Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm Thứ Nhất: Khuyến Phát

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 12125)
Phẩm Thứ Nhất: Khuyến Phát


PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ NHẤT
KHUYẾN PHÁT

Kính lễ vô biên tế
Đẳng không bất động trí
Khứ lai hiện tại Phật
Cứu thế Đại bi tôn

diệu pháp đại phương đẳng tối thượng thuộc tạng Ma Đắc Lặc Ca, được chư Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành. Chính là (1) khuyến khích ưa thích tu tập Bồ Đề vô thượng, (2) để có thể làm cho chúng sinh phát tâm sâu rộng, (3) kiến lập thệ nguyện dứt khoát trang nghiêm, (4) xả bỏ thân mạng tài sản để nhiếp phục tham tiếc, (5) tu năm tụ giới để giáo hóa dẫn dắt các người phạm giới, (6) phát tinh tiến dũng mãnh để an chỉ chúng sinh, (7) tập các thiền định để biết rõ các tâm, (8) tu hành trí huệ diệt trừ vô minh, (9) nhập môn như thật lìa các chấp trước, (10) tuyên bày đức hạnh KHÔNG vô tướng thậm thâm, (11) ca ngợi công đức khiến cho Phật chủng không đoạn.

vô lượng môn phương tiện thanh tịnh như thế để trợ giúp cho Bồ Đề pháp. Nay tôi sẽ vì các hàng thượng thượng thiện mà phân biệt hiển bày, để khiến cho rốt cuộc được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Chư Phật tử, nếu như người Phật tử thọ trì những gì Phật nói, rồi có thể diễn giảng thuyết pháp cho chúng sinh, thì trước hết phải ca ngợi công đức của Phật. Chúng sinh nghe thế rồi mới có thể phát tâm cầu trí huệ của Phật. Do phát tâm như thế nên Phật chủng không đoạn mất.

Nếu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, niệm Phật, niệm pháp, lại niệm Như Lai khi hành Bồ Tát đạo, do vì cầu pháp nên trong a tăng kỳ kiếp chịu bao cần khổ. Do niệm như thế, (nếu có ai) nói pháp cho Bồ Tát, dù chỉ là một bài kệ, Bồ Tát nghe được pháp ấy vui mừng được lợi ích của giáo pháp, nên mới trồng thiện căn tu tập Phật pháp, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Do vì để đoạn các khổ não của những chúng sinh, từ vô thỉ sinh tử, Bồ Tát Ma Ha Tát muốn thành tựu vô lượng thân tâm, cần tu tinh tiến, sâu phát đại nguyện, rồi thật hành đại phương tiện tâm, cầu đại trí huệ vô kiến đỉnh tướng. Cầu các pháp lớn như thế của chư Phật. Phải biết rằng các pháp ấy vô lượng vô biên, do pháp vô lượng nên quả báo phúc đức cũng vô lượng. Như Lai nói rằng, nếu các Bồ Tát tối sơ một niệm phát tâm hạ liệt thôi, thời quả báo phúc đức trong trăm ngàn vạn kiếp có nói cũng không cùng tận, huống gì là trong một ngày, một tháng, một năm, cho đến trăm năm tu tập các tâm ấy, quả báo phúc đức lẽ nào có thể nói tận. Tại sao vậy? Bởi sự thật hành của Bồ Tát không cùng tận, vì Bồ Tát muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều trụ vào vô sinh pháp nhẫn, đều đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá, bởi các báu này đều từ biển lớn mà sinh. Bồ Tát (sơ) phát tâm cũng y như vậy, lúc ban đầu (từ từ) sinh khởi (tâm), phải hiểu (tâm ấy) liền là chỗ sinh khởi tất cả thiện pháp thiền định, trí huệ của người trời, thanh văn, duyên giác, chư Phật Bồ Tát.

Lại nữa, cũng như tam thiên đại thiên thế giới, lúc mới bắt đầu sinh (từ từ) khởi, phải hiểu là liền thành ngay chỗ y chỉ nâng đỡ trọn cả 25 cõi hữu trong ấy gồm hết cả chúng sinh. Bồ Tát phát Bồ Đề tâm cũng y như vậy, lúc mới bắt đầu phát khởi đã thành là chỗ y chỉ nâng đỡ cho hết tất cả vô lượng chúng sinh, nào là gồm hết sáu nẻo bốn sinh, chính kiến tà kiến, tu thiện tập ác, hộ trì tịnh giới, phạm bốn trọng cấm, tôn phụng tam bảo, hủy báng chính pháp, chư ma ngoại đạo, sa môn phạm chí, Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà.

Lại nữa, Bồ Tát phát tâm lấy từ bi làm đầu. (Tâm) từ của Bồ Tát vô lượng vô biên, cho nên (khi Bồ Tát) phát tâm không có giới hạn (mà) bằng với chúng sinh giới. Ví như hư không, không có gì mà hư không không che trùm. Bồ Tát phát tâm cũng y như vậy, tất cả mọi chúng sinh không có chúng sinh nào mà Bồ Tát không che trùm. Nếu như chúng sinh giới vô lượng vô biên không sao cùng tận, Bồ Tát phát tâm cũng y như vậy, vô lượng vô biên không có cùng tận. Hư không vô tận nên chúng sinh cũng vô tận, chúng sinh vô tận nên Bồ Tát phát tâm bằng với chúng sinh giới. Mà chúng sinh giới lại không có giới hạn. Nay tôi sẽ thừa Thánh chỉ mà nói lên ít phần về chúng sinh giới.

Lấy hết phương đông ngàn ức hằng hà sa a tăng kỳ thế giới của chư Phật. Phương nam, tây, bắc, bốn phương phụ, phương trên và dưới, mỗi phương cũng lấy ngàn ức hằng hà sa a tăng kỳ thế giới của chư Phật. (Rồi) nghiền nát ra thành vi trần. Số vi trần này không trở ngại gì hết đối với mắt. (Sau đó) có bao chúng sinh trong trăm vạn ức hằng hà sa a tăng kỳ tam thiên đại thiên thế giới cùng nhau giữ lấy một vi trần. (Rồi) có bao nhiêu chúng sinh trong hai trăm vạn ức hằng hà sa a tăng kỳ tam thiên đại thiên thế giới cùng nhau giữ lấy hai vi trần. Cứ thế lần lượt lấy hết trọn số vi trần thuộc địa chủng có trong mười phương, mỗi phương gồm ngàn ức hằng hà sa a tăng kỳ thế giới của chư Phật. (Dù vậy) chúng sinh giới này vẫn không hề cùng tận.

Ví như có người chẻ một sợi lông ra làm trăm phần, rồi lấy một phần lông ấy chấm vào đại hải. Giờ đây cái ít phần mà tôi nói về chúng sinh cũng giống như (nước chấm nơi đầy một phần trăm sợi lông) vậy. Phần (chúng sinh) còn lại chưa được nói đến giống như nước của cả đại hải. Giả như chư Phật có trải qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp dùng đủ thí dụ diễn nói rộng rãi cũng không nói cùng được. Bồ Tát phát tâm có thể che trùm trọn chúng sinh như vậy. Tại sao? Các Phật tử, tâm Bồ Đề này có lý do nào lại cùng tận được sao? Nếu có Bồ Tát nào nghe nói thế mà không kinh không sợ không thối không bỏ, phải biết người ấy chắc chắn có thể phát tâm Bồ Đề. Cho dù có vô lượng tất cả chư Phật trong vô lượng a tăng kỳ kiếp ca ngợi công đức của người ấy cũng không sao cùng được. Tại sao vậy? Bởi Bồ Đề Tâm này không có giới hạn, không hề cùng tận.

 (Bồ Đề tâm) có vô lượng lợi ích như thế, cho nên (tôi mới) tuyên thuyết để khiến cho chúng sinh đều được nhận lấy thực hành, mà phát Bồ Đề tâm vậy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22272)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16005)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15016)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18936)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14434)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18613)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14407)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13573)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13541)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11806)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13227)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13642)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13922)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13241)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15015)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16148)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11076)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16441)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11892)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17580)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12865)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13694)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12850)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14849)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16371)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13119)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12075)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12759)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12884)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12766)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14156)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14099)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16461)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12372)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14372)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11295)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11017)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13182)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13882)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13150)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12993)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13484)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12720)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13955)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10217)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13691)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16250)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11946)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12958)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11628)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12662)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10790)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10975)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10930)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11879)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12750)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11052)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12606)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11311)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant