Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm Thứ Mười Hai: Công Đức Trì

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 13073)
Phẩm Thứ Mười Hai: Công Đức Trì


PHÁT BỒ ĐỀ TÂM KINH LUẬN
Bồ Tát Thế Thân tạo
Tam Tạng Pháp Sư Cưu La Ma Thập dịch Hán
Tỳ Kheo Thích Nhất Chân dịch Việt

PHẨM THỨ MƯỜI HAI
CÔNG ĐỨC TRÌ

 Bồ Tát tu trọn đủ tâm vô tướng, song tam chưa từng trụ nơi tác nghiệp. Bồ Tát này biết các nghiệp tướng mà vẫn cứ làm, vì tu thiện căn cầu Bồ Đề nên không xả bỏ hữu vi, vì các chúng sinh (mà) tu đại bi nên không trụ vô vi, vì chân diệu trí của tất cả chư Phật nên không xả bỏ sinh tử, vì độ vô biên chúng sinh sao cho không còn chút sót nên không trụ Niết Bàn. Như thế gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thâm tâm cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Chư Phật tử, Bồ Tát thành tựu mười pháp, sẽ không sao thối thất vô thượng Bồ Đề. Những gì là mười?

- Một là Bồ Tát thân phát tâm vô thượng Bồ Đề, giáo hoá chúng sinh cũng khiến họ phát tâm.

- Hai là thường ưa thích được gặp Phật, đem những gì mình quý ra phụng thí cúng dường (để) gieo trồng thiện căn một cách thâm sâu

- Ba là do vì cầu pháp nên đem tâm tôn kính cúng dường pháp sư, nghe pháp không biết chán.

- Bốn là nếu thấy Tỳ kheo tăng bị phân chia thành hai bộ, tranh tụng cùng nhau, cùng gây lỗi lầm với nhau, thời cần cầu phương tiện khiến họ hoà hợp

- Năm là nếu thấy cõi nước nào tà ác tăng thượng Phật pháp muốn hoại, thời có thể đọc, tụng, nói, dù chỉ là một bài kệ khiến cho Phật pháp không dứt tuyệt, chuyên tâm hộ pháp không tiếc thân mạng.

- Sáu là thấy các chúng sinh sợ hãi khổ não, thời sẽ cứu giúp đem vô uý thí cho họ.

- Bảy là phát tinh cần tu hành, cầu các kinh pháp thậm thân thuộc Bồ Tát tạng phương đẳng Đại Thừa.

- Tám là đắc pháp này rồi thọ trì đọc tụng thật hành y như kinh nói mà thật hành, y như kinh nói mà trụ.

- Chín là tự trụ vào pháp cũng có thể khuyến đạo khiến cho nhiều chúng sinh nhập vào pháp này.

- Mười là nhập vào pháp rồi có thể vì người mà giải nói, dạy bày (cho được) lợi ích (mà) vui mừng, khai ngộ chúng sinh.

Bồ Tát thành tựu mười pháp như thế, rồi ra sẽ không thối thất đối với vô thượng Bồ Đề. Bồ Tát cần phải tu hành (theo) kinh này như thế. Các kinh điển như thế là không thể suy lường, chính là những gì có thể sinh được tất cả các mầm đại từ bi. Kinh này có thể khai ngộ dẫn đạo các chúng sinh bị trói buộc hoàn toàn, khiến họ phát tâm. Kinh này có thể vì các người hướng về Bồ Đề mà làm sinh nhân. Kinh này có thể thành hạnh không động của tất cả các Bồ Tát. Kinh này có thể là nơi hộ niệm của chư Phật thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai.

Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, muốn chăm chỉ tu tập vô thượng Bồ Đề thì phải tuyên nói rộng rãi ban hành các kinh điển như vậy, làm cho không đoạn tuyệt nơi Diêm Phù Đề, khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh được nghe kinh này. Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào nghe kinh này, thì các người ấy trọn được khối đại trí huệ không thể suy lường hết sức ích lợi, và quả báo phúc đức không thể lường nổi. Cớ sao như vậy? Kinh này có thể khai mở vô lượng mắt huệ thanh tịnh, có thể khiến mầm Phật nối tiếp không đoạn, có thể cứu vô lượng chúng sinh khổ não, có thể chiếu sáng tất cả các vô minh si ám, có thế phá bốn ma và các nghiệp ma, có thể phá hoại tất cả các tà kiến của ngoại đạo, có thể diệt tất cả khối lửa lớn phiền não, có thể làm tiêu hết nhân duyên sinh khởi các hành, có thể đoạn tham tiếc, phá giới, sân khuể, giải đãi, loạn ý, ngu si, sáu bệnh cực nặng ấy, có thể trừ diệt nghiệp chướng, báo chướng, pháp chướng, phiền não chướngchư kiến chướng, vô minh chướng, trí chướng, tập chướng. Tóm yếu mà nói, kinh này có thể làm cho tất cả các ác pháp tiêu diệt không còn chút nào, có thể làm cho tất cả các thiện pháp bùng lên tăng trưởng.

Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh này rồi hoan hỉ ưa thích sinh tâm hi kỳ, phải biết người ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật (nên đã) trồng sâu thiện căn. Cớ sao như vậy? Kinh này là chỗ qua lại của chư Phật ba đời, cho nên hành giả nghe được kinh này, phải tự mừng vui thấy may mà đạt được thiện lợi lớn.

Nếu có ai biên, chép, đọc, tụng kinh này, phải biết phúc báo người ấy có được là vô lượng vô biên. Cớ sao như vậy? Do sở duyên của kinh này vô biên, do (kinh) hưng khởi vô lượng đại thệ nguyện, do (kinh) nhiếp thọ tất cả các chúng sinh, do (kinh) trang nghiêm vô thượng đại Bồ Đề, cho nên phúc báo có được cũng y như thế không có hạn lượng. Nếu (ai) có thể hiểu ý nghĩa của kinh, theo lời kinh nói mà tu hành, thời tất cả chư Phật trong suốt a tăng tỳ kiếp dùng vô tận trí để nói về phúc báo (của người) ấy cũng không nói tận hết được.

Nếu có pháp sư nói đến chỗ kinh này, phải biết trong (chỗ) ấy liền phải dựng tháp. Tại sao vậy? Bởi là nơi xuất sinh chân thật chính pháp. Kinh này tuỳ ở nước nào, thành, ấp, xóm, làng, chùa, miếu, tịnh xá, phải biết trong (các chỗ) ấy chính là có pháp thân. Nếu có ai cúng dường hương, hoa, âm nhạc, lụa treo, phan cái, ca ngâm tán thán, chắp tay cung kính (đối với kinh ấy), phải biết người ấy đã nối tiếp giống Phật, huống gì lại thọ trì kinh một cách trọn đủ. Các người như thế thành tựu công đức , trí huệ trang nghiêm, trong đời vị lai, sẽ được thọ ký, quyết định sẽ thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

 

Thầy Thích Nhất Chân Việt dịch
18/1/94

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11539)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11036)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12459)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10671)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11625)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15251)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14215)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15192)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10512)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16422)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12567)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13409)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11877)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11749)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11526)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12784)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17887)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8996)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12094)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12941)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10218)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15190)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14153)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19535)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14064)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24420)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10592)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant