Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm Thứ Ba: Nguyện Thệ

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11729)
Phẩm Thứ Ba: Nguyện Thệ



PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ BA
NGUYỆN THỆ

 Bồ Tát làm thế nào để phát được xu hướng về Bồ Đề? Do hạnh nghiệp nào mà thành tựu được Bồ Đề?

Bồ tát phát tâm trụ nơi càn huệ địa, trước hết phải kiên cố mà phát chính nguyện, nhiếp thọ (thâu nhận lấy) hết tất cả vô lượng chúng sinh. “Ta cầu vô thượng Bồ Đề để cứu hộđộ thoát cho họ không còn sót chút nào, và đều cho họ được cứu cánh vô dư Niết Bàn”.

Cho nên khởi thủy phát tâm thời đại bi làm đầu. Do nhờ bi tâm nên có thể phát chuyển mười đại chính nguyện thù thắng. Sao nói là mười?

- Nguyện đời trước của ta và thân hiện tại có bao nhiêu thiện căn trồng được, (xin) đem các thiện căn này thí cho tất cả vô biên chúng sinh, rồi trọn cùng họ hồi hướng về vô thượng Bồ Đề. Khiến sao cho nguyện này của ta mỗi niệm mỗi tăng trưởng. Đời đời sinh ra, (nguyện ấy) thường cột nơi tâm không hề quên mất, được Đà La Ni gìn giữ bảo vệ.

- Nguyện sau khi ta hồi hướng vô thượng Bồ Đề rồi, do thiện căn này mà tất cả nơi nào (ta) sinh ra, thường được cúng dường tất cả chư Phật, vĩnh viễn chắc chắn không sinh vào các quốc độ không có Phật.

- Nguyện sau khi ta được sinh về nước của chư Phật rồi, thì thường được gần gũi theo hầu phải trái như bóng với hình, không một khoảnh khắc sát na nào xa lìa chư Phật.

- Nguyện sau khi ta được gần gũi Phật rồi, thì tuỳ ta cần thiết (chư Phật) thuyết pháp cho ta (và ta) sẽ thành tựu được năm thông của Bồ Tát.

- Nguyện sau khi ta thành tựu năm thông của Bồ Tát rồi, (ta) sẽ có thể thông hiểu thế đế giả danh lưu bố, sẽ thấu tỏ như chân thật tính thuộc đệ nhất nghĩa đế, và đắc được chính pháp trí.

- Nguyện sau khi ta đắc được chính pháp trí rồi, (ta) sẽ dúng tâm không biết chán để thuyết (pháp) cho chúng sinh, chỉ giáo làm họ lợi ích hoan hỉ, và đều làm cho họ được thông hiểu.

- Nguyện sau khi ta đã có thể làm cho chúng sinh thông hiểu rồi, (ta) sẽ dùng Phật thần lực đến khắp không sót một thế giới nào trong mười phương để cúng dường chư Phật, nghe nhận chính pháp, nhiếp rộng các chúng sinh.

- Nguyện sau khi ta đón nhận chính pháp từ nơi chư Phật rồi, (ta) có thể chuyển ngay được pháp luân thanh tịnh. Tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới ai nghe được pháp ta, nghe được danh ta, sẽ lìa bỏ ngay tất cả phiền nãophát tâm Bồ Đề.

- Nguyện sau khi ta có thể làm cho tất cả chúng sinh phát Bồ Đề tâm rồi, (ta) thường theo bảo vệ cho họ, trừ (cho họ) những gì không lợi ích, ban (cho họ) vô lượng an lạc, (ta sẽ) xả bỏ thân mạng tài sản để nhiếp thọ chúng sinhgánh vác chính pháp.

- Nguyện sau khi ta đã có thể gánh vác chính pháp rồi, tuy ta thực hành chính pháp song tâm không hề có hành. Cũng như chư Bồ Tát khi thực hành chính pháp, song không hề thực hành gì hết mà cũng không phải không hành.

Vì để hoá độ chúng sinh mà không bỏ chính nguyện, như thế gọi là mười đại nguyện của phát tâm Bồ Tát.

Mười đại nguyện này trùm hết chúng sinh giới, tóm thâu (nhiếp thọ) tất cả hằng sa các nguyện. “Nếu chúng sinh tận, thì nguyện của ta mới tận. Song chúng sinh thật không thể cùng tận, nên đại nguyện này của ta cũng không có cùng tận”.

Lại nữa, Bố Thí là nhân của Bồ Đề, do vì (bố thí) giữ lấy tất cả các chúng sinh. Trì giới là nhân của Bồ Đề, bởi (trì giới) gồm đủ các thiện thành mãn bổn nguyện. Nhẫn nhục là nhân của Bồ Đề, bởi (nhẫn nhục) thành tựu 32 tướng 80 tuỳ hình đẹp. Tinh tiến là nhân của Bồ Đề, vì (tinh tiến) tăng trưởng thiện hành, đối với các chúng sinh chăm chỉ giáo hoá. Thiền định là nhân của bồ đề, vì (do thiền định), Bồ Tát khéo tự điều phục, có thể rõ biết tâm hành của chúng sinh. Trí huệ là nhân của bồ đề, vì (do trí huệ) có đủ, có thể biết được tính và tướng của các pháp. Tóm yếu mà nói, sáu Ba La Mậtchính nhân Bồ Đề. (Lại gồm thêm) bốn vô lượng tâm, 37 phẩm và các vạn thiện hành cùng tương trợ mà thành.

Nếu Bồ Tát tu tập sáu Ba La Mật thì tuỳ theo sự thật hành của các ngài, (các ngài) sẽ từ từ được gần với A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Các Phật Tử, người cầu Bồ Đề phải không phóng dật. Hành vi phóng dật có thể làm hoại thiện căn. Nếu Bồ Tát chế phục sáu căn được mà không phóng dật, thì người ấy có thể tu được sáu Ba La Mật.

Bồ Tát phát tâm trước tiên phải hết sức chí thành lập thệ quyết định. Người lập thệ rồi ra sẽ không phóng dật, giãi đãi, trì hoãn. Tại sao vậy? Do vì lập thệ quyết định nên có năm duyên trì giữ (lấy mình không cho phóng dật).

  1. Một là có thể làm cho tâm mình kiên cố.
  2. Hai là có thể chế phục được phiền não.
  3. Ba là có thể chặn đứng được phóng dật.
  4. Bốn là có thể phá được năm cái che đậy (ngũ cái).
  5. Năm là có thể siêng năng tu hành sáu Ba La Mật.

Như Phật ca ngợi:

Như Lai Đại Trí Tôn
Nói về công đức chứng,
Lực nhẫn, huệ, phúc nghiệp,
Lực thệ nguyện tối thắng.

Lập thệ ra làm sao? Nếu có người lại cầu xin đủ thứ, lúc ấy ta sẽ tuỳ có (bao nhiêu mà) thí cho, dến mức không sinh một niệm tiếc rẻ trong tâm. Nếu lại sinh tâm ác (dù) chỉ trong khoảng khẩy ngón tay (như) dùng nhân duyên bố thí để được phúc báo thanh tịnh, tức là ta đã khi dối vô lượng vô biên a tăng kỳ hiện tại chư Phật trong mười phương thế giới. Đến đời vị lai (ta) cũng sẽ chắc chắn không thành được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Nếu ta trì giới (cho dù) đến mức mất mạng, (vẫn) xây dựng chắc tâm (giữ giới) thanh tịnh, thề không hề hối tiếc.

Nếu ta tu nhẫn, bị kẻ khác xâm hại đến mức cắt chém, (ta vẫn) thường sinh từ ái, thề không có oán giận ngăn ngại.

Nếu ta tu tinh tiến, (cho dù) gặp phải lạnh nóng, vua giặc, nước lửa, sư tử cọp sói, chốn không nước gạo, thời phải giữ tâm kiên cường thề không thối chuyển.

Nếu ta tu thiền, bị các chuyện bên ngoài quấy nhiễu không cho nhiếp tâm, thì cần phải trói niệm vào cảnh, thề không tạm khởi phi pháp loạn tưởng.

Nếu ta tu tập trí huệ, quán như thật tính của tất cả các pháp, tuỳ thuận (theo pháp mà) thọ trì. Đối với các pháp thiện, bất thiện, hữu vi, vô vi, sinh tử, Niết Bàn, không khởi lên cái thấy làm hai. Nếu tâm ta hối oán ngăn ngại thoát thất loạn tưởng, mà khởi lên thầy làm hai, (dù chỉ) như trong khoảng khảy móng tay mà dùng giới, nhẫn, tinh tiến, thiền, trí để cầu (phúc) báo thanh tịnh, tức ta đã khi dối vô lượng vô biên a tăng kỳ hiện tại chư Phật trong mười phương thế giới. Đến đời vị lai (ta) cũng sẽ chắc chắn sẽ không thành được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Bồ tát mười đại nguyện trì giữ việc thật hành chính pháp, dùng sáu đại thệ để chế ngự tâm phóng dật, thì sẽ có thể tinh cần tu tập sáu Ba La Mật, thành được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12511)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14109)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10851)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10522)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11191)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12002)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13143)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13636)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33665)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11337)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12923)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13057)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11627)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17893)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11442)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11850)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11501)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18975)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12542)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11332)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13139)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15764)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11808)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11693)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12765)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12630)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13966)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12994)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12946)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13296)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12770)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12697)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11745)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11735)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12325)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12384)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19816)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11958)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11990)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16881)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12666)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15061)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16118)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12882)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12231)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11915)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11925)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13150)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16506)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13232)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12495)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11817)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19859)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11154)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11256)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10402)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11091)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10968)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10036)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11755)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant