Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

13. Pháp Hội Phật Thuyết Nhơn Xử Thái

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8448)
13. Pháp Hội Phật Thuyết Nhơn Xử Thái
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XIII
PHÁP HỘI PHẬT THUYẾT NHÂN XỬ THAI
THỨ MƯỜI BA

Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

 Như vậy tôi nghe, một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, Tôn Giả A Nan sáng sớm từ thiền định dậy cùng năm trăm Tỳ Kheo đồng đến chỗ đức Phật chắp tay cung kính lễ chưn Phật rồi ở một bên.

 Đức Thế Tôn bảo A Nan rằng : "Phật có pháp yếu sơ trung hậu đều lành, nghĩa ấy vi diệu thuần nhứt không tạp đầy đủ tướng phạm hạnh thanh bạch. Đó là nhập mẫu thai tạng Tu đa la pháp vậy. Các ông phải nghe kỹ khéo suy nghĩ, nay Phật vì các ông phân biệt giải nói".

 Tôn giả A Nan bạch Phật : "Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi xin thích muốn được nghe".

 Đức Thế Tôn bảo Ngài A Nan : "Nếu có chúng sanh lúc muốn nhập thai, nhơn duyên đầy đủ thì được thọ thân, nếu chẳng đủ duyên thì chẳng thọ thân.

 Thế nào gọi là chẳng đủ duyên ? Đó là cha mẹ phát khởi tâm nhiễm ái, trung ấm hiện tiền cầu chỗ thọ sanh, nhưng cha mẹ này trắng đỏ hòa hiệp hoặc trước hoặc sau mà chẳng chung thời gian, trong thân còn có các bịnh hoạn. Nếu như vậy thì chẳng nhập thai.

 Thai tạng của người mẹ, hoặc có bịnh phong hoàn khí huyết bế tắc, hoặc mỡ bế tắc, hoặc thịt tăng kết, hoặc bịnh chất mặn, bịnh bụng lúa mạch, bịnh lưng eo kiến, hoặc như miệng lạc đà, như gỗ cong càng xe, như trục bánh xe, như miệng cốt bánh xe, như lá cây, hoặc cong vòng như măng tre cong, hoặc phía trong thai tạng như tua hột lúa mạch, hoặc tinh huyết rỉ chảy nhiều chẳng dứt, hoặc bịnh đái hạ chảy nước, hoặc đường thai tạng quá rít, hoặc trên nhọn dưới nhọn, hoặc cong, hoặc cạn, hoặc lủng lọt, hoặc cao, hoặc thấp, hoặc ngắn nhỏ, và các tạp bịnh. Nếu như vậy thì chẳng nhập thai.

 Hoặc cha mẹ tôn quíphước đức lớn mà trung ấm ti tiện. Hoặc trung ấm tôn quíphước đức lớn mà cha mẹ ti tiện. Hoặc đều có phước đức mà không nghiệp tương cảm. Nếu như vậy cũng chẳng nhập thai.

 Trung ấm ấy lúc muốn thọ thai trước phát khởi hai quan niệm điên đảo. Lúc cha mẹ hòa hiệp, nếu trung ấm nam thì đối với mẹ sanh lòng yêu, với cha sanh lòng giận, lúc cha chảy tinh thì cho là của mình. Nếu trung ấm nữ thì đối với mẹ sanh lòng giận, với cha sanh lòng yêu, lúc mẹ chảy nhớt thì cho là của mình. Nếu trung ấm không khởi lòng yêu giận ấy thì không thọ sanh.

 Nầy A Nan ! Thế nào được thọ thai ? Đó là cha mẹ khởi lòng ái nhiễm, nguyệt kỳ đều thuận, trung ấm hiện tiền, không có những bịnh những lỗi như trên, nghiệp duyên đầy đủ, như vậy thì thọ thai.

 Trung ấm ấy lúc muốn nhập thai còn có hai thứ : một là không phước đức, hai là có phước đức lớn.

 Trung ấm không phước đức, tâm giác quán khởi lên thấy cảnh giới liền nghĩ rằng : Nay tôi gặp gió lạnh mưa tối, người đông ồn ào, nhiều oai dữ đến bức hại, do đó nên sợ hãi mà nghĩ rằng : nay tôi phải chạy vào nhà cỏ, nhà lá, hoặc ẩn trốn chưn tường, hoặc chạy vào núi, chằm, rừng rậm, hang động, lại còn phát sanh nhiều thứ thấy khác nữa. Tùy theo chỗ nghĩ thấy bèn nhập vào thai mẹ.

 Nầy A Nan ! Trung ấm ấy lúc tối sơ vào thai mẹ có tên là ca la lã, đây là nương chất bất tịnh của cha mẹ và nghiệp quá khứ của nó mà được thọ thân. Nghiệp ấy và trong các duyên cha mẹ đều riêng chẳng tự sanh, do sức hòa hiệp mà thọ thân. Ví như lấy thùng đựng chất lạc và dùng dây v. v... mà sản xuất chất tô. Trong riêng các món đều không chất tô, do sức hòa hiệp mới sanh được chất tô.

 Thân ca la lã cũng như vậy, sức nhân duyên hoà hiệp thì được thọ thai.

 Lại nầy A Nan ! Ví như nương nơi cỏ xanh, phân bò, táo và lạc mà đều riêng sanh côn trùng. Trong mỗi thứ không có trùng, do sức nhân duyên thì trùng sanh. Lúc trùng ấy sanh đều riêng theo chỗ nó nương mà có màu chỗ đó, hoặc xanh hoặc vàng đỏ trắng.

 Vì thế nên biết phụ mẫu bất tịnhsanh thân ấy, tìm trong các duyên đều chẳng có thân, cũng chẳng rời ngoài sức các duyên hòa hợp mà thọ thai. Lúc thân ấy sanh cùng tứ đại chủng tánh của cha mẹ cũng chẳng sai khác. Đó là địa đại làm chất cứng, thủy đại làm chất ướt, hỏa đại làm chất nóng, phong đại làm chất động. Thân ca la lã nếu chỉ có địa đại mà không thủy đại thì như người bốc bột hay tro khô trọn chẳng hòa hiệp được. Nếu chỉ có thủy đại mà không có địa đại thì như dầu hay nước tánh nó lỏng ướt bèn chảy tan. Nếu chỉ có địa giới thủy giới mà không hỏa giới thì như mùa hạ khối thịt tươi để chỗ râm không nắng chiếu nó sẽ thúi rã. Nếu chỉ có địa thủy và hỏa mà không có phong giới thì chẳng tăng trưởng như có người thợ và đệ tử giỏi nghề thổi đường làm thành nhiều món trong ruột trống bọng, nếu không sức gió thổi thì chẳng nên được. Bốn đại tánh ấy y trì lẫn nhau mà được kiến lập.

 Vì thế nên biết thân ca la lã cũng vậy, nhơn nơi cha mẹ tứ đạigió nghiệp mà được sanh. Trong mỗi duyên đều không có, do sức hòa hiệp mà được thọ thân.

 Lại nầy A NanVí như hột giống mới sạch khéo cất chứa chẳng cho trùng ăn, không hư mục cháy khô lủng lỗ. Có người chọn ruộng tốt chỗ nhuần ẩm mà gieo hột giống ấy rồi muốn trong một ngày mầm cây nhánh lá tậm rợp bông trái sum suê thảy đều đầy đủ có được chăng ?".

 - Bạch đức Thế Tôn ! Không được !
 - Nầy A Nan ! Cũng vậy, thân ca la lã đều từ nhơn duyên thứ đệ sanh trưởng mà chẳng được đồng thời tất cả các căn đều đầy đủ. Thế nên phải biết dầu từ cha mẹ mà có thân ấy, nhưng tìm trong các duyên đều không có, do sức hòa hiệp mà có thọ sanh.
 Lại nầy A NanVí như người mắt sáng cầm châu nhựt quang đặt trong ánh nắng giữa ngày, đem phân bò khô treo trên ấy cách châu vừa chừng bèn phát sanh lửa.

 Cũng vậy, thân từ cha mẹ ra, thân ca la lã có năm ấm : sắc, thọ, tưởng, hành và thức, gọi nó tên là danh sắc. Trong sát na thọ thân đã phải trải qua các sự khổ, Phật chẳng khen tặng, huống lại thời gian dài luân hồi các cõi.

 Ví như chút phẩm còn là dơ hôi huống là nhiều.

 Thân ngũ ấm ca la lã ấy, ai sẽ ưa thích nó.

 Lại nầy A Nan ! Thân ấy ở trong thai mẹ trải qua ba mươi tám thất nhựt rồi mới sanh ra.

 Thất nhựt thứ nhứt, lúc ở thai mẹ tên ca la lã, thân tướng tối sơ hiện ra như giọt sanh lạc, trong bảy ngày hơi nóng nấu nung tứ đại lần thành.

 Thất nhựt thứ hai, lúc ở thai mẹ gió nghiệp được cảm gọi là biến mãn, gió ấy rất nhỏ nhẹ thổi hông tả và hông hữu của mẹ khiến ca lathân tướng lần hiện, dạng như lạc đặc, hoặc như tô đọng, hơi nóng nấu nung bèn chuyển làm thân an phù đà tứ đại lần thành.

 Thất nhựt thứ ba, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên tàng khẩu, do sức gió này khiến lần ngưng kết, an phù đà ấy chuyển làm bế thủ dạng như chầy đâm thuốc mà ngắn nhỏ. Ở trong thai hơi nóng nấu nung tứ đại ấy lần tăng trưởng.

 Thất nhựt thứ tư, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên nhiếp thủ, do sức gió ấy khiến bế thủ chuyển làm già na dạng như đá ấm, hơi nóng nấu nung tứ đại lần tăng .

 Thất nhựt thứ năm, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên nhiếp trì, do sức gió ấy hay khiến già na chuyển làm bát la xa khư các mụt vỡ ra xuất hiện hai vai hai vế và thân đầu, như tháng mùa cây cối cành lộc phát sanh, sức gió nhơn duyên các bóng mụt xuất hiện cũng vậy.

 Thất nhựt thứ sáu, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là phạn, do sức gió ấy mà bốn tướng xuất hiện, đó là hai gối hai cánh.

 Thất nhựt thứ bảy, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên triền chuyển, do sức gió ấy có bốn tướng xuất hiện, đó là hai bàn chưn hai bàn tay, bốn tướng này mềm dịu như khối bọt.

 Thất nhựt thứ tám, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên phiên chuyển, do sức gió ấy có hai mươi tướng xuất hiện, đó là tướng hai mươi ngón chưn tay, như mưa xuống nhánh chồi lần được tăng trưởng, do sức gió nghiệp các căn hiện ra cũng vậy.

 Thất nhựt thứ chín, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên phân tán, do sức gió ấy hiện ra chín tướng, đó là hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng và chỗ đại tiện tiểu tiện tên là cửu tướng .

 Thất nhựt thứ mười, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là kiên ngạnh, do sức gió ấy nên liền cứng chắc. Lại có nghiệp phong tên là phổ môn thổi thân trong thai khiến đều nổi phồng như trái ổi.

 Thất nhựt thứ mười một, lúc ở thai mẹ lại có cảm nghiệp phong tên là kim cương, do sức gió ấy ở tại trong thai hoặc lên hoặc xuống khiến các lỗ trên thân đều được thông suốt, cũng do sức gió khiến người mang thai hoặc buồn hoặc vui đi đứng ngồi nằm tánh nết đổi khác vận động tay chưn khiến các lỗ thân thai lần tăng trưởng, ở trong lỗ miệng chảy ra máu đen, trong lỗ mũi chảy ra nước dơ, gió ấy hồi chuyển rồi dứt.

 Thất nhựt thứ mười hai, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là khúc khẩu, do sức gió ấy trong thân thai giữa hai hông sanh đại trường tiểu trường như tơ sen hoặc như nhợ sen để trên đất, cuộn mười tám vòng ở trong thân. Lại có nghiệp phong tên là xuyên phát, do sức gió ấy mà ba trăm hai mươi chi tiết và trăm lẻ một huyệt sanh trong thân thai.

 Thất nhựt thư mười ba, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là cơ khát, do sức gió ấy thân thai trống gầy sanh ý tưởng đói khát, bà mẹ ăn uống có chất bổ dưỡng liền thấm nuôi thân thai từ lỗ rốn và các huyệt.

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
 Đứa con ở thai mẹ
 Trải qua mười ba thất
 Thân nó biết trống gầy
 Nên nghĩ tưởng đói khát
 Bà mẹ có ăn uống
 Thấm nuôi lấy thân thai
 Do đó thân mạng còn
 Lần lần được lớn thêm.

 Thất nhựt thứ mười bốn, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là tuyến khẩu, do sức gió ấy sanh chín trăm gân giao kết trước sau và hai bên thân.

 Thất nhựt thứ mười lăm, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là liên hoa, do sức gió ấy sanh hai mươi mạch chất bổ uống ăn chảy vào các mạch ấy nhuần ích nơi thân. Những gì là hai mươi ? Đó là phía trước phía sau bên tả và bên hữu của thân đều riêng có năm mạch. Mỗi mạch ấy đều riêng có bốn mươi mạch nhỏ chi phái. Mỗi mạch nhỏ ấy lại đều riêng có một trăm chi phái nhỏ. Phía trước thân, hai vạn chi mạch nhỏ tên là thương khư. Phía sau thân, hai vạn chi mạch nhỏ tên là lực. Bên tả thân, hai vạn chi mạch nhỏ tên là an định. Bên hữu thân, hai vạn chi mạch nhỏ tên là cụ thế. Tám vạn chi mạch lớn nhỏ như vậy sanh nơi thân ấy, và nó còn có nhiều màu sắc, đó là xanh vàng đỏ trắng màu tô màu lạc màu dầu. Tám vạn mạch ấy, mỗi mạch mỗi rễ, trên mỗi rễ sanh một lỗ hoặc hai lỗ đến bảy lỗ, mỗi lỗ đều liền nhau với lỗ lông, như rễ sen có các lỗ.

 Thất nhựt thứ mười sáu, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là cam lộ, do sức gió ấy làm cho mắt tai mũi miệng ngực ức bốn bên tam tạng chỗ chín lỗ đều khai phát hơi thở ra vào trên dưới thông suốt không chướng ngại. Nếu có uống ăn tư nhuận thân ấy, có chỗ ngừng chứa lại hay tiêu hóa theo phía dưới chảy ra. Như thợ gốm và đệ tử giỏi nhồi bùn bố trí vòng dây dưới trên xoay chuyển tạo thành đồ vật. Đây cũng vậy, do sức gió và nghiệp thiện ác khiến mắt tai v.v...lần lần đầy đủ.

 Thất nhựt thứ mười bảy, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là mao ngưu diện, do sức gió ấy khiến hai mắt được sáng sạch, các căn tai mũi thành tựuVí như có mặt gương bị bụi đóng, hoặc dùng bột gạch và dầu tro chùi lau cho sạch. Sức gió nghiệp thổi các căn mắt tai v. v...khiến được sáng sạch cũng như vậy.

 Thất nhựt thứ mười tám, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là đại kiên cường, do sức gió ấy làm cho các căn lần hoàn thành mà còn sáng sạch. Ví như nhựt nguyệt bị mây mù che khuất gió mạnh bỗng nổi lên thổi tan mà nhựt nguyệt ấy bỗng rất sáng chói. Gió nghiệp thổi các căn làm sáng sạch thêm cũng vậy.

 Thất nhựt thứ mười chín, lúc ở thai mẹ do sức gió nghiệp trước mà bốn căn nhãn nhĩ tỷ thiệt thành tựu. Lúc tối sơ nhập thai đã có ba căn là thân căn mạng căný căn. Như vậy đến đây các căn đều đầy đủ.

 Thất nhựt thứ hai mươi, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là kiên cố, do sức gió ấy khiến trong thân sanh các thứ xương. Trong mỗi chưn sanh hai mươi xương, gót có bốn, mắt cá có hai, gối có hai, vế có hai, eo lưng có ba, xương sống có mười tám, sườn có hai mươi bốn, ngực có mười ba, mỗi tay có hai mươi, cánh có bốn, vai có hai, hàm có hai, sọ có bốn và gốc răng có ba mươi hai. Ví như thợ điêu khắcđệ tử trước dùng gỗ cứng sau dùng dây mực tạo thành hình tượng, đầu chưa đắp bùn mà bấy giờ gọi là cốt tượng. Do sức gió nghiệp lúc sanh các xương cũng vậy. Trong bảy ngày nầy, trừ các xương nhỏ còn các xương lớn được sanh số có hai trăm cái.

 Thất nhựt thứ hai mươi mốt, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là sanh khởi, do sức gió ấy mà sanh thịt trên thân. Ví như thợ hồ và đệ tử đem hồ tô tường vách, do sức gió nghiệp hay sanh thịt trên thân cũng vậy.

 Thất nhựt thứ hai mươi hai, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là phù lưu, do sức gió ấy mà sanh máu huyết.

 Thất nhựt thứ hai mươi ba, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là tịnh trì, do sức gió ấy mà sanh da nơi thân.

 Thất nhựt thứ hai mươi bốn, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là trì vân, do sức gió ấy làm cho da thứa được điều hòa bằng phẳng sắc sáng nhuần bóng.

 Thất nhựt thứ hai mươi lăm, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là trì thành, do sức gió ấy mà máu thịt tăng trưởng.

 Thất nhựt thứ hai mươi sáu, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là sanh thành, do sức gió nầy mà sanh lông tóc móng, mỗi thứ đều liền với các mạch.

 Thất nhựt thứ hai mươi bảy, lúc ở thai mẹ lại có nghiệp phong tên là khúc thược, do sức gió ấy làm cho thân tướng lần thành. Hoặc đời trước tạo nghiệp ác bỏn sẻn chẳng bố thí, hoặc chẳng nghe lời dạy bảo của cha mẹ sư trưởng, do nghiệp ác ấy nên thân tướng xấu, nếu thân cao lớn mập trắng mềm mại mà cho là đẹp thì lại thọ lấy thân lùn ốm đen cứng, hoặc thọ lấy thân phần chẳng đầy đủ, hoặc thọ lấy thân đui điếc câm ngọng các căn chẳng đủ, giọng nói người chẳng muốn nghe, thân thể xấu xí như ngạ quỉ, do nghiệp ác mà thọ lấy thân chẳng vừa ý như vậy, cha mẹ quyến thuộc thấy còn chẳng vui huống là người khác. Nếu đời trước tạo mười nghiệp lành ưa bố thí, không có lòng gian tham bỏn xẻn dua dối phỉnh gạt, biết nghe lời cha mẹ sư trưởng dạy bảo, do đó nên thọ được thân không có các tướng xấu xí tàn tật, mà đoan trang xinh đẹp đủ các tướng tốt, giọng nói người thích nghe, ai thấy cũng mến ưa, do nghuệp thiện mà thọ được thân thắng diệu như vậy.

 Thân ở thai mẹ ấy, nếu là nam thì ngồi bẹp trong bụng mẹ phía nách hữu hai tay bụm mặt hướng về xương sống mẹ ở yên đó. Nếu là nữ thì ngồi bẹp trong bụng mẹ phía nách tả hai tay bụm mặt quay lưng về phía sống lưng mẹ ở yên đó. Thân thai ấy ở dưới sanh tạng trên thục tạng, hơi nóng nấu nung, nằm chỗ trói cột như ở trong túi da. Người mẹ ăn nhiều hay ăn ít, ăn ngon ăn dở, ăn khô ăn ướt, ăn đắng cay mặn chua nóng lạnh, hoặc dâm dục, đi gấp nhảy nhót, nằm lâu ngồi lâu, thân thai điều cảm thọ khổ não. Lúc ở thai mẹ chịu nhiều khổ bức bách, loài người còn vậy huống là loài địa ngục khó có gì để ví dụ được. Ai là người có trí mà còn ưa thích thân trong biển sanh tử.

 Thất nhựt thứ hai mươi tám, lúc ở thai mẹ phát sanh tám ý tưởng điên đảo : một là tưởng ngồi xe cỡi ngựa, hai là tưởng lầu gác, ba là tưởng giường chõng, bốn là tưởng suối chảy, năm là tưởng ao hồ, sáu là tưởng sông rạch, bảy là tưởng vườn tược, tám là tưởng vườn rộng lớn.

 Thất nhựt thứ hai mươi chín, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là hoa điều, do sức gió ấy khiến thân thai sắc sáng nhuần bóng các tướng rõ ràng, đều do quá khứ đã tạo các nghiệp sai biệt chẳng đồng, tùy hình loại riêng mà có các thứ màu sắc, hoặc màu trắng, màu đen, hoặc màu chẳng trắng chẳng đen, hoặc màu xanh, màu khô khốc, màu nhuần bóng.

 Thất nhựt thứ ba mươi, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là thiết khẩu, do sức gió ấy mà tóc lông móng đều tăng trưởng, cũng hiện các ánh sáng trắng đen, theo nghiệp duyên phát khởi mà sanh tướng ấy.

 Thất nhựt thứ ba mươi mốt đến thất nhựt thứ ba mươi lăm, lúc ở thai mẹ thân tướng trưởng đại lần đầy đủ tướng người.

 Thất nhựt thứ ba mươi sáu, lúc ở thai mẹ sanh tâm yểm ly chẳng vui thích.

 Thất nhựt thứ ba mươi bảy, lúc ở thai mẹ phát khởi năm ý tưởng điên đảo : Một là tưởng bất tịnh, hai là tưởng hôi dơ, ba là tưởng ngục tù, bốn là tưởng tối tăm, năm là tưởng nhàm gớm. Đứa con ở thai sanh các tâm nhàm lìa ấy.

 Thất nhựt thứ ba mươi tám, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là câu duyên, do sức gió này liền xoay chuyển. Lại có một thứ gió tên là xu hạ hay làm cho đầu hướng xuống, hai tay duỗi dài làm muốn sanh ra. Nếu đứa con ấy đời trước từng chứa họp các nghiệp đọa lạc làm cho thân ấy tay chưn tung hoành chẳng chuyển trở được, do nghiệp ác nên chết trong bụng mẹ. Lúc ấy người mẹ chịu nhiều đau khổ hoặc phải chết. Nếu đứa con ấy đời trước tu nghiệp thiện tạo nhơn trường thọ, lúc sắp sanh ra mẹ con an ổn không có các nạn khổ như trên.

 Quá thất nhựt thứ ba mươi tám rồi, lúc sắp sanh ra chịu các sự đau khổ mới sanh được. Do đó nên biết rằng thọ lấy thân ấy thiệt là khổ lớn.

 Lúc tối sơ sanh ra, hoặc nam hay nữ vừa sanh rơi xuống, hoặc lấy tay bưng, hoặc khăn áo hứng, hoặc tại giường chiếu, hoặc trong nhà, hoặc tại đất, hoặc chỗ xa xôi, hoặc tại giữa ngày, hoặc mùa đông mùa hạ gió lạnh hơi nóng chạm xúc, thân sơ sanh chịu đau đớn lớn, như bò sống bị lột da chạm phải tường vách, hoặc ở tại đất trống bị trùng kiến cắn, cũng như có người bị muỗi mòng cắn chích mà thêm bị đánh đập, lúc sơ sanh dùng nước ấm nóng tắm chạm đến thân đau đớn cũng vậy.

 Con đã được sanh lần tăng trưởng, mẹ dùng sữa tạp huyết nơi thân để nuôi con mà Phật đã nói rộng ở các kinh khác.

 Vì thế nên biết rằng thân ấy đều thành tựu bởi những bất tịnhđau khổ. Ai là người có trí mà lại mến thích thân sanh tử như vậy.

 Lại nầy A Nan ! Lúc sơ sanh trong bảy ngày có tám vạn hộ trùng theo thân mà sanh, nó tung hoành ăn nuốt.

 Có hai hộ trùng tên sĩ phát nương tóc ăn tóc. Có hai hộ trùng nương mắt ăn mắt. Có bốn hộ trùng tên án thừa, tên hữu ngạc, tên phát bịnh và tên viên mãn nương đầu ăn đầu. Có một hộ trùng tên hắc đạo diệp nương tai ăn tai. Có một hộ trùng tên tàng khẩu nương mũi ăn mũi. Có hai hộ trùng tên diêu trịch và biến trịch nương môi ăn môi. Có một hộ trùng tên châm khẩu nương lưỡi ăn lưỡi. Có một hộ trùng tên lợi khẩu nương cuống lưỡi ăn cuống lưỡi. Có một hộ trùng tên thủ viên nương nướu ăn nướu. Có hai hộ trùng tên thủ võng và bán khuất nương bàn tay ăn bàn tay. Có hai hộ trùng tên viễn tý và cận tý nương cánh tay ăn cánh tay. Có hai hộ trùng tên thiết và cận thiết nương yết hầu ăn yết hầu. Có hai hộ trùng tên kim cương và đại kim cương nương tim ăn tim. Có hai hộ trùng tên luy và luy khẩu nương thịt ăn thịt. Có hai hộ trùng tên cụ sắc và cụ xưng nương huyết nút huyết. Có hai hộ trùng tên dũng kiện và hương khẩu nương gân ăn gân. Có hai hộ trùng tên bất cao và hạ khẩu nương xương sống ăn xương sống. Có một hộ trùng tên chỉ sắc nương mỡ ăn mỡ. Có một hộ trùng tên hoàng sắc nương mật ăn mật. Có một hộ trùng tên chơn châu nương phổi ăn phổi. Có một hộ trùng tên địch nương lá lách ăn lá lách. Có trăm hộ trùng tên là nguyệt, có trăm hộ trùng tên nguyệt khẩu, có trăm hộ trùng tên huy diệu, có trăm hộ trùng tên huy diện và trăm hộ trùng tên quảng đại, năm trăm hộ trùng này nương bên tả ăn bên tả. Có năm trăm hộ trùng có năm tên như trên nương bên hữu ăn bên hữu. Có bốn hộ trùng tên thiểu xuyên, đại xuyên, cốt xuyên và cốt diện nương xương ăn xương. Có bốn hộ trùng tên đại bạch, tiểu bạch, hấp lực và hổ đạo nương mạch ăn mạch. Có bốn hộ trùng tên ý lạc, sư tử lực, thố phúc và đam dục nương sanh tạng mà ăn sanh tạng. Có hai hộ trùng tên dũng mãnhdũng mãnh chủ nương thục tạng ăn thục tạng. Có bốn hộ trùng tên diêm khẩu, võng khẩu, uẩn khẩu và điểu khẩu nương đường tiểu ăn đường tiểu. Có bốn hộ trùng tên ưng tác, đại tác, toái mạt và ức sô nương đường đại ăn đường đại. Có hai hộ trùng tên hắc diện và khả úy diện nương vế ăn vế. Có hai hộ trùng tên tật lại và tiểu lại nương gối ăn gối. Có một hộ trùng tên ngu căn nương mắt cá chưn ăn mắt cá chưn. Có một hộ trùng tên hắc đầu nương chưn ăn chưn.

 Nầy A Nan ! Lược nói tám vạn hộ trùng nương thân nầy, ngày đêm ăn nút và có thể làm cho khí lực hư kém dung nhan tiều tụy, các thứ bịnh khổ đều họp tại thân, lại hay làm cho tâm lo buồn nhiệt não, dầu có lương y cũng phải mê lầm chẳng biết thuốc gì để trị. Ai là người có trí lại mến thích thân sanh tử như vậy.

 Lại nầy A Nan ! Từ khi sơ sanh đến trưởng thành áo cơm nuôi dưỡng thành lập thân ấy, thọ mạng được trăm tuổi hoặc ngắn ngủi. Trong trăm năm có ba trăm mùa, xuân là lúc nóng, hạ là lúc mưa, và đông là lúc lạnh. Mỗi mùa có bốn tháng, một năm có mười hai tháng. Trong trăm năm có ngàn hai trăm tháng chia nửa tháng trăng nửa tháng không trăng thành hai ngàn bốn trăm, ngày đêm có ba vạn sáu ngàn, mỗi ngày ăn hai lần thành bảy vạn hai ngàn bữa ăn, nếu có không ăn cũng ở số ấy, nghĩa là lúc bịnh, lúc say hoặc nhịn ăn, hoặc lúc sân hận ngủ say chơi đùa các sự vụ khác và uống sữa mẹ, đó gọi là không ăn. Thân thể ấy dầu thọ trăm tuổi rồi cũng chết mất. Ai là người trí mà lại mến thích thân trong biển sanh tử như vậy.

 Lại nầy A Nan ! Thọ thân ấy có hai thứ khổ : một là các thứ bịnh nhóm họp làm khổ gọi là nội khổ, hai là người và phi nhơn bức não gọi là ngoại khổ.

 Những gì gọi là các thứ bịnh nhóm họp nơi thân ? Đó là các thân phần mắt tai mũi lưỡi răng cổ v. v... đều có các bịnh sanh ra. Hoặc là phong, hoặc nhiệt, chảy mũi chảy dãi, điên cuồng, khô đét, hơi lên ngột thở, tiểu tiện lâm lịch, cùi hủi ung thư, trĩ lậu, bụng đau ruột thắt, ghẻ dữ máu mủ, rét nóng các thứ bịnh đều họp nơi thân. Còn có trăm lẻ một bịnh tâm hoàng, trăm lẻ một bịnh phong, trăm lẻ một bịnh đàm và trăm lẻ một bịnh do phong hoàng đàm hòa hiệp cùng sanh. Bốn trăm lẻ bốn bịnh như vậy bức thiết thân ấy gọi là nội khổ.

 Còn có ngoại khổ gia hại thân ấy. Đó là hoặc tại lao tù bị đánh đập gông xiềng, hoặc thẻo tai thẻo mũi, hoặc chặt tay chân, chém đầu lóc thịt. Nếu khôngchư Thiên thần thủ hộ thì có thể bị phi nhơn quỉ quái làm hại. Hoặc bị muỗi mòng ong kiến độc trùng cắn chích. Hoặc nóng rét đói khát gió mưa các thứ khổ não bức thiết thân ấy. Thân người còn dường ấy huống là thân các ác đạo khổ khó kể hết. Đó là do thuở quá khứ tạo các nghiệp bất thiện nên phải thọ báo như vậy. Hoặc ngừa binh khí gia hại mà xây thành lũy tường hào để bảo vệ lấy thân. Vì ngăn gió mưa trùng độc mà cất nhà cửa. Vì bốn trăm lẻ bốn bịnh nội khổ ngoại khổ mà cầu tìm uống ăn y phục giường mền thuốc men ruộng vườn nhà phòng vàng bạc nhà cửa xe cộ tôi tớ đồ dùng cung cấp, nếu chẳng vừa ý thì sanh khổ não. Dầu được dư thừa thì tham lam bỏn xẻn do gìn giữ, lúc bị tan mất lại rất khổ sầu.

 Nầy A Nan ! Thân ngũ ấm ấy mỗi oai nghi đi đứng ngồi nằm không lúc nào chẳng khổ. Nếu đi mãi không tạm nghỉ thì khổ, đứng mãi, ngồi mãi, nằm mãi cũng đều khổ.

 Nếu đi lâu mà tạm đứng nghỉ thì sanh ý tưởng vui, kỳ thiệt chẳng phải vui. Hoặc đứng lâu mà tạm ngồi, hoặc ngồi lâu mà tạm nằm thì vọng sanh ý tưởng vui, thiệt ra không có vui. Vì thế nên gọi thân ngũ ấm đều là khổ.

 Nếu có ai hoặc vì tự lợi, hoặc vì lợi tha, hoặc vì tự tha cùng lợi thì nên chán sợ các khổ như vậy mà xuất gia tu học, ở nơi pháp Niết bàn giải thoát tất chẳng luống uổng.

 Nếu có người đem y phục thức ăn giường nệm thuốc men những đồ cần dùng thí cúng cho người xuất gia ấy thì sẽ được quả báo lớn oai lực phước đức.

 Nầy A Nan ! Sắc là thường hay vô thường ?

 - Bạch Thế Tôn ! Sắc là vô thường !
 - Nầy A Nan ! Nếu vô thường thì khổ hay chẳng khổ ?
 - Bạch Thế Tôn ! Sắc vô thường tức là khổ.
 - Nầy A Nan ! Nếu vô thường khổ tức là pháp bại hoại. Nếu là đệ tử đa văn của Phật nghe lời ấy có chấp sắc thân như vậy là ngã là sở chăng ?
 - Bạch Thế Tôn ! Không. Trong sắc không ngã cũng không ngã sở.
 - Lại nầy A Nan ! Thọ tưởng hành và thức là thường hay vô thường ?
 - Bạch Thế TônBốn ấm ấy đều vô thường.
 - Nầy A Nan ! Nếu là vô thường thì khổ hay chẳng khổ?
 - Bạch Thế TônBốn ấm ấy đều gọi là khổ.
 - Nầy A Nan ! Nếu là vô thường khổ tức là pháp bại hoại. Nếu là đệ tử đa văn của Phật nghe lời ấy có chấp bốn ấm ấy là ngã là ngã sở chăng ?
 - Bạch đức Thế Tôn ! Không. Bốn ấm ấy thiệt không ngã ngã sở.
 - Lại nầy A Nan ! Ngã ấy chẳng ở quá khứ hiện tại vị lai, hoặc nội hoặc ngoại, hoặc thô hoặc tế, hoặc thắng hoặc liệt, hoặc cận hoặc viễn. Tất cả pháp khác cũng đều không ngã không ngã sở. Dùng như thiệt trí quan sát các pháp không có ngã. Nếu đệ tử đa văn của Phật mà quan sát như vậy thì sanh lòng chán lìa mà được giải thoát cứu cánh Niết bànTu học như vậy thì chứng pháp thân ấy, phần sanh khởi đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng còn thọ thân sau".

 Đức Phật nói kinh này rồi, Tôn giả A Nan xa trần rời cấu được pháp nhãn thanh tịnh, năm trăm Tỳ Kheo chẳng thọ các pháp lậu tận ý giải. Tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33167)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6538)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11254)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30393)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30429)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7967)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12168)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12238)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11585)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12792)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34731)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9831)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52257)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10729)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10499)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10700)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10462)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13067)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16252)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21826)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9609)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7111)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10388)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12726)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12768)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16220)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16519)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13843)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16565)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12100)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13792)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14308)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9189)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11735)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11253)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16288)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14329)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16189)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12687)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12073)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11792)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15653)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11500)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12001)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12619)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14987)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11954)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13123)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14523)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20673)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13211)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10936)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20684)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14344)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20363)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17647)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14010)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31851)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12012)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant