Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm Thứ Bảy: Tỳ Lê Gia Ba La Mật

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 12954)
Phẩm Thứ Bảy: Tỳ Lê Gia Ba La Mật


PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ BẢY
TỲ LÊ GIA BA LA MẬT

 Bồ Tát tu hành tinh tiến như thế nào? Tinh tiến nếu là vì để tự lợi, lợi tha, cả hai cùng lợi. Tinh tiến như thế thì sẽ có thể trang nghiêm được đạo Bồ Đề.

Bồ Tát vì muốn điều phục chúng sinh, khiến họ lìa xa được khổ não nên tu tinh tiến. Tu tinh tiến là bất cứ lúc nào cũng thường chăm chỉ tu tập phạm hạnh thanh tịnh, lìa bỏ tâm lười biếng kiêu mạn, không phóng dật. Đối với các việc khó khăn không ích lợi gì, tâm thường tinh cần trước sau không thối thất. Như thế gọi là sơ tâm tinh tiến của Bồ Tát. Nhờ tu tinh tiến nên có thể được các thiện pháp thượng diệu thuộc thế gianxuất thế gian. Như thế gọi là tự lợi. Giáo hoá chúng sinh khiến họ chăm tu thiện, như thế gọi là lợi tha. Đem cái chính nhân Bồ Đề do chính mình tu ra giáo hoá các chúng sinh, khiến họ được lợi ích giống như chính mình, như thế gọi là cùng lợi. Nhờ tu tinh tiếnđạt được diệu quả thanh tịnh hơn hết, siêu việt lên trên các địa đến mức mau thành chính giác. Như thế gọi là trang nghiêm đạo Bồ Đề.

Tinh tiến có hai loại: một là do vì cầu vô thượng đạo, hai là muốn cứu vớt hết chúng khổ mà khởi tinh tiến. Bồ Tát phải thành tựu mười niệm, mới có thể phát tâm cần hành tinh tiến. Thế nào là mười niệm?

  1. một là niệm tưởng đến vô lượng công đức của Phật,
  2. hai là niệm tưởng đến sự giải thoát bất tư nghì của pháp,
  3. ba là niệm tưởng đến sự thanh tịnh vô nhiễm của tăng,
  4. bốn là niệm tưởng đến việc thật hành đại từ để an lập chúng sinh,
  5. năm là niệm tưởng đến việc thật hành đại bi để cứu vớt chúng khổ,
  6. sáu là niệm tưởng đến tụ chính định, khuyến ( khích chúng sinh) ưa thích tu thiện,
  7. bảy là niệm tưởng đến tụ tà định, kéo (chúng sinh) ra khiến trở về với gốc (thiện),
  8. tám là niệm tưởng đến các ngạ quỷ đói khát nóng cháy (nhiệt não)
  9. chín là niệm tưởng đến các súc sinh chịu hoài các khổ,
  10. mười là niệm tưởng đến các địa ngục chịu đủ các điều thiêu nấu.

Bồ Tát tư duy mười niệm như thế (nghĩ rằng): Công đức của Tam Bảo ta phải tu tập (đối với) từ bichính định ta phải khuyến khích (chúng sinh) nỗ lực, (đối với) chúng sinh tà định và khổ của ba ác đạo ta phải cứu vớt. Tư duy và chỉ niệm tưởng như thế không tán loạn, ngày đêm cần tu không hề ngưng bỏ, như thế gọi là khởi được chính niệm tinh tiến.

Bồ Tát tinh tiến lại còn có bốn sự việc, chính là tu hành đạo bốn chính cần:

  1. các ác pháp chưa sinh, ngăn chận không cho khởi,
  2. các ác pháp đã sinh, phải lập tức làm cho chúng được đoạn trừ,
  3. các thiện pháp chưa sinh, tìm phương tiện làm cho chúng sinh.
  4. các thiện pháp đã sinh, thì phải tu (thêm cho) viên mãn, (làm cho) tăng trưởng rộng rãi.

Bồ Tát tu đạo bốn chính cần như thế mà không hề ngưng nghỉ, thì gọi là tinh tiến. Sự chăm tinh tiến này có thể phá tan tất cả các phiền não giới, làm tăng trưởng chính niệm vô thượng Bồ Đề.

- Bồ Tát nếu có thể chịu tất cả các khổ lớn đối với thân tâm, là vì muốn an lập các chúng sinh mà không biết mỏi mệt, như thế gọi là tinh tiến.

- Bồ Tát sau khi lìa xa pháp ác, quanh co không thật (siểm khúc), tà tinh tiến, bèn tu chính tinh tiến, nghĩa là tu tín, thí, giới, định, huệ, từ bi hỉ xả. (Đó là) những gì muốn làm đã làm và sẽ làm (nữa), chí tâm thường hành tinh tiến không hối hận; đối với các thiện pháp và việc cứu vớt chúng khổ, coi như cứu lửa đốt trên đầu, tâm không hề thối thất, như thế gọi là tinh tiến. Bồ Tát tuy là không tiếc gì thân mạng, song vì để cứu vớt chúng khổ, bảo hộ chính pháp, nên phải yêu tiếc (thân ấy), mà không bỏ oai nghi, thường tu thiện pháp. Khi tu thiện pháp tâm không lười biếng (giải đãi), (cho dù) có mất mạng cũng không bỏ như pháp. Như thế gọi là Bồ Tát (do) tu đạo Bồ Đề (nên) cần hành tinh tiến. Con người giải đãi không thể một lúc bố thí hết tất cả, không thể trì giới, nhẫn (nại) đối với chúng khổ. Cần hành tinh tiến, nhiếp tâm (vào) niệm và định, phân biệt thiện ác. Cho nên mới nói rằng sáu Ba La Mật do sự tinh tiến mà được tăng trưởng. Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát tinh tiến tăng trưởng, thì sẽ có thể mau đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Bồ Tát phát đại trang nghiêm mà khởi tinh tiến lại gồm có bốn điều:

  1. một là phát đại trang nghiêm,
  2. hai là tích tập dũng kiện,
  3. ba là tu các thiện căn,
  4. bốn là giáo hoá chúng sinh.

Thế nào là Bồ Tát phát đại trang nghiêm? Đối với việc sinh tử tâm có thể kham nhẫn, không kể kiếp số. Đối với việc (phải trải qua) vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na do tha Hằng Hà sa a tăng kỳ kiếp mới thành Phật đạo, tâm không (cảm thấy) mỏi mệt, như thế gọi là trang nghiêm tinh tiến không lười biếng.

Bồ Tát (do) tích tập dũng kiện mà khởi tinh tiến (là) nếu như lửa cháy khắp cùng tam thiên đại thiên thế giới, mà vì để gặp Phật, vì để nghe pháp, vì để đặt để (an chỉ) chúng sinh vào thiện pháp, cần phải đi qua đám lửa ấy (Bồ Tát sẽ đi qua), vì để điều phục chúng sinh nên tâm khéo đặt để vào trong đại bi, như thế gọi là dũng kiện tinh tiến.

Bồ Tát (do) tu tập thiện căn mà khởi tinh tiến (là): như tất cả các thiện căn được phát khởi, trọn đều đem chúng hồi hướng về A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, do bởi muốn thành tựu nhất thiết trí, như thế gọi là tu tập thiện căn tinh tiến.

Bồ Tát (do) giáo hoá chúng sinh mà khởi tinh tiến (là): tính của chúng sinh không thể kể ra hết, vô lượng vô biên bằng với hư không giới, (song) Bồ Tát lập thệ, ta sẽ độ hết không còn sót ai. Vì muốn hoá độ như thế nên cần hành tinh tiến, như thế gọi là giáo hoá tinh tiến.

Tóm yếu mà nói, Bồ Tát tu công đức trợ đạo để trợ giúp cho vô thượng trí huệ. Tu tập Phật pháp mà khởi tinh tiến. Công đức của chư Phật vô lượng vô biên, sự tinh tiến do Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại trang nghiêm mà thật hành cũng y như thế, vô lượng vô biên. Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành tinh tiến không có tâm lìa dục vì để cứu chúng khổ. Như thế sẽ gồm đủ hết Tỳ Lê Gia Ba La Mật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14729)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11802)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12741)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10317)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12041)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15260)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11050)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10491)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12445)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16409)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14281)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11753)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14773)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12002)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16795)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11552)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12714)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11324)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12034)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52058)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15445)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13950)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11415)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13145)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12758)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13195)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17882)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12428)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12633)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54179)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14409)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9909)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13808)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57924)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14472)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20111)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13754)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15380)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17476)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13298)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11904)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13472)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14640)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12464)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12143)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12049)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13269)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12520)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13652)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13308)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25548)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12167)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14520)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11828)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42040)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28291)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38766)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14706)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12683)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16231)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant