Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Tư: Đàn Ba La Mật

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 12397)
Phẩm Thứ Tư: Đàn Ba La Mật


PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ TƯ
ĐÀN BA LA MẬT 

Bồ Tát tu hành bố thí như thế nào? Bố thí nếu là vì để tự lợi tự tha, cả hai cùng lợi. Bố thí như thế sẽ có thể trang nghiêm được đạo Bồ Đề.

Bồ Tát vì muốn điều phục chúng sinh, làm cho họ lìa được khổ não, cho nên mới thật hành thí. Tu hành thí là luôn sinh tâm xả bỏ đối với tài vật của chính mình, luôn sinh tâm tôn trọng đối với người đến cầu xin, coi họ như cha, mẹ, sư trưởng hay thiện tri thức. Đối với kẻ bần cùng hạ tiện khởi tâm thương mến, coi họ như con một (của mình), tuỳ họ cần gì cho nấy với tâm vui mừng cung kính. Như thế gọi là bố thí tu sơ thí tâm.

Do tu bố thí nên tiếng đồn khắp. Sinh đến chỗ nào cũng của báu đầy ắp, như thế gọi là tự lợi. Có thể làm cho tâm chúng sinh được thoả mãn, (rồi) khuyên dạy điều phục, làm cho họ không còn keo kiết, như thế gọi là lợi tha. Dùng cái đại thí vô tướng do chính mình tu được, dạy các chúng sinh làm cho họ được lợi giống như chính mình, như thế gọi là cùng lợi. Do tu bố thí mà thành được địa vị chuyển luân vương, (nên có thể) thâu nhiếp tất cả vô lượng chúng sinh, đến mức đắc được pháp tạng vô tận của đức Phật, như thế gọi là trang nghiêm đạo Bồ Đề.

Thí có ba loại: một là dùng pháp để thí, hai là thí vô uý, ba là thí tài vật.

Dùng pháp để thí là khuyên người ta thọ giới, tu tập tâm xuất gia. Để phá tà kiến nên nói lên các lỗi lầm tai hại của các ác pháp bốn đảo, đoạn, thường, và phân biệt khai mở ý nghĩa của chân đế. Ca ngợi công đức tinh tiến, nói lên tai hại của phóng dật. Như thế gọi là pháp thí.

Nếu có chúng sinh sợ hãi vua chúa, sư tử, cọp sói, lửa nước, giặc cướp, Bồ Tát thấy thế, rồi có thể cứu hộ họ được, gọi là vô uý thí.

Đem tài vật của chính mình ra thí không hề tiếc rẻ, trên cho đến trân bảo, voi ngựa, xe cộ, lụa bông, lúa mạch, quần áo, uống ăn, dưới cho đến miếng bánh, sợi chỉ. Hoặc ít hoặc nhiều đúng với ý của người xin, tuỳ họ cần gì cho nấy, như thế gọi là tài thí. Tài thí có năm loại:

  1. một là chí tâm thí
  2. hai là tín tâm thí
  3. ba là tuỳ thời thí
  4. bốn là tự tại thí
  5. năm là như pháp thí.

Những gì không được thí cũng có năm điều:

  1. tài sản có được một cách phi lý, không được đem thí cho người, bởi đó là các vật không trong sạch.
  2. Rượu và độc dược không được đem thí cho người, vì các thứ ấy làm (não) loạn chúng sinh.
  3. Bẫy lưới, máp rập, võng, không được đem thí cho người, vì các thứ ấy (não) hại chúng sinh.
  4. Dao gậy cung tên không được đem thí cho người, vì các thứ ấy làm hại chúng sinh.
  5. Âm nhạc, nữ sắc không được đem thí cho người, vì các thứ ấy phá hoại tịnh tâm.

Tóm yếu mà nói, các vật không đúng như pháp làm não loạn chúng sinh, thì không được đem thí cho người. Ngoài ra, tất cả những gì có thể khiến cho chúng sinh được an lạc, thì gọi là như pháp thíNgười ưa thích thí, thời sẽ có được năm thứ danh văn lợi dưỡng:

  1. Một là thường được gần gũi tất cả các bậc hiền thánh.
  2. Hai là tất cả chúng sinh đều thích gặp gỡ.
  3. Ba là khi đi vào giữa đại chúng, được mọi người tôn kính.
  4. Bốn là danh tốt tiếng lành đồn khắp mười phương.
  5. Năm là có thể làm nhân thượng diệu cho Bồ Đề.

Bậc Bồ Tát gọi là thí tất cả. Thí tất cả không phải có nghĩa là nhiều tài sản, mà có nghĩa là tâm thí vậy.

  1. Cầu được tài sản đúng như pháp đem ra bố thí, gọi là thí tất cả.
  2. Dùng tâm thanh tinh không chút quanh co mà thí, gọi là thí tất cả.
  3. Thấy kẻ bần cùng, tâm sinh thương xót mà thí, gọi là thí tất cả.
  4. Thấy người khổ nạn, tâm sinh từ bi mà thí, gọi là thí tất cả.
  5. Tuy nghèo ít tài mà có thể đem ra thí, gọi là thí tất cả.
  6. Quý thích bảo vật mà vẫn mở tâm ra thí được, gọi là thí tất cả.
  7. Chẳng kể trì giới huỷ giới, (phúc) điền hay phi (phúc) điền đều thí hết, gọi là thí tất cả.
  8. Chí cầu vô thượng đại Bồ Đề mà thí, gọi là thí tất cả.
  9. Muốn thí, khi thí, thí rồi không hối, gọi là thí tất cả.

10. Nếu dùng hoa mà thí, là vì để được đủ bảy hoa giác Đà La Ni.

11. Nếu dùng hương mà thí, là vì để được đủ giới định huệ ướp thoa vào thân.

12. Nếu dùng quả mà thí, là vì để được thành tưụ quả vô lậu.

13. Nếu dùng đồ ăn mà thí, là vì để được đầy đủ mạng khoẻ sắc lực vui tươi.

14. Dùng quần áo mà thí, là vì để được đầy đủ sắc thanh tịnh trừ (tâm) không hổ thẹn.

15. Dùng voi ngựa xe cộ mà thí, là vì để được vô thượng thừa gồm đủ thần thông.

16. Dùng đèn sáng mà thí, là vì để đầy đủ mắt Phật chiếu rõ (thật) tính cuả tất cả các pháp.

17. Dùng anh lạc mà thí, là vì gồm đủ 80 tuỳ hình hảo.

18. Dùng gân sức hầu sứ mà thí, là vì để gồm đủ mười lực và bốn vô uý cuả Phật.

Tóm yếu mà nói, cho đến quốc thành, vợ con, đầu mắt tay chân, toàn thân thí cho, tâm không tiếc rẻ, là vì để đắc vô thượng Bồ Đề mà độ chúng sinh.

Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành bố thí, không thấy có tài vật (để thí), người thí, người nhận. Bởi (cả ba thứ ấy) đêù không có tướng. Như thế sẽ đầy đủ hết Ba La Mật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12518)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14111)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10854)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10524)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11198)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12006)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13157)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13643)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33675)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11342)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13064)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11635)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17901)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11449)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11866)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11513)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18980)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12557)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11349)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13155)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15784)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11825)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11701)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12779)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12639)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13972)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13001)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12953)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13303)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12778)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12704)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11755)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11740)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12331)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12389)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19830)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11966)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11996)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16890)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12678)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15066)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16128)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12885)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12245)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11921)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11930)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13156)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16512)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12500)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11826)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19866)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11166)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11264)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10406)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11101)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10974)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10041)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11758)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant