Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm Thứ Tám: Thiền Na Ba La Mật

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 12509)
Phẩm Thứ Tám: Thiền Na Ba La Mật


PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ TÁM
THIỀN NA BA LA MẬT

 Bồ Tát tu tập thiền định như thế nào? Thiền định nếu là vì để tự lợi, lợi tha, cả hai cùng lợi, thiền định như thế thì sẽ có thể trang nghiêm được đạo Bồ Đề.

Bồ Tát vì muốn điều phục chúng sinh, khiến họ lìa xa được khổ não nên tu thiền định. Tu thiền định là khéo nhiếp tâm mình, không để cho bất cứ loạn tưởng nào vọng tác. Đi, đứng, nằm, ngồi trói niệm vào trước mặt. Quán sát (theo hai chiều) nghịch thuận, nào là đầu lâu, đỉnh (đầu), xương sống, cánh tay, khuỷu tay, ngực, sườn, xương hông, xương đùi, ống quyển, mắt cá chân, an ban đếm hơi thở, như thế gọi là sơ tâm tu định của Bồ Tát.

Do tu thiền định nên không thọ các ác pháp, tâm thường khoan khoái như thế, gọi là tự lợi. Giáo hoá chúng sinh khiến họ tu chính niệm, như thế gọi là lợi tha. Đem tam muội thanh tịnh lìa ác, với giác quán, do chính mình tu ra giáo hoá các chúng sinh, khiến họ được lợi ích như chính mình, như thế gọi là cùng lợi. Do tu thiền định nên đạt được tám giải thoát, cho đến Thủ Lăng Nghiêm, Kim Cương tam muội, như thế gọi là trang nghiêm đạo Bồ Đề.
Thiền định do ba pháp mà sinh. Thế nào là ba?

  1. một là huệ do văn,
  2. hai là huệ do tư,
  3. ba l à huệ do tu.

Từ ba pháp ấy từ từ mà sinh tất cả các tam muội.

Thế nào là văn huệ ? Đúng như các pháp được nghe, tâm thường ưa thích. Lại nghĩ như sau: các pháp vô ngại giải thoát v.v…của chư Phật, phải do đa văn mà đắc thành tựu. Nghĩ như thế rồi, đối với mọi lúc cầu pháp càng thêm tinh cần, ngày đêm thường thích nghe pháp không thấy chán hay đủ, như thế gọi là văn huệ.

Thế nào là tư huệ ? Tư niệm quán sát tướng như thật của tất cả các pháp hữu vi, chính là vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, niệm niệm sinh diệt, không lâu là diệt hoại. Song các chúng sinh bị ưu, bi, khổ não, thường ghét trói buộc, chỉ vì lửa tham, khuể, si thiêu đốt, làm tăng trưởng khối khổ não lớn ở đời sau. (Song, thật ra chúng) không có thật tính, y như huyễn hoá. Thấy như thế rồi, nên đối với tất cả pháp hữu vi liền sinh chán lìa, ra sức tinh cần hướng về trí huệ Phật. Tư duy về trí huệ Như Lai không thể suy lường, không thể nói hết, có thế lực lớn không ai có thể hơn được, có thể đến được thành lớn an ổn, vô uý không bị hồi lại, có thể cứu được vô lượng chúng sinh khổ não, chí nguyện tiến cầu Đại Thừa vô thượng, như thế gọi là tư huệ.

Thế nào là tu huệ ? Từ sơ quán về cốt (xương), cho đến A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đều gọi là tu huệ: lìa các pháp không thiện thuộc dục giới, có giác có quán là sinh hỉ lạc, nhập vào sơ thiền. Diệt giác và quán, bên trong thanh tịnh, tâm một chỗ, không giác không quán định sinh hỉ lạc, nhập vào nhị thiền. Lìa hỉ nên (thật) hành xả, tâm niệm (khinh) an (thuộc) huệ, thân cảm thọ lạc. Các hiền thánh thường thuyết thường xả, thường niệm thọ lạc nhập vào tam thiền. Do đoạn khổ đoạn lạc, do trước hết diệt ưu hỉ, nên không khổ không lạc hành xả, niệm, tịnh, nhập vào tứ thiền. Do vượt qua tất cả sắc tướng, diệt tất cả các tướng hữu đối, không niệm tất cả các tướng biệt dị, nên biết được hư không vô biên, thời sẽ nhập vào hư không vô sắc định xứ. Vượt qua tất cả hư không tướng, biết được thức là vô biên, thời sẽ nhập vào vô sắc thức định sứ. Vượt qua tất cả thức tướng, biết được không có gì hết (vô sở hữu), thời sẽ nhập vào vô sở hữu, vô sắc định sứ. Vượt qua tất cả vô sở hữu sứ, biết được phi hữu tưởng phi vô tưởng an ổn, thời sẽ nhập vào vô sắc phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. (Tuy thế song) chỉ vì tuỳ thuận các pháp mà hành, song không thích đắm, cầu vô thượng thừa thành tối chính giác. Như thế gọi là tu huệ. Bồ Tát do văn tư tu huệ này, tinh cần nhiếp tâm, sẽ có thể thành tựu thông minh tam muội Thiền Na Ba La Mật.

Lại nữa, Bồ Tát tu định lại có mười pháp hành không cùng (hành) chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật. Mười những gì đây?

  1. Một là tu định không có tôi ngã, do bởi có đủ các thiền định của Như Lai.
  2. Hai tu định không đam vị, không đắm trước, lìa bỏ nhiễm tâm không cần an lạc cho riêng mình.
  3. Ba là tu định gồm đủ các nghiệp (thần) thông, do vì biết các tâm hành của chúng sinh.
  4. Bốn là tu định để biết các tâm do bởi độ thoát tất cả chúng sinh.
  5. Năm là tu định thật hành đại bi, do vì đoạn phiền não kết của các chúng sinh,
  6. Sáu là tu định các thiền tam muội, so bởi khéo biết sự nhập xuất vượt quá ba cõi,
  7. Bảy là tu định thường được tự tại, do vì có đủ tất cả các thiện pháp,
  8. Tám là tu định tâm mình tịch diệt, do vì vượt hơn các thiền tam muội của nhị thừa,
  9. Chín là tu định thường nhập trí huệ, do vì vượt quá các pháp thế gian đến bờ kia,
  10. Mười là tu định có thể hưng khởi chính pháp, do vì tục hưng Tam Bảo khiến không đoạn tuyệt.

Định như thế không cùng có chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật.

Lại nữa, do vì (để) biết tất cả tâm phiền não của chúng sinh, cho nên tu tập các pháp thiền định trợ thành trụ tâm, khiến cho (các) thiền định này trụ tâm bình đẳng, như thế gọi là định. Định (bình) đẳng như thế sẽ (bình) đẳng với KHÔNG, vô tướng, vô nguyện, vô tác. (Nếu) KHÔNG, vô tướng, vô nguyện, vô tác (bình) đẳng, thời chúng sinh (bình) đẳng. (Nếu) chúng sinh (bình) đẳng, thời chư pháp (bình) đẳng. Nhập vào (bình) đẳng như thế gọi là định.

Lại nữa, Bồ Tát tuy tuỳ theo thế (gian) mà hành, không lìa ngoài thế (gian), song (Bồ Tát) luôn luôn xả tám pháp thế gian, diệt tất cả các kết, lìa xa thói ồn náo, thích sống một mình. Bồ Tát tu hành thiền định như thế, tâm an chỉ trụ, lìa các sự việc thế gian.

Lại nữa, Bồ Tát tu định, do (để) có đủ thông, trí, phương tiện, huệ. Thế nào là thông? Thế nào là trí? Hoặc thấy sắc tướng, hoặc nghe âm thanh, hoặc biết tâm người, hoặc nhớ (được) quá khứ, hoặc có thể đến khắp được các thế giới của chư Phật. Như thế gọi là thông. Nếu biết sắc tức pháp tính, hiểu rõ âm thanh, tâm hành, tính tướng tịch diệt ba đời đều bình đẳng; biết chư Phật giới bằng với hư không tướng song không chứng diệt tận. Như thế gọi là trí. Thế nào là phương tiện? Thế nào là huệ? Khi nhập vào thiền định thời sinh đại từ bi không bỏ thệ nguyện, tâm (thệ nguyện) như kim cương, quán xét thế giới của chư Phật để (theo đó) trang nghiêm đạo trường Bồ Đề. Như thế gọi là phương tiện. Tâm mình vĩnh viễn tịch (diệt), không có ngã, không có chúng sinh, tư duy bổn tính của chư pháp không loạn, thấy chư Phật giới đồng với hư không, quán những gì được trang nghiêm đồng với tịch diệt. Như thế gọi là huệ.

Như thế gọi là Bồ Tát tu hành thiền định, do (để có đủ) thông, trí, phương tiện, huệ. Bốn sự sai biệt này đều (hiện) hành, (nên) được gần với A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Bồ Tát Ma Ha Tát tu thiền định không còn chút ác tâm, do (như thiền định là) pháp bất động. Như thế thời sẽ gồm đủ Thiền Na Ba La Mật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10252)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12234)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11530)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28683)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11930)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12903)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11344)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12258)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17280)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52701)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35372)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21216)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10590)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19099)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12307)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13212)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14274)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15960)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13628)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16713)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17403)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13017)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12434)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11524)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11474)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14410)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20260)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18819)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19423)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12109)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12191)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13744)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14890)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14955)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13863)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15423)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11299)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17023)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14829)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20044)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14525)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13751)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11631)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14941)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12893)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22752)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14484)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11545)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13078)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16776)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18240)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11859)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11414)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15723)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18786)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18261)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant