Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm Thứ Mười: Như Thật Pháp Môn

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 12566)
Phẩm Thứ Mười: Như Thật Pháp Môn


PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ MƯỜI
NHƯ THẬT PHÁP MÔN

 Thiện nam tử, thiện nữ nhân, người tu tập sáu Ba La Mật cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề phải lìa xa bảy pháp. Những gì là bảy?

- Một là lìa xa ác tri thức. Ác tri thức là những ai dạy người ta xả lìa niềm tin cao thượng, ý muốn cao thượng, tinh tiến cao thượng (mà chỉ) tu tập các tạp hành.

- Hai là lìa khỏi nữ sắc, các ham mê ưa thích dục, giỡn cợt thói người đời, làm việc cho họ.

- Ba là lìa khỏi ác giác, (có nghĩa là) tự quán hình dung (của mình) rồi tham tiếc yêu mến coi nặng, nhiễm đắm giữ gìn cho là có thể giữ được lâu dài.

- Bốn là lìa khỏi sân, giận, dữ, mạn, ganh ghét, đố kỵ, phát khởi tranh tụng, hoại loạn tâm thiện.

- Năm là lìa khỏi phóng dật, kiêu mạn, giải đãi, tự thị các thiện nhỏ (của mình mà) khinh miệt người khác.

- Sáu là lìa bỏ các sách luận ngoại đạo cùng các ngôn từ chải chuốt của văn vẻ thế tục, không phải điều Phật nói, không hề ca ngợi mà tụng đọc.

- Bảy là không được gần gũi tà kiến, ác kiến.

Bảy pháp như thế cần phải lìa xa. Như Lai nói rằng: không còn thấy có pháp nào sâu chướng đạo Phật cho bằng bảy pháp này. Cho nên Bồ Tát cần phải lìa xa.

Nếu muốn mau được vô thượng Bồ Đề, phải tu bảy pháp. Những gì là bảy?

- Một là Bồ Tát cần phải gần gũi thiện tri thức. thiện tri thức chính là chư Phật cùng chư Bồ Tát. Nếu là bậc Thanh Văn mà có thể làm cho Bồ Tát trụ vào tạng pháp thâm sâu (tức) các Ba La Mật, thì (vị đó) cũng là thiện tri thức của Bồ Tát vậy.

- Hai là Bồ Tát cần phải gần gũi người xuất gia, cũng phải gần gũi các pháp a lan nhã, lìa khỏi nữ sắc cùng các ưa muốn, không cùng với người đời mà làm việc chung.

- Ba là Bồ Tát cần phải tự quán thân hình (của mình chỉ) như đất phân, chỉ đầy đặc xú uế, (rồi nào phải chịu) gió, lạnh, nóng, không đáng gì tham đắm, có ngày sẽ chết, cần phải nghĩ kỹ mà chán bỏ (để) tinh cần tu đạo.

- Bốn là Bồ Tát cần phải thường hành hoà nhẫn, cung kính, nhu thuận, cũng khuyến hoá người khác khiến họ trụ vào nhẫn.

- Năm là Bồ Tát cần phải tu tập tinh tiến, thường sinh tàm quý, kính phụng sư trưởng, lân mẫn kẻ bần cùng ở dưới, thấy người bị tai khổ đem thân mình ra chịu thế cho.

- Sáu là Bồ Tát cần phải tu tập phương đẳng Đại Thừa các tạng Bồ Tát, những pháp mà Phật ca ngợi phải thọ trì đọc tụng.

- Bảy là Bồ Tát cần phải gần gũi, tu tập đệ nhất nghĩa đế, chính là thật tướng (mà vốn là) nhất tướng, (đó là) vô tướng.

Nếu các Bồ Tát muốn mau được vô thượng Bồ Đề, thì phải gần gũi với bảy pháp như trên.
Lại nữa, nếu người nào phát Bồ Đề Tâm, (mà) do vì có đắc được nên (cho dù) trong vô lượng a tăng kỳ kiếp tu tập từ bi hỉ xả, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ, phải biết người ấy không ra khỏi sinh tử được, (cũng) không hướng đến Bồ Đề được. Tại sao vậy? Tâm có đắc được và cái kiến đắc được (như) ấm giới nhập kiến, ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ mệnh kiến, từ bi hỉ xả thí giới nhẫn tiến định trí các kiến. Tóm yếu mà nói: Phật pháp tăng kiến và Niết Bàn kiến. Các kiến có đắc được như thế tức là (các) tâm chấp trước. Mà chấp trước thì được gọi là tà kiến. Vì sao lại là vậy? Những kẻ tà kiến luân chuyển trong ba cõi vĩnh viễn lìa xa xuất yếu, kẻ chấp trước ở đây cũng y như vậy, vĩnh viễn lìa xa xuất yếu, rồi ra không thể nào đắc được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Nếu ai phát Bồ Đề tâm, cần phải quán sát tướng KHÔNG của tâm này. Những gì là tâm? Thế nào là KHÔNG tướng? Tâm (còn) gọi là ý thức, chính là thức ấm, ý nhập, ý giới. KHÔNG tướng của tâm là tâm không có tướng của tâm, cũng không có tác giả. Tại sao vậy? Tướng của tâm này là KHÔNG (nên) không có tác giả, không có người sai làm. Nếu khôngtác giả thì sẽ không có tác tướng. Nếu Bồ Tát hiểu rõ các pháp ấy, thì sẽ không chấp trước đối với tất cả pháp. Do không chấp trước đối với các thiện ác (pháp) hiểu rõ là không có quả báo, đối với từ (tâm) mình tu tập hiểu rõ là không có ngã, đối với bi (tâm) mình tu tập hiểu rõ là không có chúng sinh, đối với hỉ (tâm) mình tu tập hiểu rõ là không có mệnh, đối với xả (tâm) mình tu tập hiểu rõ là không có người. Tuy hành bố thí mà không thấy có vật để thí, tuy hành trì giới mà không thấy có tịnh tâm, tuy hành nhẫn nhục mà không thấy có chúng sinh, tuy hành tinh tiến mà không có tâm lìa dục, tuy hành thiền định mà không có tâm trừ ác, tuy hành trí huệtâm không hành gì hết, đối với tất cả các duyên đều là trí huệ, song không bám vào trí huệ, không đắc được trí huệ, không thấy có trí huệ. Hành giả tu hành trí huệ như thế, song không tu gì hết, mà cũng không phải là không tu. Vì giáo hoá chúng sinh nên (thị) hiện (thật) hành lục độ, mà bên trong (vẫn hoàn toàn) thanh tịnh.

Hành giả khéo tu tâm mình như thế (chỉ) trong một niệm thôi thời các thiện căn được gieo trồng cùng quả báo phúc đức sẽ vô lượng vô biên, trăm ngàn vạn ức a tăng kỳ kiếp cũng không cùng tận được, tự nhiên được gần gũi với A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11506)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11833)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11013)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11217)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11950)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12416)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10630)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17833)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11601)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9832)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10084)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12251)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15223)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11095)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14187)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11960)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15153)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11859)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12303)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11069)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 11971)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10492)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12442)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13021)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14652)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12534)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16375)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19414)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12995)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12546)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12148)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11693)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10780)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13365)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11849)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11723)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11490)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12624)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14366)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12479)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15516)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13462)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12753)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9743)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17853)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11039)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8958)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12067)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12911)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10203)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12072)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15154)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16478)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12093)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11355)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14113)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19496)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14037)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24375)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10574)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant