả chẳng vì thấy Đạo nên có sai khác, như người tuy biết việc trước lại vì việc hơn trước nên có sai khác. Việc nầy cũng vậy, nên biết không có được vị-lai. Lại hành-giả an-trụ trí không vô-ngã, bấy giờ làm sao được pháp thế-gian? Nên biết khi được tận-trí chẳng được thế trí?

Hỏi: Các thế trí nầy cọng chung tận trí, được cùng với A-La-Hán mà tác tâm xuất nhập Định?

Đáp: Tâm A-La-Hán nối nhau mà sinh niệm niệm đều thanh-tịnh. Nếu lại được chín trí. Lại nói kẻ tu vị-lai đều không nhân duyên. Tại vì sao? Vì trong các thuyết thấy đế-đạo nầy chỉ tu tương tợ và bất tương tợ. Trong thấy đạo chẳng tu thượng địa; Trong tư-duy đạo thì tu. Trong tỉ trí đạo chẳng tu thiện thế tục; Trong các trí khác thì tu. Trong vô-ngại đạo chẳng tu tha tâm trí. Khi mà tạm thời giải-thoát chuyển thành thấy ngược là tất cả trong vô-ngại giải-thoát đạo chẳng tu thế-tục-đạo. Khi mà tạm thời giải-thoát là trong chín vô ngại và tám giải-thoát đạo chẳng tu thế tục đạo; mà trong giải-thoát đạo thứ chín tu: Trong vi tế tâm chẳng tu tất cả vô lậu. Như vậy thảy đều không lý do. Vậy nên ngươi nay hoặc nói chính nhân, hoặc nên tín thọ, hoặc lấy học tập là tu, khi còn ở trong Noãn pháp thảy, các thiện căn bực thượng tất cả đều tu, vì thảy đều tăng ích vậy. Như tụng tập kinh sách thời đều sáng sủa. Vậy nên khi còn ở trong Noãn pháp thảy, cho đến tận trí đều tu. Nếu chẳng phải như vậy thời phải nói chính nhân?

 

PHẨM MƯỜI TRÍ THỨ 200

 

Mười trí: Pháp trí, tỉ-thí, tha-tâm-trí, danh-tự-trí, tứ-đệ-tứ-trí, tận-trí và vô-sinh-trí. Biết pháp hiện tại gọi là pháp trí. Như trong kinh nói: “Phật bảo A-Nan rằng ngươi đối với pháp nầy thấy biết như vậy thông-đạt như vậy; quá-khứ vị-lai cũng biết như vậy”. Lẽ ra phải nói hiện-tại pháp-trí. Nay chẳng nói hiện-tại chỉ nói pháp-trí. Như trong kinh nói: “Kẻ ngu quý pháp hiện-tại, mà người trí quý vị-lai”. Lại nói các dục hiện tại, các dục vị-lai đều là lưới mà bị ma trói buộc. trong những như vậy thảy đều nên nói lời “hiện” vì lược bớt lời hiện nên chỉ nói pháp-trí. Biết pháp còn thừa tàn gọi là tỉ-trí. Còn thừa là các pháp quá-khứ vị-lai. Kế pháp hiện tại sau mới biết nên gọi tỉ-trí. Tại vì sao? Vì trước hiện biết rồi nhiên hậu mới so sánh biết. Pháp-trí gọi hiện-trí. Tùy theo pháp-trí nầy mà nghĩ lường so sánh biết gọi là tỉ-trí.

Hỏi: Tỉ-trí nầy là vô-lậu-trí; vô-lậu-trí làm sao gọi tỉ-trí được?

Đáp: Thế-gian cũng có tỉ-trí. Tại vì sao? Vì pháp-trí, tỉ-trí, tha-tâm-trí, khổ-trí, diệt-trí và đạo-trí đều có hữu lậu, vô-lậu. Các trí nầy ở trong pháp Noãn thảy là hữu-lậu mà vào trong pháp-vị mới được gọi vô-lậu.

Hỏi: Có người nói biết các hành cõi Dục: các hành tập, các hành diệt, các hành diệt đạo gọi là pháp-trí; biết các hành hai cõi sắc, vô-sắc bốn món gọi là tỉ-trí. Việc ấy thế nào?

Đáp: Trong kinh nói Phật bảo A-Nan rằng trong đời quá-khứ vị-lai cũng biết như vậy chứ không có kinh nói biết các hành trong hai cõi Sắc, và vô-sắc gọi là tỉ trí. Lại trong kinh nói: “Hành-giả nên nghĩ: ta nay đang bị hiện sắc lấn ăn quá khứ cũng đã từng bị sắc lấn ăn; trong vị-lai cũng sẽ bị nói lấn ăn nữa!” Lại trong kinh nói: “Sinh duyên gì chết trong hai đời khứ-lai cũng lại như vậy”. Như Mã-Minh Bồ-Tát nói kệ: Như hiện tại lửa nóng, khứ lai lửa cũng nóng; hiện tại ngũ-ấm khổ; khứ lai ấm cũng khổ. Khổ như thế thảy các vị Đại-Luận-Sư cũng đều nói như thế. Lại biết pháp đời quá-khứ vị-lai gọi là tỉ trí, cũng có đạo lý. Tại vì sao? Vì hành-giả đối với trong khổ ba đời đều nhàm lìa; nhàm lìa là với trong pháp ấy sinh chân-trí-huệ. Như hành khổ hiện tại, thì các hành khứ lai cũng khổ như vậy. Nay lấy trí nào biết pháp quá-khứ vị-lai? Nếu là pháp trí các hành cõi Sắc, vô-sắc cũng có khứ lai, với trong ấy biết cũng nên gọi pháp trí. Vậy thời duy là pháp trí không có tỉ trí vậy. Nếu hành trong khứ lai cõi Sắc Vô-sắc riêng có trí ấy, hành khứ lai trong cõi Dục lẽ cũng phải riêng có trí ấy, hành khứ lai trong cõi Dục lẽ cũng phải riêng có trí? Vì những nghĩa nầy nên các Luận-Sư nói: “Có được chưa được nên thứ lớp thấy Đế”. Khổ cõi Dục gọi được; khổ cõi Sắc và Vô-sắc gọi chưa được. Vậy nên chẳng thể đồng thời đều biết hết. Như khổ chưa được, dùng tỉ trí mà biết. Nay trong cõi Dục chỗ chưa được khổ, tức khổ đế cũng nên dùng tỉ trí mà biết.

Hỏi: Lấy trí nào để mà dứt kiết đạo?

Đáp: Chỉ nên dùng pháp trí, Tỉ trí ở trong phương-tiện-đạo.

Hỏi: Sao lại dùng pháp trí?

Đáp: Dùng khổ pháp trí diệt pháp trí. Tại vì sao? Vì hành-giả khi quán vô thường, khổ thấy không, vô-ngã, bấy giờ chứng các hành diệt. Các trí khác đều là phương tiện.

Hỏi: Quán khổ nào diệt?

Đáp: Quán các thọ khổ. Trong ấy năng sinh ngã tâm; Vậy nên cũng ở trong ấy thấy diệt. Như nói nội giải-thoát nên các ái diệt hết, tự nói được A-La-Hán.

Hỏi: Trong kinh chẳng nói tất cả hành đoạn gọi đoạn tính ư?

Đáp: Hành-giả nầy vì chứng nội diệt, nên nhàm lìa tất cả, lại hành-giả quyết cần phải chứng nội diệt kỳ dư bất tất nhất đinh.

Hỏi: Với trong các Đế trí làm sao sinh?

Đáp: Biết sinh khổ thảy sinh.

Hỏi: Đấy chẳng phải Định tâm làm sao sinh trí được?

Đáp: Có phép quán như vậy. Cũng có ấm vô thường các lỗi sinh khổ vô-ngã-tưởng. Như trong kinh nói: “Nếu pháp vô thường tức là vô-ngã”. Tại vì sao? Vì mắt thảy các căn có sinh có diệt; nếu ấy là ngã, ngã tức sinh diệt, nên biết chẳng phải ngã. Khi mà mắt thảy sinh không từ đâu đến, vì có sở tác mới gọi là ngã, mà trong kinh nói không có tác-giả. Nên biết, nếu pháp vô thường tức là vô-ngã. Như vậy hành-giả khéo tu vô thường và vô-ngã, nên thân tâm được tịch-diệt, có sinh bao nhiêu hành đều giác biết não hại thời mới sinh khổ-tưởng, như trâu không da đụng chút biết đau, Hành-giả cũng vậy, nhờ vô-ngã-tưởng nên thành thượng-khổ-tưởng. Kẻ ngu vì ngã-tưởng nên dù có bị đại-khổ vẫn chẳng giác biết nó là não hại. Đấy gọi là khổ trí. Thấy các hành sinh gọi là tập-trí. Thấy các hành diệt gọi là diệt trí. Niệm Đạo thủy chung gọi là đạo-trí:

Hỏi: Tận-trí là thế nào?

Đáp: Hết tất cả tướng nên gọi là tận-trí. Tại vì sao? Vì kẻ học-nhân tướng dứt rồi sinh lại; đây dứt rốt-ráo nên gọi tận-trí. Như trong kinh nói nếu biết vọng-tướng chỉ là vọng tưởng thời các khổ hết. Tâm trí học-nhân lấy vọng tưởng làm ngã; dứt hẳn tâm ấy gọi là tận trí.

Như trong kinh nói: “A-La-Hán ở trước Đức Phật tự nhờ lời Thế-Tôn nói gút tôi không còn nữa. Tôi đối gút ấy chẳng còn sinh nghi. Tôi thường nhất tâm nhiếp chánh niệm chính-hành, tham thảy bất-thiện chẳng lọt vào tâm”. Trong ấy lấy tướng nên sinh các gút; các tướng dứt nên các gút dứt. Học nhân hành nơi tướng và vô tướng, nên ngã tâm thỉnh thoảng phát khởi; như thấy cây trụ nghi cho là người, nên chỉ A-La-Hán độc-đắc vô-nghi, vì tâm thường hành trong ngũ-ấm chẳng thấy thần ngã: sau do pháp-không nên chẳng thấy sắc-tính cho đến thức-tính. Nên biết tất cả tướng gọi là tận trí. Biết các tướng chẳng sinh gọi vô-sinh-trí. Kẻ học-nhân dứt tướng hết rồi sinh lại. Kẻ vô-học tướng hết rồi chẳng sinh nữa. Nếu năng khiến các tướng diệt hết chẳng còn sinh lại. Bấy giờ gọi vô-sinh-trí.

Hỏi: Học-nhân cũng biết có tận-trí vô-sinh-trí, như nghĩ: Tôi hết ba gút chẳng còn sinh lại. Cớ sao chẳng nói mười phần thành tựu?

Đáp: Học nhân chẳng dứt tất cả tướng, nên chẳng nói có tận trí vô-sinh-trí, như người khắp mình bị trói quấn, tuy được mở một chỗ như chẳng gọi được thoát. Cũng có nghĩa nầy: Xá-Lợi-Phất nói họ Cấp-Cô-Độc mười phần thành tựu. Lại A-La-Hán được sức tự tại nên tự biết gút hết chẳng còn sinh lại. Học nhân chẳng được như vậy. Lại A-La-Hán khi được vô-học-đạo năng tự biết hết tất cả sinh, gọi là tận trí. Kẻ thành-tựu phạm-hạnh là xả các học hành. Kẻ việc làm đã làm xong là các việc đáng làm đều đã làm xong; biết thân từ đây không còn nối nhau luôn nữa. Nên biết duy A-La-Hán đối với tất cả việc sở-tác phải được tự-tại thành-tựu tận-trí và vô-sinh-trí chứ chẳng phải các kẻ học nhân, vì như người bị bệnh sốt tuy chẳng thường phát khởi nhưng chẳng gọi là người lành mạnh. Như trong kinh nói: “Lìa mừng tất cả chỗ; diệt lo tất cả chỗ; chứng diệt tất cả pháp; thường tu tâm vô-lậu”. Tha-tâm-trí như trong lục thông nói: ngũ-ấm hòa họp giả-danh chúng sinh. Các tên trí trong đây gọi là danh-tự-trí, vô-lậu trí, chân-thật-trí. Tương-tợ vô-lậu nầy được gọi là trí, nên gọi danh-tự-trí.

Hỏi: Có người nói tất cả chúng sinh thành-tựu các trí. Việc ấy thế nào?

Đáp: Nếu đệ-tử Phật năng biết các pháp do nhiều duyên sinh, người ấy năng được, chứ đâu phải chúng sinh khác. Nhờ được tên trí nên tất cả chúng sinh chỉ dùng tưởng mà biết, nếu được trí nầy gọi là nội phàm phu.

 

PHẨM BỐN MƯƠI BỐN TRÍ THỨ 201

 

Hỏi: Trong kinh nói bốn mươi bốn trí là: Lão-tử-trí, lão, tử tập-trí, lão tử diệt-trí, lão tử diệt đạo trí; sinh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lục-nhập, danh sắc, thức, hành cũng như vậy. Vì sao nói như thế?

Đáp: Nê-Hoàn là chân-pháp báu quí, nên dùng nhiều cửa để vào: Có dùng cửa ngũ-ấm mà vào; hoặc quán giới, nhập, nhân-duyên và các Đế. Những các cửa như vậy đều đến Nê-Hoàn được. Tại sao biết được? Như trong kinh nói: “Vua ở trong thành, có hai sứ-giả đến do mỗi người vào mỗi cửa. Đến rồi yết-kiến nhà Vua và tâu bày sự thật; tâu xong lui đi kẻ vào các cửa khác cũng vậy”. Trong ấy vua dụ cho hành-giả; các cửa là quán ấm giới nhập thảy; hai sứ-giả là như pháp CHỈ và QUÁN; kẻ tâu bày sự thậtthông đạt chân không. Các sứ giả nầy tuy từ các cửa vào nhưng đều đến một chỗ. Như vậy tuy quán ấm giới nhập thảy các môn phương tiện nhưng đều vào Nê-Hoàn. Như La-Hầu-La nói: Khi ở riêng chỗ vắng suy nghĩ pháp, biết pháp như vậy đều tùy thuận quay vềngợi khen Nê-Hoàn. Lại Phật nói trong tám pháp rằng: Pháp nầy năng tắt lửa phiền não nên gọi là diệt; năng khiến hành-giả tâm được yên ổn, nên gọi là yên ổn; năng khiến hành-giả đến chánh biến tri nên gọi là đến. Những nghĩa như vậy đều khen Nê-Hoàn. Lại phạm hạnh là tám chính đạo. Trong tám chính đạo chính trí là cao hơn; mà quả của chính trí là Nê-Hoàn. Lại Phật nói ra giáo pháp đều vì Nê-Hoàn. Nên biết các cửa ngũ-ấm thảy đều đến Nê-Hoàn.

Hỏi: Có Luận-sư nói lão-tử trí là khổ trí. Việc ấy thế nào?

Đáp: Chẳng phải vậy. Tại vì sao? Vì trong ấy chẳng nói khổ hành, nên chẳng phải khổ trí.

Hỏi: Vậy thì đấy là trí nào?

Đáp: Đấy gọi là lão tử tính trí.

Hỏi: Cũng nói biết lão tử tập, lão tử diệt, lão tử diệt đạo. Nên biết là khổ trí?

Đáp: Đấy là nhân-duyên nên chẳng phải chân đế môn. Vậy nên trong ấy chẳng nên nói khổ hành, mà nên nói Tập thảy vì thuận với nhau vậy.

Hỏi: Trong ấy vì sao chẳng nói các trí vị, quá, xuất thảy?

Đáp: Nghĩa ấy đều thu nhiếp chỉ kẻ kiết tập kinh lược bớt nên chẳng nói.

 

PHẨM BẢY MƯƠI BẢY TRÍ THỨ 202

 

Hỏi: Trong kinh nói “bảy mươi bảy trí là sinh duyên lão tử, chẳng rời sinh mà có lão tử; Trong hai đời quá-khứ vị-lai cũng như vậy”. Đấy là pháp trụ-trí quán vô thường hữu-vi tác-khởi do nhiều duyên sinh; tận-tướng, hoại-tướng, ly-tướng, diệt-tướng cũng quán như thế. Cho đến vô-minh duyên hành cũng như vậy. Vì sao trong ấy chẳng nói lão-tử-tính và diệt đạo thảy?

Đáp: Vì kẻ lợi trí nên nói như vậy. Chỉ mở cửa là có thể biết, pháp khác cũng như vậy. Lại ngoại đạo phần nhiều với trong pháp nhân-duyên nói lầm rằng muôn vật thế-gian nhân thế-tính thảy, nên Phật đối với đây chỉ nói nhân-duyên.

Hỏi: Đã nói sinh duyên lão tử, tại sao lại nói “chẳng rời”?

Đáp: Là nói quyết định, vì trong các pháp có nhân bất định; như bố-thí là nhân phước giàu, mà trì giới cũng được phước, như nói trì-giới được sinh lên trời. Hoặc có kẻ sinh nghĩ lão tử nhân-duyên sinh hoặc chẳng nhân-duyên sinh nên phải nói quyết định.

Hỏi: Tại sao trong đời khứ lai lại phải nói quyết định?

Đáp: Hiện tại với quá-khứ có tướng khác nghĩa là chúng-sinh đời quá-khứ thọ mạng vô-lượng thế-lực đồng các Chư-thiên. Có những đều như vậy, sợ e người nghi rằng thọ-mạng thảy khác với lão-tử, nên nhân-duyên cũng phải khác, nên phải nói quyết định. Vị-lai cũng vậy. Sáu món nầy gọi là pháp-trụ-trí, kỳ dư gọi Nê-Hoàn- trí. Năng khiến lão-tử nối nhau luôn, nên gọi vô thường hữu-vi tác-khởi, do nhiều duyên sinh. Tận-tướng, hoại-tướng tức là vô-thường hành; ly-tướng tức là khổ-hành; diệt tướng tức là không vô-ngã hành. Tại vì sao? Vì trong ấy sắc-tính diệt thọ-tưởng-hành-thức-tính diệt tức là nghĩa ba món quán. Như trong kinh nói: “ Tỳ-kheo có bảy chỗ phương tiện, ba quán nghĩa, chóng được hết lậu”. Đấy đều là Nê-Hoàn trí. Như vậy thảy nhân-duyên trí có trăm ngàn vô-lượng nghĩa là nhãn-trí thảy, như trong kinh nói: “Mắt duyên nghiệp; nghiệp duyên ái; ái duyên vô-minh; vô-minh duyên tà niệm; tà niệm duyên nhãn sắc, các lậu duyên tà niệm các ăn duyên ái, ngũ-dục duyên ăn đoạn-thực thảy; địa ngục đoản-mạng duyên sát-sinh thảy”. Nếu trước khổ nay khổ đều duyên vọng-tưởng; vọng tưởng duyên thân tâm tắng ái; tắng-ái duyên tham dục; tham dục duyên tà-tư-duy. Cứ như vậy thảy các nhân-duyên trí vô-lượng vô-biên, tự nên phải biết.

 

Thành Thật luận hết quyển 20

Source: thuvienhoasen



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11540)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11036)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12460)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10671)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11625)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10107)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15252)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11135)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14216)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15192)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11887)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10513)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16423)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12571)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10809)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13411)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11878)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11749)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11527)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12786)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9767)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17888)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8996)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12095)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12948)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10219)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15191)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12124)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11381)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14153)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19535)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14064)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24420)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10595)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant