Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Bảy: Tỳ Lê Gia Ba La Mật

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 12963)
Phẩm Thứ Bảy: Tỳ Lê Gia Ba La Mật


PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ BẢY
TỲ LÊ GIA BA LA MẬT

 Bồ Tát tu hành tinh tiến như thế nào? Tinh tiến nếu là vì để tự lợi, lợi tha, cả hai cùng lợi. Tinh tiến như thế thì sẽ có thể trang nghiêm được đạo Bồ Đề.

Bồ Tát vì muốn điều phục chúng sinh, khiến họ lìa xa được khổ não nên tu tinh tiến. Tu tinh tiến là bất cứ lúc nào cũng thường chăm chỉ tu tập phạm hạnh thanh tịnh, lìa bỏ tâm lười biếng kiêu mạn, không phóng dật. Đối với các việc khó khăn không ích lợi gì, tâm thường tinh cần trước sau không thối thất. Như thế gọi là sơ tâm tinh tiến của Bồ Tát. Nhờ tu tinh tiến nên có thể được các thiện pháp thượng diệu thuộc thế gianxuất thế gian. Như thế gọi là tự lợi. Giáo hoá chúng sinh khiến họ chăm tu thiện, như thế gọi là lợi tha. Đem cái chính nhân Bồ Đề do chính mình tu ra giáo hoá các chúng sinh, khiến họ được lợi ích giống như chính mình, như thế gọi là cùng lợi. Nhờ tu tinh tiếnđạt được diệu quả thanh tịnh hơn hết, siêu việt lên trên các địa đến mức mau thành chính giác. Như thế gọi là trang nghiêm đạo Bồ Đề.

Tinh tiến có hai loại: một là do vì cầu vô thượng đạo, hai là muốn cứu vớt hết chúng khổ mà khởi tinh tiến. Bồ Tát phải thành tựu mười niệm, mới có thể phát tâm cần hành tinh tiến. Thế nào là mười niệm?

  1. một là niệm tưởng đến vô lượng công đức của Phật,
  2. hai là niệm tưởng đến sự giải thoát bất tư nghì của pháp,
  3. ba là niệm tưởng đến sự thanh tịnh vô nhiễm của tăng,
  4. bốn là niệm tưởng đến việc thật hành đại từ để an lập chúng sinh,
  5. năm là niệm tưởng đến việc thật hành đại bi để cứu vớt chúng khổ,
  6. sáu là niệm tưởng đến tụ chính định, khuyến ( khích chúng sinh) ưa thích tu thiện,
  7. bảy là niệm tưởng đến tụ tà định, kéo (chúng sinh) ra khiến trở về với gốc (thiện),
  8. tám là niệm tưởng đến các ngạ quỷ đói khát nóng cháy (nhiệt não)
  9. chín là niệm tưởng đến các súc sinh chịu hoài các khổ,
  10. mười là niệm tưởng đến các địa ngục chịu đủ các điều thiêu nấu.

Bồ Tát tư duy mười niệm như thế (nghĩ rằng): Công đức của Tam Bảo ta phải tu tập (đối với) từ bichính định ta phải khuyến khích (chúng sinh) nỗ lực, (đối với) chúng sinh tà định và khổ của ba ác đạo ta phải cứu vớt. Tư duy và chỉ niệm tưởng như thế không tán loạn, ngày đêm cần tu không hề ngưng bỏ, như thế gọi là khởi được chính niệm tinh tiến.

Bồ Tát tinh tiến lại còn có bốn sự việc, chính là tu hành đạo bốn chính cần:

  1. các ác pháp chưa sinh, ngăn chận không cho khởi,
  2. các ác pháp đã sinh, phải lập tức làm cho chúng được đoạn trừ,
  3. các thiện pháp chưa sinh, tìm phương tiện làm cho chúng sinh.
  4. các thiện pháp đã sinh, thì phải tu (thêm cho) viên mãn, (làm cho) tăng trưởng rộng rãi.

Bồ Tát tu đạo bốn chính cần như thế mà không hề ngưng nghỉ, thì gọi là tinh tiến. Sự chăm tinh tiến này có thể phá tan tất cả các phiền não giới, làm tăng trưởng chính niệm vô thượng Bồ Đề.

- Bồ Tát nếu có thể chịu tất cả các khổ lớn đối với thân tâm, là vì muốn an lập các chúng sinh mà không biết mỏi mệt, như thế gọi là tinh tiến.

- Bồ Tát sau khi lìa xa pháp ác, quanh co không thật (siểm khúc), tà tinh tiến, bèn tu chính tinh tiến, nghĩa là tu tín, thí, giới, định, huệ, từ bi hỉ xả. (Đó là) những gì muốn làm đã làm và sẽ làm (nữa), chí tâm thường hành tinh tiến không hối hận; đối với các thiện pháp và việc cứu vớt chúng khổ, coi như cứu lửa đốt trên đầu, tâm không hề thối thất, như thế gọi là tinh tiến. Bồ Tát tuy là không tiếc gì thân mạng, song vì để cứu vớt chúng khổ, bảo hộ chính pháp, nên phải yêu tiếc (thân ấy), mà không bỏ oai nghi, thường tu thiện pháp. Khi tu thiện pháp tâm không lười biếng (giải đãi), (cho dù) có mất mạng cũng không bỏ như pháp. Như thế gọi là Bồ Tát (do) tu đạo Bồ Đề (nên) cần hành tinh tiến. Con người giải đãi không thể một lúc bố thí hết tất cả, không thể trì giới, nhẫn (nại) đối với chúng khổ. Cần hành tinh tiến, nhiếp tâm (vào) niệm và định, phân biệt thiện ác. Cho nên mới nói rằng sáu Ba La Mật do sự tinh tiến mà được tăng trưởng. Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát tinh tiến tăng trưởng, thì sẽ có thể mau đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Bồ Tát phát đại trang nghiêm mà khởi tinh tiến lại gồm có bốn điều:

  1. một là phát đại trang nghiêm,
  2. hai là tích tập dũng kiện,
  3. ba là tu các thiện căn,
  4. bốn là giáo hoá chúng sinh.

Thế nào là Bồ Tát phát đại trang nghiêm? Đối với việc sinh tử tâm có thể kham nhẫn, không kể kiếp số. Đối với việc (phải trải qua) vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na do tha Hằng Hà sa a tăng kỳ kiếp mới thành Phật đạo, tâm không (cảm thấy) mỏi mệt, như thế gọi là trang nghiêm tinh tiến không lười biếng.

Bồ Tát (do) tích tập dũng kiện mà khởi tinh tiến (là) nếu như lửa cháy khắp cùng tam thiên đại thiên thế giới, mà vì để gặp Phật, vì để nghe pháp, vì để đặt để (an chỉ) chúng sinh vào thiện pháp, cần phải đi qua đám lửa ấy (Bồ Tát sẽ đi qua), vì để điều phục chúng sinh nên tâm khéo đặt để vào trong đại bi, như thế gọi là dũng kiện tinh tiến.

Bồ Tát (do) tu tập thiện căn mà khởi tinh tiến (là): như tất cả các thiện căn được phát khởi, trọn đều đem chúng hồi hướng về A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, do bởi muốn thành tựu nhất thiết trí, như thế gọi là tu tập thiện căn tinh tiến.

Bồ Tát (do) giáo hoá chúng sinh mà khởi tinh tiến (là): tính của chúng sinh không thể kể ra hết, vô lượng vô biên bằng với hư không giới, (song) Bồ Tát lập thệ, ta sẽ độ hết không còn sót ai. Vì muốn hoá độ như thế nên cần hành tinh tiến, như thế gọi là giáo hoá tinh tiến.

Tóm yếu mà nói, Bồ Tát tu công đức trợ đạo để trợ giúp cho vô thượng trí huệ. Tu tập Phật pháp mà khởi tinh tiến. Công đức của chư Phật vô lượng vô biên, sự tinh tiến do Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại trang nghiêm mà thật hành cũng y như thế, vô lượng vô biên. Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành tinh tiến không có tâm lìa dục vì để cứu chúng khổ. Như thế sẽ gồm đủ hết Tỳ Lê Gia Ba La Mật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12501)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11646)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28811)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12052)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11445)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12380)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17447)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53061)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35490)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21399)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26047)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13321)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14383)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16090)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16848)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17586)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13132)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12534)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11610)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11618)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14512)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20487)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19570)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18654)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12188)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12318)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13863)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15524)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17196)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20198)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13842)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11710)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15064)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14557)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13171)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18348)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11944)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11504)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15854)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12885)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18910)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18423)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant