Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm Thứ Chín: Bát Nhã Ba La Mật

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 12494)
Phẩm Thứ Chín: Bát Nhã Ba La Mật


PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ CHÍN
BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Bồ Tát tu hành trí huệ như thế nào? Trí huệ nếu vì để tự lợi, lợi tha, cả hai cùng lợi, trí huệ như thế sẽ có thể trang nghiêm được đạo Bồ Đề.

Bồ Tát vì muốn điều phục chúng sinh, khiến họ lìa xa khổ não nên tu trí huệ. Tu trí huệ là phải học trọn tất cả các sự việc ở thế gian, xả tham sân si, kiến lập tâm từ, lân mẫn hữu ích cho tất cả chúng sinh, thường nghĩ tưởng (niệm) cứu vớt, vì họ làm người dẫn đạo, có thể phân biệt nói rõ về chính đạo, tà đạo, cùng thiện báo, ác báo. Như thế gọi là sơ tâm trí huệ của Bồ Tát.

Do tu trí huệ nên lìa xa vô minh, trừ (diệt) phiền não chướngtrí huệ chướng, như thế gọi là tự lợi. Giáo hoá chúng sinh khiến họ được điều phục, như thế gọi là lợi tha. Đem vô thượng Bồ Đề do chính mình tu ra giáo hoá các chúng sinh khiến họ được ích lợi y như chính mình, như thế gọi là cùng lợi. Do tu trí huệđạt được sơ địa cho đến Tát Bà Nhã Trí, như thế gọi là trang nghiêm đạo Bồ Đề.

Bồ Tát tu hành trí huệ có hai mươi tâm có thể từ từ mà kiến lập. Những gì là hai mươi?

  1. Tâm sẽ phát thiện, muốn gần gũi bạn tốt (thiện hữu);
  2. Tâm không phóng dật, lìa bỏ kiêu mạn,
  3. Tâm tuỳ thuận lời răn dạy, ưa thích nghe pháp,
  4. Tâm nghe pháp không chán và khéo tư duy (về pháp),
  5. Tâm thật hành bốn phạm hạnhtu chính trí,
  6. Tâm quán hạnh bất tịnh sinh chán lìa (yếm ly),
  7. Mười sáu thánh tâm, quán bốn chân đế,
  8. Tâm quán mười hai nhân duyên tu minh huệ,
  9. Tâm nghe các ba la mật, nhớ tưởng và muốn tu tập,
  10. Tâm quán vô thường, khổ, vô ngã, tịch diệt.
  11. Tâm quán KHÔNG, vô tướng, vô nguyện, vô tác,
  12. Tâm quán ấm, giới, nhập có nhiều lỗi hại,
  13. Tâm hàng phục phiền não, (coi đó) không phải là bạn lữ,
  14. Tâm bảo hộ các thiện pháp, tự làm bạn lữ (với thiện pháp)
  15. Tâm chế ngự các ác pháp, khiến chúng đoạn trừ,
  16. Tâm tu tập chính pháp, khiến cho tăng trưởng rộng lớn,
  17. Tâm tuy tu nhị thừa mà thường lìa bỏ,
  18. Tâm nghe tạng Bồ Tát ưa thích phụng hành,
  19. Tâm tự lợi, lợi tha, tuỳ thuận tăng tiến các thiện nghiệp,
  20. Tâm trì hạnh chân thật cầu tất cả các Phật pháp.

Lại nữa Bồ Tát tu hành trí huệ lại có mười pháp tâm thiện tư duy, không cùng có chung với Thanh VănBích Chi Phật. Những gì là mười?

  1. Tư duy phân biệt định huệ căn bổn,
  2. Tư duy không bỏ hai biến đoạn và thường,
  3. Tư duy nhân duyên sinh khởi chư pháp,
  4. Tư duy không có chúng sinh, ngã, nhân, thọ mệnh,
  5. Tư duy không có các pháp theo ba thời khứ, lai, trụ,
  6. Tư duy không hề có pháp hành song không đoạn nhân quả,
  7. tư duy pháp KHÔNG song gieo trồng thiện pháp, không biết mệt mỏi.
  8. Tư duy vô tướng song (việc) độ chúng sinh không bỏ phế,
  9. Tư duy vô nguyện song không hề lìa bỏ (tâm) cầu Bồ Đề,
  10. Tư duy vô tác song (thị) hiện thọ (nhậc các) thân không bỏ.

Lại nữa, Bồ Tát có mười hai pháp môn khéo nhập. Những gì là mười hai?

  1. khéo nhập các tam muội KHÔNG này nọ, song không hề giữ lấy để chứng.
  2. khéo nhập các thiền tam muội, song không tuỳ theo thiền na mà sinh (vào đó),
  3. khéo nhập các thông, trí, song không chứng (lấy) pháp vô lậu,
  4. khéo nhập pháp nội quán, song không chứng quyết định,
  5. khéo nhập quán tất cả chúng sinh đều không tịch, song không xả bỏ đại từ,
  6. khéo nhập quán tất cả chúng sinh đều vô ngã, song không xả bỏ đại bi,
  7. khéo nhập sinh các ác thú, song chẳng phải do vì nghiệp nên sinh,
  8. khéo nhập lìa dục, song không chứng pháp lìa dục,
  9. khéo nhập xả bỏ các thứ dục lạc, song không xả bỏ pháp lạc,
  10. khéo nhập xả bỏ tất cả các giác hí luận, song không xả bỏ các quán phương tiện,
  11. khéo nhập tư lương hữu vi pháp nhiều lỗi hại, song không xả bỏ hữu vi,
  12. khéo nhập pháp vô vi thanh tịnh lìa xa, song không trụ vô vi.

Bồ Tát có thể tu được tất cả các pháp môn khéo nhập (này), tức sẽ có thể khéo hiểu ba thời KHÔNG không có gì hết (vô sở hữu). Nếu quán như thế, do lực trí huệ quán ba đời KHÔNG, nếu đối với vô lượng công đức mà chư Phật trong ba đời gieo trồng, trọn đều đem hồi hướng về vô thượng Bồ Đề, như thế gọi là Bồ Tát khéo quán phương tiện ba đời.

Lại nữa, tuy thấy các pháp (diệt) tận ở quá khứ không (đi) đến vị lai, song thường tu thiện tinh tiến không giải đãi. Quán pháp vị lai tuy không sinh ra, (song) không xả bỏ tinh tiến, nguyện hướng Bồ Đề. Quán pháp hiện tại tuy niệm niệm diệt, (song) tâm mình không quên phát tiến đến Bồ Đề. Như thế gọi là Bồ Tát quán phương tiện ba đời: quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại không trụ. Tuy quán tâm, tâm số pháp sinh diệt tán hoại như thế, song thường không xả bỏ việc tu tập thiện căn trợ cho pháp Bồ Đề. Như thế gọi là Bồ Tát quán phương tiện ba đời.

Lại nữa, Bồ Tát quán tất cả thiện bất thiện, ngã vô ngã, thật bất thật, KHÔNG bất KHÔNGthế đế chân đế, chính định tà định, hữu vi vô vi, hữu lậu vô lậu, hắc pháp bạch pháp, sinh tử Niết Bàn, như tính của pháp giới (chỉ) một tướng (thôi là) vô tướng. Trong (vô tướng) ấy không có pháp nào để có thể gọi là vô tướng, cũng không có pháp nào để lấy đó cho là vô tướng. Như thế ắt gọi là nhất thiết pháp ấn, bất khả hoại ấn. Ở trong ấn đó cũng không có tướng của ấn. Như thế gọi là chân thật trí huệ phương tiện Bát Nhã Ba La Mật.

Bồ Tát Ma Ha Tát phát tâm Bồ Đề phải học như thế, phải hành như thế. Hành như thế là sẽ gần với A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Bồ Tát Ma Ha Tát hành trí huệ (mà) tâm không có hành gì hết, do bởi pháp tính thanh tịnh, như thế ắt là đầy đủ hết Bát Nhã Ba La Mật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32609)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11096)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30233)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30313)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7884)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12038)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11497)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12589)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34456)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9723)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52118)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10627)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10387)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9521)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12529)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16397)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11963)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14229)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16129)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16107)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12617)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11950)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15550)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11407)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12516)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14865)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11880)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14384)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14231)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20155)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17468)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11909)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant