Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm Thứ Sáu: Sằn Đề Ba La Mật

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 12861)
Phẩm Thứ Sáu: Sằn Đề Ba La Mật


PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ SÁU
SẰN ĐỀ BA LA MẬT

 Bồ Tát tu hành nhẫn nhục như thế nào? Nhẫn nhục nếu là vì để tự lợi, lợi tha, cả hai cùng lợi, nhẫn nhục như thế thì sẽ có thể trang nghiêm được đạo Bồ Đề.

Bồ Tát vì muốn điều phục chúng sinh khiến họ lìa xa khổ não nên mới tu nhẫn nhục. Tu nhẫn nhục là tâm thường khiêm hạ đối với tất cả chúng sinh. Cương cường, kiêu mạn, xả hết không hành. Thấy kẻ thô ác thì khởi tâm thương tưởng. Lời lẽ thường mềm mại, khuyến hoá (chúng sinh) tu thiện. Có thể phân biệt nói rõ về sự sai khác giữa quả báo của hoà nhẫn và sân hận. Như thế gọi là sơ tâm nhẫn nhục của Bồ Tát.

Do tu nhẫn nhục nên lìa xa các ác pháp, thân tâm được an lạc, như thế gọi là tự lợi. Dẫn dắt giáo hoá chúng sinh đều khiến cho họ được hoà thuận, như thế gọi là lợi tha. Đem đại nhẫn vô thượng do chính mình tu ra giáo hoá các chúng sinh khiến họ có được lợi ích giống như chính mình, như thế gọi là cùng lợi. Nhân tu nhẫn nhụcđạt được đoan chính, được người tôn trọng, cho đến được các tướng đẹp thượng diệu của Phật, như thế gọi là trang nghiêm đạo Bồ Đề.

Nhẫn nhục có ba, chính là thân, khẩu, ý. Thế nào là thân nhẫn ? nếu người khác phát ác xâm phạm đánh đập mình đến mức gây thương hại, trọn đều có thể nhẫn chịu. Thế nào là khẩu nhẫn? Nếu gặp ai mắng chửi mình, im lặng chịu không mắng trả lại. Nếu gặp kẻ đến trách mắng một cách phi lý thì phải nhỏ nhẹ chiều theo. Nếu có kẻ nào lại còn vu cáo ngang ngạnh phỉ báng, thời đều phải nhẫn thọ, như thế gọi là khẩu nhẫn. Thế nào là ý nhẫn ? Gặp kẻ tức giận mình, tâm không mang hận, nếu có ai đụng chạm làm phiền, tâm mình không loạn. Nếu có ai chỉ trích, tâm cũng không oán, như thế gọi là ý nhẫn.

Những kẻ ra tay đánh (người) trong thế gian này có hai loại, một là (đúng) thật, hai là ngang (tàng). Nếu (mình) có tội lỗi, và nếu người ta hiềm nghi, (rồi) bị người ấy đánh, thì tự mình phải nhẫn chịu như uống cam lồ. Đối với người ấy phải sinh lòng cung kính, tại sao như thế? Bởi (người ấy) khéo có thể răn dạy điều phục được ta, khiến ta lìa xa được các tội lỗi. Nếu (kẻ nào) ngang ngạnh còn thêm ác tâm gây đả thương ta, thời phải tự tư duy: “Ta nay không có tội, như thế phải là túc nghiệp quá khứ đưa lại”. Như thế cũng nên phải nhẫn. Lại phải suy nghĩ : “Bốn đại giả hợp, năm chúng duyên hội, ai là người bị đánh đây?”. Lại quán người trước mặt (đang đánh mình) như si như cuồng, ta nên thương họ. Tại sao lại không nhẫn?

Lại mắng chửi cũng có hai loại: một là (đúng) thật, hai là hư (dối). Nếu lời (mắng) nói đúng thật thì ta phải sinh hổ thẹn. Nếu lời (mắng) nói hư dối thì đâu can dự gì đến chuyện của ta, nó y như âm vang hay như gió thoảng qua không tổn hại gì đến ta hết, cho nên nên nhẫn.

Lại kẻ sân cũng thế. Họ đến sân hận với ta, ta phải nhẫn chịu. Nếu ta sân (lại) với họ, thì đời vị lai sẽ đọa ác đạo chịu khổ não hơn. Do nhân duyên này, thân ta nếu bị chém cắt đứt lìa cũng không được nổi sân, mà cần phải quán sâu về nhân duyên nghiệp quá khứ, và hãy tu từ bi thương tưởng tất cả (chúng sinh). Cái khổ nhỏ như thế mà còn không thể nhẫn được, thì ta sẽ không thể tự điều phục được tâm, rồi làm sao lại có thể điều phục được chúng sinh, khiến họ giải thoát được tất cả các ác pháp, thành quả vô thượng?

Nếu người có trí thích tu nhẫn nhục, người này thường có được diện mạo đoan chính, có nhiều tài bảo, ai thấy cũng hoan hỉ, ngưỡng kính, phục tùng. Lại phải quán sát: Nếu có người nào thân hình tàn tật, nhan sắc xấu xa, các căn không đủ, thiếu thốn tài vật, phải biết đó đều là do nhân duyên sân mà nên. Do nhân duyên ấy, người trí phải nên tu sâu nhẫn nhục.

Có mười nhân duyên làm phát sinh nhẫn:

  1. một là không quán tướng ngã và ngã sở,
  2. hai là không nhớ đến (niệm) dòng tộc,
  3. ba là phá trừ kiêu mạn,
  4. bốn là ác đến không báo trả,
  5. năm là quán tưởng vô thường,
  6. sáu là tu từ bi,
  7. bảy là tâm không phóng dật,
  8. tám là xả bỏ các việc đói khát, khổ sướng v.v…
  9. chín là đoạn trừ sân hận,

10. mười là tu tập trí huệ.

Nếu ai thành được mười sự thể ấy, phải biết người ấy có thể tu nhẫn nhục được. Bồ Tát Ma Ha Tát khi tu thanh tịnh tất cánh nhẫn, nếu nhập vào KHÔNG, vô tướng, vô nguyện, vô tát, sẽ không hoà hợp cùng với kiến, giác, nguyện, tác (cũng) không cậy bám vào, vô KHÔNG tướng, vô nguyện, vô tác. Các kiến, giác, nguyện, tác này đều là KHÔNG. Nhẫn KHÔNG như thế là không có hai tướng, được gọi là thanh tịnh tất cánh nhẫn vậy. Nếu nhập vào tận kết, hoặc nhập tịch diệt, không hoà hợp với kết và sinh tử, cũng không cậy vào tận kết và tịch diệt. Các kết và sinh tử đều là KHÔNG. Nhẫn như thế là không có hai tướng, được gọi là thanh tịnh tất cánh nhẫn vậy. Nếu tính không tự sinh, không do tha sinh, không phải hoà hợp sinh, cũng không có xuất (hiện ra), không thể phá hoại. Cái không thể hoại thời không thể tận. Nhẫn như thế là không có hai tướng, thời gọi là thanh tịnh tất cánh nhẫn vậy. Không có tác (hay) phi tác, không có gì để cậy bám, không phân biệt, không trang nghiêm, không tu trị, không phát triển. Rốt cuộc không tạo sinh. nhẫn như thế là vô sinh nhẫn. Bồ Tát tu hành nhẫn này như thế, sẽ được thọ ký (về) nhẫn. Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành nhẫn nhục tính, tướng đều KHÔNG, bởi không có chúng sinh vậy. Như thế sẽ đầy đủ hết Sằn Đề Ba La Mật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32339)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6395)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11023)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30188)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30265)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7860)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11956)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12129)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11449)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12478)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34278)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9667)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52059)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10578)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10330)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10534)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10311)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12903)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16006)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21599)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6982)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12446)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12612)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16063)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16325)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13685)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16325)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11882)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13650)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14198)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11634)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11161)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16045)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14213)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16047)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12578)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11901)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11637)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15516)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11359)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13874)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11856)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12405)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14783)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11833)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12969)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14301)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20445)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13047)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10822)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20523)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14179)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20075)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17393)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13791)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31686)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11878)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant