Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

16.01. Phẩm Tự

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8703)
16.01. Phẩm Tự
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999


XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Tự 01

 Như vậy tôi nghe, một lúc đức Phật ở tại nước Ca Tỳ La Vệ rừng Ni Cư Đà, cùng với chúng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội. Tên các Ngài là Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Gia Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, tất cả đều là đại A La Hán các lậu đã hết không còn phiền não, tâm tự tại, tâm thiện giải thoát, huệ thiện giải thoát, như đại long tượng, chỗ làm đã xong, đều bỏ gánh nặng đến được tự lợi hết các kiết sử ở trong chánh giáo tâm được thiện giải, nơi tất cả pháp tâm không chỗ ngại, đến nơi bờ kia, tự được giải thoátgiải thoát quyến thuộc, tự được điều phụcđiều phục kiến thuộc, tự được tịch địnhtịch định quyến thuộc, tự được độ thoátđộ thoát quyến thuộc, tự đến bờ kia và làm quyến thuộc đến bờ, tự đến lục địa và làm quyến thuộc đến lục địa, tự được an ổnan ổn quyến thuộc, tự được tịch diệttịch diệt quyến thuộc, tự phá phiền não và phá phiền não cho quyến thuộc, tự được Sa MônSa Môn quyến thuộc, tự được dứt ác và dứt ác quyến thuộc, tự được Bà La MônBà La Môn quyến thuộc, tự trừ ác pháp và trừ ác pháp quyến thuộc, tự biết rõ các pháp và làm quyến thuộc biết rõ, tự mình đắc độ và hay đắc độ quyến thuộc, tự đủ các đức và làm quyến thuộc đủ các đức, tự không phiền não và làm không phiền não cho quyến thuộc, tự lìa năm chi và làm quyến thuộc lìa năm chi, tự được lìa chướng và làm quyến thuộc lìa chướng, tự được tịnh ý và làm quyến thuộc được tịnh ý, tự được lục thông và làm quyến thuộc đủ lục thông, tự lìa ghét yêu giải thoát và làm quyến thuộc lìa ghét yêu giải thoát, tự thủ hộ nhất tâm và làm quyến thuộc thủ hộ nhất tâm, tự niệm môn cụ túc và làm quyến thuộc niệm môn cụ túc, tự y tứ y và làm quyến thuộc y tứ y, tự rời lìa các kiến chấp và làm cho quyến thuộc lìa kiến chấp, tự bỏ các hi vọng và làm cho quyến thuộc bỏ hi vọng, tự được tận hành và làm cho quyến thuộc tận hành, tự được sự việc xong và làm cho quyến thuộc sự việc xong, tự tu và làm cho quyến thuộc tự tu, tự không trược niệm và làm cho quyến thuộc không trược niệm, tự đoạn dứt hữu giác và làm cho quyến thuộc đoạn hữu giác, tự nương thân hành và làm cho quyến thuộc nương thân hành, tự được thích bất động và làm cho quyến thuộc thích bất động, tự tâm thiện giải thoát và làm cho quyến thuộc tâm thiện giải thoát, tự huệ thiện giải thoát và làm cho quyến thuộc huệ thiện giải thoát, tự được hiền thánh và làm cho quyến thuộc được hiền thánh, các bực như vậy đượcc rời lìa nhánh lá trù bỏ da thứa, chỉ có tâm thiệt an trú mà an trụ.

 Bấy giờ đức Thế Tôn vào lúc cuối đêm ngồi ngoài đất trống, chúng Tỳ Kheo vây quanh bốn mặt.

 Đức Thế Tôn quan sát chúng Tỳ Kheo rồi bảo rằng : "Các ông dò tìm một người có thể đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương".

 Huệ Mạng A Nhã Kiều Trần Như đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay tác lễ rồi bạch Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn !

 Tôi đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương được chăng ?".

 Đức Phật nói : "Thôi, nầy Kiều Trần Như ! Nay ông đầy đủ đức của bực đại sư chẳng nên đến đó".

 Các Ngài Huệ Mạng Bà Sáp Mô, Gia Du Đà, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên đều lần lượt bạch Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương".

 Đức Phật nói : "Thôi, các ông đều đầy đủ pháp tôn trọng của bực đại sư chẳng nên đến đó giáo hóa".

 Tôn giả Đại Mục Kiền Liên tự nghĩ nay đức Thế Tôn muốn ai đến giáo hóa Tịnh Phạn vương ? Nghĩ xong liền nhập như thiệt tam muội, dùng sức tam muội trang nghiêm tâm mình liền thấy được ý của Phật muốn Huệ Mạng Ca Lưu Đà Di đến giáo hóa Tịnh Phạn VươngVí như trong cửa sổ lầu gác nhiều từng, ánh sáng mặt nhựt chiếu vào vách phía Tây, Đại Mục Kiền Liên thấy tâm của Phật chuyên ở Ca Lưu Đà Di muốn bảo đi giáo hóa phụ vương cũng như vậy.
 

 Tôn giả Đại Mục Kiền Liên xuất định đến chỗ Tôn giả Ca Lưu Đà Di mà nói rằng : "Tâm niệm của Thế Tôn biết Ngài có thể giáo hóa Tịnh Phạn Vương, nay Ngài phát đại dũng mãnh mau đến giáo hóa".

 Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói : "Thứ dân còn khó giáo hóa huống là quốc vương. Tại sao ? Đại Vương dòng Sát Lợi Quán Đảnh có sức tự tại khó giáo hóa được. Ví như chứa họp củi khô hoặc hai năm ba năm đến ngàn năm, củi tích chứa lâu năm như vậy rất là khô ráo, bấy giờ có người phóng hỏa đốt thành ngọn lửa lớn. Thưa Ngài Đại Mục Kiền Liên ! Khối lửa ấy chừng có lớn chăng ?".

 Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói : "Rất lớn".

 Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói : "Nếu lại có người đem vô lượng dầu tô tưới vào, khối lửa ấy có thêm thạnh chăng ?".

 Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói : "Càng thạnh hơn gấp bội".

 Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói : "Có thể đến gần khối lửa ấy chăng ?".

 Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói : "Khó gần được".

 
 Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói : "Đại Vương dòng Sát Lợi Quán Đảnh ấy, khó có thể giáo hóa, khó đến gần cũng như vậy.

 Thưa Ngài Đại Mục Kiền LiênVí như ngà của voi cuồng có nên đụng chạm được chăng ?".

 Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói : "Chẳng nên đụng chạm".

 Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói : "Đại Vương dòng Sát Lợi Quán Đảnh khó giáo hóa được cũng như vậy".
 Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói : "Đức Thế Tôn tâm niệm biết Ngài có khả năng đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương vậy".

 Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói : "Có thiệt đức Thế Tôn nghĩ rằng tôi có khả năng đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương chăng ?".

 Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói : "Đức Thế Tôn thiệt nghĩ đến Ngài cho rằng Ngài có khả năng giáo hóa được Phụ Vương”.

 Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Ca Lưu Đà Di rằng: “Ông nên vào thành giáo hóa Phụ Vương. Chỉ có Phật và ông là có thể giáo hóa được Tịnh Phạn Vương thôi.
 

 Nầy Ca Lưu Đà Di ! Trong hàng Thanh Văn đệ tử Phật, ông là người có khả năng đệ nhứt về việc giáo hóa các ấp tụ lạc".

 Đức Thế Tôn liền nói kệ tụng bảo Ca Lưu Đà Di rằng :

 "Lắng nghe Ưu Đà Di
 Ông hay giáo hóa giỏi
 Quyết khiến dòng Thích mừng
 Đến hóa Tối Thắng Vương
 Lúc vua được tỏ ngộ
 Lợi ích hàng Trời Người
 Quyết được đến bờ kia
 Ông nên mau đến hóa
 Tịnh Phạn Vương dòng Thích
 Nay lòng hờn loạn trược
 Niệm huệ chẳng hiện hành
 Dường như té gộp cao
 Luyến tiếc nơi ngôi cao
 Tâm huệ mê mất hết
 hư người buôn mất vốn
 Vói nhớ sanh khổ nhiều
 Như trời mất cung điện
 Luyến nhớ ngũ dục lạc
 Chưa biết Phật chánh pháp
 Buồn rầu rất não loạn
 Tự nghĩ mất thất bửu
 Và bốn cấp nhơn gian
 Nhớ đến ngôi Thánh Vương
 Miệng thốt lời phi pháp
 Có lúc vua buồn loạn
 Chẳng biết mình và người
 Như quỉ đoạt tinh hồn
 Nắm giữ lấy thân người
 Như tại núi Kê La
 Tất cả không chỗ thấy
 Não hận ấy che chướng
 Nên thấy lại chẳng thấy
 Cũng như ngủ mê chết
 Tâm mình chẳng tự biết
 Bị lo hờn mê chướng
 Vua chẳng biết tự mừng
 Như người vợ chết chồng
 Buồn khóc sanh lo khổ
 Nay vua si não loạn
 Buồn thương sanh khổ lớn
 Ông có phương tiện giỏi
 Đến hóa Tịnh Phạn Vương
 Xô ngã tràng tà mạn
 Kiến lập đèn chánh pháp
 Không còn ai hóa được
 Tịnh Phạn Đại Vương ấy
 Chỉ có Ưu Bà Di
 Thuở trước từng đồng hành
 Ưu Bà Di nên biết
 Từng có đại Quốc Vương
 Tên là Tăng Trưởng Thiệt
 Danh tiếng chấn mười phương
 Như pháp làm Quốc Vương
 Tất cả đều quy hóa
 Dùng chánh pháp trị dân
 Vua lãnh tứ thiên hạ
 Trong ấy đầy thành ấp
 Vườn tược bông trái thơm
 Nhiều những chúng hiền thánh
 Không có người tạp ác
 Rừng tốt rất trù mật
 Đất sạch không gai góc
 Rất nhiều thứ tịnh diệu
 Ao hoa trang nghiêm đẹp
 Nhơn dân rất đông giầu
 Bỏ ác ăn ở lành
 Đóng các cửa ác thú
 Quyết lên thiên đạo tốt
 Xưa vua ấy có con
 Từng cúng dường nhiều Phật
 Tu đủ các căn lành
 Tròn đầy những công đức
 Tên là Diệu Kiên Huệ
 Được nhiều người hầu hạ
 Thường thấy lỗi ngũ dục
 Bỏ nhà ưa nhàn tĩnh
 Phụ Vương bảo Vương Tử
 Con nên thọ ngũ dục
 Thể nữ tự vui chơi
 Ở cung điện báu đẹp
 Cha sắm sửa cho con
 Đồ chơi không hề thiếu
 Sao con chẳng thọ vui
 Con nên nói ý con
 Biết các loài lành tốt
 Trong cung báu của con
 Gái báu thường vây quanh
 Cảnh tốt rất đáng vui
 Chư tiên nhơn ở rừng
 Còn bỏ trở về nhà
 Thọ các vui nữ sắc
 Huống con không thiếu thốn
 Chúng thể nữ vây quanh
 Vua quan đều tùy tùng
 Cung điện như thiên cung
 Nên thọ ngũ dục lạc
 Cung nữ rất đẹp xinh
 Chẳng khác gì thiên nữ
 Múa ca đánh nhạc hay
 Có thể tùy ý vui
 Mắt như lá ưu ba
 Môi đỏ như ngậm son
 Mặt tròn mày rộng đen
 Trán bằng cổ cao ngấn
 Tay thẳng đầy tròn trịa
 Đẹp như vòi tượng vương
 Bàn tay màu hoa sen
 Ngón tròn vót mềm đẹp
 Lưỡi mỏng rộng đỏ hồng
 Lời hay như cam lộ
 Răng trắng trong kín đều
 Chuỗi ngọc y phục báu
 Rún sâu chẳng hiện bụng
 Lưng như chày kim cương
 Vế đùi mêm tròn thẳng
 Không khác đùi lộc vương
 Bước đi như nga vương
 Thảy đều nhìn ngó con
 Tuổi trai tráng đáng yêu
 Có thể nối dòng dõi
 Con và các người đẹp
 Như hoa xuân nở tốt
 Trai tráng tuổi chưa gìa
 Phải mau thọ dục lạc
 Kiên Huệ bạch Phụ Vương
 Cha nói phi chánh lý
 Nếu có lời đúng pháp
 Truyền bảo chẳng dám trái
 Nay cha nghe con nói
 Lời lành và chơn thiệt
 Nhẫn đến trong giấc mơ
 Chẳng có ý tưởng dục
 Nay lời nói của cha
 Người trí chẳng bằng lòng
 Kẻ ngu thích dục lạc
 Người sáng thì thường nhàm
 Sao có người mắt sáng
 Khen người mù dẫn đường
 Đâu có người giải thoát
 Mà lại ưa ngục tù
 Đâu có người an lạc
 Lại khen tặng sự khổ
 Ý con xem Phụ Vương
 Như kẻ mù chìm tù
 Như mộng thọ ngũ dục
 Lại bị dục nhận chìm
 Phụ Vương như đui mù
 Mắt con sáng thấy rõ
 Cha bị dục cuốn trôi
 Nay con rất nhàm chán
 Dục như chén thuốc độc
 Cũng như đầu rắn độc
 Như mũi dao gươm bén
 Cũng như khối lửa lớn
 Lúc vua quan khuyên bảo
 Kiên Huệ đều chẳng nghe
 Bỏ cha và quốc độ
 Rời dục mà xuất gia
 Như rắn lột da cũ
 Cũng như bỏ mũi dãi
 Rời xa những lỗi ác
 Tuyệt hi vọng xuất gia
 Lúc Kiên Huệ bỏ tục
 Có một quan chức trẻ
 Người ấy tên Nguyệt Thí
 Bỏ nhà theo Kiên Huệ
 Đồng tử xuất gia rồi
 Và cùng quan trẻ kia
 Thành tựu bốn phạm trụ
 Đầy đủ ngũ thần thông
 Thấy rõ lỗi ngũ dục
 Siêu tuyệt nơi dục giới
 Chuyển chánh diệu pháp luân
 Sanh chẳng lên Phạm Thiên
 Đồng tử xuất gia rồi
 Phụ Vương lòng ghét giận
 Nguyệt Thí đến chỗ vua
 Giáo hóa cho vua mừng
 Ưu Đà Di nên biết
 Thuở xưa kia Kiên Huệ
 Rời xa nơi ngũ dục
 Nay chính là thân ta
 Ưu Đà Di nên biết
 Vua Tăng Thiệt xưa kia
 Đâu phải ai xa lạ
 Là Tịnh Phạn Vương vậy
 Ưu Đà Di nên biết
 Người theo ta xuất gia
 Nguyệt Thí là thân ông
 Đã từng hóa Tăng Thiệt
 Thế nên Ưu Đà Di
 Nay nên hóa Phụ Vương
 Quyết có lợi ích lớn
 Vì xưa đã giáo hóa".

 Tôn giả Ưu Đà Di nghe lời phán dạy của Phật liền nín lặng lãnh nhận.

 Lúc đó Ưu Đà Di qua đêm đến sáng vào giờ khất thực đắp y mang bát đi vào thành Ca Tỳ La. Có hơn ngàn người dòng thích Ca tập họp tại vương môn đều có chỗ cần.

 Vua Tịnh Phạn Vương nghe Phật Như Lai đến thành Ca Tỳ La tại rừng Ni Cư, Vương sanh lòng ghét hờn rằng : Đức con ấy xuất gia chối bỏ chủng tộc giàu sang ta. Nếu nó ở nhà sẽ nối ngôi Kim Luân cai trị tứ thiên hạ thống lãnh đúng pháp nhơn dân không nghịch mạng, đầy đủ bảy báu : luân bửu, tượng bửu, mã bửu, ma ni bửu, nữ bửu, chủ tạng thần bửu, đạo sư bửu, ngàn con trai dũng kiện, dung nhan xinh đẹp có khả năng dẹp cường địch bảo hộ tứ thiên hạ, chẳng dùng vũ khí ngự trị quốc độ, chỉ trị chánh đúng pháp tự nhiên thái bình. Ta được làm Luân Vương tự tại khoái lạc, họ phải tôn trọng cúng dường cho ta, vì đức con ấy xuất gia nên những sự đáng lẽ được ấy mà đều mất cả.

 Tịnh Phạn Vương nghĩ như vậy rồi truyền cho dòng Thích : Tất cả mọi người chẳng được đến chỗ con ta ở kính tin nghe pháp, nếu có ai phạm sẽ chém đầu.

 Bấy giờ có người dòng Thích tên Hỉ Diện chẳng ở trong chúng chẳng nghe lệnh Vương, thấy Tôn giả Ưu Đà Di liền đến cúi đầu thưa : "Tôn giả mới đến, được bình an chăng ? Đức Thế Tôn an vui ít bịnh ít não đi đứng nhanh nhẹ đi đường chẳng mệt ăn uống chẳng thiếu chăng ?".

 Tôn giả Ưu Đà Di báo Hỉ Diện rằng : "Đức Như Lai an lạc ít bịnh ít não đi đứng nhanh nhẹ đi đường chẳng mệt uống ăn chẳng thiếu".

 Có người dòng Thích tên Thiện Giác thấy Hỉ Diện cùng Tôn giả Ưu Đà Di tại chỗ vắng nói chuyện, cũng đến thưa rằng : "Đại Đức từ xa đến được an lành chăng ? Đức Thế Tôn đi đứng an lạc ít bịnh ít não đi đường chẳng mệt ăn uống chẳng thiếu chăng ?".

 Tôn giả Ưu Đà Di báo Thiện Giác rằng : "Đức Như Lai thánh ngự an lạc ít bịnh ít não đi đường chẳng mệt ăn uống chẳng thiếu".

 Lại có hai người dòng Thích tên Vô Ưu và Ly Ưu thấy Hỉ Diện và Thiện Giác cùng Ưu Đà Di ở chỗ vắng nói chuyện, hai người cũng đến chào đón hỏi thăm như trên rồi tiếp hỏi : "Bạch Đại ĐứcĐức Như Lai ở trên đường đi cớ sao không thiếu ?".

 Tôn giả Ưu Đà Di báo với Vô Ưu và Ly Ưu rằng : "Do Tứ Thiên Vương, Thiên Đế Thích, Phạm Thiên Vươngchư Thiên thường đến cúng dường nên chẳng thiếu vậy".

 Các người dòng Thích ấy đồng thưa rằng : "Bạch Đại Đức Ưu Đà DiChúng tôi đều muốn đến chỗ đức Phật Thế Tôn cúng dường nghe pháp mà sợ chẳng được. Vì Tịnh Phạn Vương có sắc lịnh nghiêm cấm tất cả người dòng Thích. Nếu ai vi phạm sẽ bị chém đầu".
 Tôn giả Ưu Đà Di nghe nói bèn nghĩ rằng đây là Phụ Vương rất oán hận, tôi phải dùng phương tiện để đến chỗ vương.

 Tôn giả Ưu Đà Di liền nhập như thiệt tam muội, dùng sức tam muội trang nghiêm tâm mình, lại dùng thần lực bay cao bằng bảy cây đa la, ngồi kiết già trên hư không rồi bay đến chỗ Tịnh Phạn Vương. Nhà vua ngó thấy liền rời chỗ ngồi chắp tay cung kính hướng về Ưu Đà Di mà nói kệ rằng :

 "Đại Sư ca sa từ đâu đến

 Thành tựu oai nghi khó được thấy

 Nếu có cần gì xin nói mau

 Nay tôi thành tâm quyết phụng cấp".

 Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp Vương rằng :

 "Tôi là con của con Đại Vương

 Đại VươngTổ phụ của tôi

 Tôi vì Như Lai đi khất thực

 Được đồ ăn sẽ về dâng Phật

 Hôm nay Đại Vương được lợi lành

 Con vua là đấng Tối Tôn Thượng

 Oai đức quang minh chiếu mười phương
 Như trăng rằm mặt nhựt giữa trưa

 Như mặt nhựt không gian chẳng mây mù

 Ánh sánh chói chang đều chiếu khắp

 Đấng Tối Thắng con trai Đại Vương

 Oai đức danh tiếng vang mười phương

 Dường trăng đêm thu lúc mới mọc

 Che lấp lửa đóm khắp soi sáng

 Đấng Tối Thắng con trai Đại Vương

 Hàng phục ngoại đạo riêng chói sáng

 Như giữa trưa mặt nhựt chói chang

 Tinh tú bị lấn nên chẳng hiện

 Đấng Tối Thắng con trai Đại Vương

 Hàng phục ngoại đạo tự mình sáng

 Như giữa trưa mặt nhựt lấn trăng

 Làm mặt nguyệt mất sáng chẳng hiện

 Con trai Đại Vương phục ngoại đạo

 Như mặt nhựt sáng làm trăng ẩn

 Như cầm thú nghe sư tử rống

 Thủy lục không hành tan về hang

 Sợ chạy đào tẩu mê phương hướng

 Vì tiếng sư tử khó chịu đựng

 Đại Thánh Như Lai lúc gầm rống

 Tà ngoại được nghe tiếng vô ngã

 Dầu kẻ vô tri đến hữu đảnh

 Nghe tiếng vô ngã thảy đều sợ

 Trong Nhơn Thiên kẻ ngu si

 Như Lai mắt sáng chỉ đường họ

 Vì họ làm đèn trừ tối tăm

 Phát khởi trí sáng tối vô thượng

 Chánh tà bình đẳng chẳng bình đẳng

 Dạy bảo thế gian đạo phi đạo

 Vì người lạc đường chỉ đúng đường

 Từ bùn dục nhiễm vớt ra khỏi

 Như mây bao phủ ao khô cạn

 Mưa tuôn đầy tràn ruộng ướt đều

 Con trai Đại Vương đấng Tối Thắng

 Gầy dựng mưa pháp nhuận Trời Người

 Như nước thấm đất và núi sông

 Cùng trăm giống cỏ rừng cây cối

 Cỏ thuốc cây cành và dây leo

 Hoa thơm đua nở khắp núi đẹp

 Đấng đủ thập lực tứ vô úy

 Đầy đủ mười tám pháp bất cộng

 Trái Nhứt thiết trí hoa trang nghiêm

 Con trai Đại Vương thân vi diệu

 Như núi Tu Di ở giữa biển

 Nghiêm tốt bất động trời thích ở

 Con trai Đại Vương đấng Thiện Thệ

 Trong biển Sa Môn tối đệ nhứt

 Đao Lợi Thiên Chúa Xá Chỉ Phu

 Trong chúng chư Thiên kỳ diệu nhứt

 Con trai Đại Vương đấng Thế Tôn

 Trong chúng Sa Môn kỳ diệu nhứt

 Tuyên nói bí áo pháp thậm thâm

 Dùng điện đại bi chiếu khắp chỗ

 Như Lai Long Vương tuôn mưa pháp

 Niệm xứ nước ao chảy chậm xuống

 Oai đức trì giới như mặt nhựt

 Dùng sức tam muội trừ mê tối

 Sáng trí huệ dứt phiền não ái

 Mặt nhựt Đại Thánh chiếu thế gian

 Đầy đủ niệm xứ báu ma ni

 Thuyền bè giới định qua bỉ ngạn

 Giác chi gươm báu thiền tràn đầy

 Lại cầu vô ưu vào biển Phật

 Rễ giới thanh tịnh chắc khó động

 Tam muội lá cây cành niệm xứ

 Thất giác hoa không thân cây cứng

 Vô ngã kiên cố thành cây Phật

 Đi trong rừng giới người đại lực

 Tam muội điều phục nương núi đức

 Ba môn giải thoát làm cảnh giới

 Phật thập trí lực là Vương Tử

 Chánh kiến vô trước đấng Thế Tôn

 Hàng phục cường địch đại Pháp Vương

 Khủng bố tất cả các ngoại đạo

 Con trai Đại Vương đấng vô úy

 Tịnh giới đức tạng diệu trang nghiêm

 Thiền định tịch diệt y phục báu

 Thế Tôn đủ trí cảnh giải thoát

 Bố thí tài vật như trưởng giả

 Xa lìa các ác họp những lành

 Gốc thiện huệ diệt các phiền não

 Trí huệ thí phát cho Trời Người

 Con trai Đại Vương đấng chói sáng

 Mây giới trời huệ dùng làm chớp

 Tám sợi tơ mưa hay nhuần thấm

 Thế Tôn giúp ích mầm mạ tốt

 Vương Tử dường như rồng lớn mưa".

 Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng :

 "Thắng Sĩ đến đây an lạc chăng

 Đến như uống ăn không thiếu thốn

 Thân không mỏi mệt giường nệm chiếu

 Như hoa bờ sông chẳng héo úa ?".

 Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :

 "Cảnh giới thiền định đủ thần lực

 Thân tâm an lạc khắp đầy đủ

 Thế Tôn tinh thần trụ tịch tĩnh

 Dường như sen vàng chẳng khô khan".

 Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng :

 "Xưa dùng cờ trống tự cảnh tỉnh

 Âm nhạc tranh sắc cùng tiêu sáo

 Kỹ nữ xinh đẹp để tự vui

 Nay ở rừng vắng chẳng khổ ư ?".

 Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :

 "Thiền định tịch tĩnh làm cảnh giới

 Khéo hay tu học tam muội vui

 Đi đứng ngồi nằm tu pháp lành

 Tâm thường mừng vui không khổ não".

 Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng :

 "Giường báu vô giá thường nằm an

 Lúc ngủ gái đẹp luôn hầu cạnh

 Giáp vòng trần thiết nhiều đèn sáng

 Vậy sao nằm tối chẳng buồn bực ?".

 Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :

 "Lúc ngủ Thế Tôn nằm giường thánh

 Nệm êm là từ gối mềm bi

 Phật an trụ hỉ tâm thường vui

 Bỏ ba cõi khổ chẳng buồn bực".

 Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng :

 "Hàng Thích chủng mạnh thường vây quanh

 Học rộng thông thái dùng làm bạn

 Lớn khôn trong cung điện nguy nga

 Vậy sao ngày nay thích rừng vắng ?".

 Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :

 "Như pháp sanh con luôn kề cận

 Đồng tu chỉ định ở tại bên

 Lòng ưa rừng vắng tu thiền định

 Đạo sư vô úy thích nuí rừng".

 Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng :

 "Đồng tử ngày xưa lúc ở cung

 Dùng ao tắm trời để tắm gội

 Cũng dùng dầu thơm thoa thân mình

 Nay ở trong rừng ai tắm cho ?".

 Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :

 "Nước ao các pháp bờ giới lành

 Thế Tôn tự tắm và tắm người

 Mình cùng các con nổi chẳng ướt

 Tự độ đã xong độ quần sanh".

 Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng :

 "Ngày xưa hương thơm thường ướp thân

 Chỉ vàng châu ngọc để trang nghiêm

 Thường mặc thiên tử báu

 Nay ở trong rừng trang sức gì ?".

 Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :

 "Tràng hoa công đức hương ướp giới

 Anh lạc thiền định y tàm quí

 Trí huệ giải thoát tự trang nghiêm

 Ánh sáng oai đức chiếu khắp rừng".

 Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng :

 "Xưa dùng dao gươm cung tên mâu

 Dũng sĩ cầm mang luôn phòng vệ

 Cũng dùng lọng báu thường chen trên

 Nay ở rừng vắng ai hộ vệ ?".

 Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :

 "Từ bi nhẫn nhục tự phòng vệ

 Đệ tử Thanh Văn quyến thuộc mạnh

 Dùng công đức lành quyết không sợ

 Thập lực hùng mãnh tứ vô úy".

 Tịnh Phạn Vương nói kệ khen rằng :

 "Lành thay khéo nói đức con tôi

 Lâu tu pháp lành chẳng thối chuyển

 Ngài lấy bát xong mang bát về

 Tôi cũng đi đến chỗ Thế Tôn".

 Tôn giả Ưu Đà Di lại thưa vua rằng : "Tâu Đại Vương ! Đức Bà Già Bà là Thầy đại chúng hay ngự phục chúng sanh, là đại tiên nhơn hay khéo an trụ, trong chúng Sa Môn là vua Sa Môn, ánh sánh chiếu khắp. Như trăng đêm rằm muôn sao vây quanh ánh trăng rất sáng chiếu khắp nơi, đức Thế Tôn cũng vậy, ở trong chúng Sa Môn ánh sáng chiếu khắp. Như trăng mùa thu ở trong hư không chẳng có mây che, đức Bà Già Bà cũng vậy, ở trong đại chúng ánh sáng chiếu khắp. Như Thiên Đế Thích là vua chư ThiênThiện pháp đường, trong hàng chư Thiên ánh sáng rực rỡ, đức Bà Già Bà ở trong đại chúng ánh sáng rực rờ cũng như vậy. Như Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Xuất Đà Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương ở trong chúng chư Thiên ánh sáng rực rỡ oai đức độc tôn, đấng Bà Già Bà ở trong đại chúng oai đức độc tôn cũng như vậy. Như Đại Phạm Thiên Vương chúa thế giới Ta Bà trăm ức chúng Phạm Thiên vây quanh ánh sáng rực rỡ oai đức độc tôn, đấng Bà Già Bà ở trong chúng Sa Môn oai đức hiển hích độc tôn cũng vậy".

 Nghe nói đạo đức của đấng Bà Già Bà xong, Tịnh Phạn Vương tự nghĩ rằng Sa Môn nầy là đệ tử Thanh văn còn có đại thần thông đại oai đức như vậy, huống là đức Như Lai. Vua lại nhớ lúc Thái Tử vừa sanh thì cả đại địa chấn động sáu cách mười tám tướng : động, biến động, đẳng biến động, dũng, biến dũng, đẳng biến dũng, khởi, biến khởi, đẳng biến khởi, chấn, biến chấn, đẳng biến chấn, hống, biến hống, đẳng biến hống, kích, biến kích, đẳng biến kích, phóng ánh sánh lớn, không ai đỡ dìu mà tự đi bảy bước, trên không có hai đường nước chảy xuống tắm gội thân thể, tự nhiên có thánh tọa bằng chơn kim, trong hư không hóa thành lọng trời, chư Thiên lễ bái, từ đó đến ngày chưa xuất gia chẳng bị ngũ dục mê hoặc, phàm có làm điều gì thì quyết định chẳng bỏ dở, nói gì thì làm được nấy, trong tất cả thời gian kiên cố đại lực, chẳng nói dối, chẳng trái tín hành, từng có lời rằng tôi thành Vô thượng Bồ đề tự độ mình rồi sẽ độ Phụ Vương.

 Tịnh Phạn Vương nhớ Phật lúc còn là Thái Tử Bồ Tát đã có bốn thệ nguyện nên vua nói kệ rằng :

 "Nếu có người sơ sanh

 Trí sáng nói chẳng luống

 Lời cùng việc chẳng khác

 Người trí ai chẳng tin

 Nếu người lúc sơ sanh

 Đối cha nói thành Phật

 Quyết làm bực Thế Tôn

 Người trí ai chẳng tin

 Nếu có người chẳng tiếc

 Khối báu bằng núi Tuyết
 Rời lìa những tham lẫn

 Người trí ai chẳng tin

 Nếu người trong giấc mộng

 Chẳng nói lời hư vọng

 Như lời mà tu hành

 Người trí ai chẳng tin

 Lời nói như gươm dao

 Chẳng não cũng khiến giận

 Người rời sự giận hờn

 Người trí ai chẳng tin

 Không có ai khi được

 Tham sân cũng chẳng nhiễm

 Vua đầy đủ trí huệ

 Người trí ai chẳng tin

 Tất cả ngù dục lạc

 Và cùng những sang giàu

 Đều không cột trói được

 Người trí ai chẳng tin

 Các thứ sự hi hữu

 Và cùng những vật tốt

 Không làm động lòng được

 Người trí ai chẳng tin

 Dùng những lời ngọt ngon

 Thông minh lời khéo nói

 Không làm mê hoặc được

 Người trí ai chẳng tin

 Dùng những lời thuận nghĩa

 Những câu muốn quyết định

 Cũng chẳng buộc ràng đưọc

 Người trí ai chẳng tin

 Quân lực bố trí mạnh

 Cùng nhiều cách canh phòng

 Vẫn vượt khỏi hoàng thành

 Người trí ai chẳng tin

 Rời bỏ ngũ dục lạc

 Để cầu hạnh cam lộ

 Hi vọng được Bồ đề

 Người trí ai chẳng tin

 Sáu năm tu khổ hạnh

 Dũng mãnh không ai bằng

 Cầu được thắng Bồ đề

 Người trí ai chẳng tin

 Sáu năm ăn thô ít

 Cầu được thắng Bồ đề

 Lợi an các thế gian

 Người trí ai chẳng tin

 Sáu năm bị ma nhiễu

 Nối nhau tìm lỗi dở

 Vẫn chẳng gặp được dịp

 Người trí ai chẳng tin

 Rời xa lỗi ngũ dục

 Chẳng cầu vật người khác

 Thường lợi ích thế gian

 Người trí ai chẳng tin

 Chẳng nghe pháp nơi người

 Tự nhiên thành Bồ đề

 Tịch định khó biết được

 Người trí ai chẳng tin

 Phạm Vương đến khuyến thỉnh

 Cần cầu Phật Thế Tôn

 Như thỉnh mà diễn thuyết

 Người trí ai chẳng tin

 Vì thương xót nhớ tôi

 Nên đến vườn Ni Câu

 Vì độ các Thích chủng

 Người trí ai chẳng tin

 Như Lai tự độ rồi

 Độ tôi khỏi biển khổ

 Ghi nhớ thệ nguyện xưa

 Người trí ai chẳng tin

 Nay là lúc được lợi

 Biết Phật Nhứt thiết trí

 Vì thương xót đến tôi

 Người trí ai chẳng tin

 Nay tôi sẽ đến đó

 Thấy thân đấng Đạo Sư

 Lúc nghĩ suy như vậy

 Biết mình là Nhơn Vương".

 Tịnh Phạn Vương suy gẫm xong nói với Tôn giả Ưu Đà Di : "Thưa Đại Đức ! Ngài đến đây còn cần thứ gì ?".

 Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :
 "Vốn vì lợi ích cho Đại Vương

 Tôi dùng thần thông bay đến đây

 Nếu nơi thập lực một niệm tin

 Nam nữ đều được đến đường lành

 Thập lực công đức vô biên tế

 Thế TônThích chủng mà đến

 Sự đáng mừng vui nay mới tới

 Nhơn chúa phải nên phát lòng tin

 Đại Vương danh tiếng quyết thêm lớn

 Đầy khắp cõi tam thiên Đại Thiên

 Con vua đã là kho của vua

 Đầy đủ thập lực tâm từ bi

 Du hành mười phương tâm vô ngại

 Như sen ở nước chẳng dính nước

 Tự độ tứ lưu các cõi rồi

 Cũng độ Trời người bốn sông dữ

 An trí trên bờ đất vô úy

 Đại Vương phải nên tin Đạo Sư

 Nhổ khỏi tứ lưu ba tên độc

 Cũng làm quần sanh thắng y sư

 Trong chúng y sư tôn thượng nhứt

 Đại Vương phải nên kính tin sâu

 Cũng hay hàng phục các quân ma

 Ma Vương quyến thuộc bè đảng ác

 Chứng được tịch diệt đại Bồ đề

 Đại Vương phải nên kính tin sâu

 Nhơn Vương Thiên Vương đều khuyến thỉnh

 Vì độ chúng sanh nói diệu pháp

 Diễn bày vô thượng thuốc cam lộ

 Là đấng Pháp Vương phải nên tin

 Che lấp tất cả chúng ngoại đạo

 Chuyển diệu pháp luân quá cân lường

 Hóa độ vô lượng ức chúng sanh

 Đại hùng Nhơn Vương phải nên tin

 Vô minh phủ dầy trong hắc ám

 Mắt mình trong sáng sáng mắt người

 Thuyết pháp trừ được những mù lòa

 Đại hùng Nhơn Vương phải nên tin

 Lão bịnh tử khổ bức bách người

 Nói pháp trừ được lão bịnh tử

 Khiến chúng thế gian lên đường lành

 Đại hùng Nhơn Vương phải nên tin

 Ba lửa đốt cháy chúng thế gian

 Như đất cháy hồng dùng nước tắt

 Nói Bát chánh đạo Phật vì người

 Đại hùng Nhơn Vương phải nên tin

 Dứt hết ba uế trừ các ác

 Hay rời thế gian ba cấu trược

 Du hành mười phương rất kỳ diệu

 Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin

 Như cha yêu con thương thế gian

 Thập lực đại từ tâm nhuần khắp

 Phát khởi đại bi độ chúng sanh

 Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin

 Khó điều điều được đức Thế Tôn

 Người đáng được độ nay đều độ

 Hay dứt lửa phừng các phiền não

 Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin

 Chúng sanh đọa trong biển ba cõi

 Phật như thuyền tầu hay tế độ

 Thập lực đại bi cứu thế gian

 Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin

 Thân đoan chánh vô lượng công đức

 Đại bi du hành hóa thế gian

 Khiến tâm trược lâu được thanh tịnh

 Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin

 Như nhọc ma ni lắng nước trong

 Đi trong đời làm sạch chúng sanh

 Trừ dứt bầy mê đua loạn trược

 Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin

 Như châu ma ni tánh thanh tịnh

 Hay khiến người trí lòng vui đẹp

 Thế Tôn rời ác tâm sáng sạch

 Khiến những người trí hâm mộ thích

 Nơi đức Thế Tôn khởi tín tâm

 Hay khiến Trời Người lìa gánh khổ

 Bỏ báu sanh tử được tịnh diệt

 Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin

 Trong khối công đức nói ít phần

 Như giữa không gian một dấu chim

 Bờ Phật công đức tôi chẳng biết

 Đại Vương phải nên kính tin sâu".

 Tịnh Phạn Vương nghe Tôn giả Ưu Đà Di khéo nói công đức được tu lúc đức Phật còn làm Bồ Tát, vua liền tự nhớ bổn thệ của Như Lai : Tôi được độ rồi sẽ độ Phụ Vương. Vì nhớ như vậy nên vua rất kính tin và nói với Tôn giả Ưu Đà Di rằng : "Nầy Tỳ Kheo ! Nay Ngài chính là con của con trai tôi, Ngài nên ăn rồi mau về chỗ đức Phật đem cơm dưng lên, nay tôi cũng phải đến ra mắt đức Thế Tôn".

 Tôn giả Ưu Đà Di biết lòng vua đã kính tin, ăn cơm xong, Tôn giả bưng cơm canh về dưng lên đức Phật.

 Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo rằng : "Ưu Đà Di giáo hóa Tịnh Phạn Vương được chánh tín. Hôm nay chư Thiên và người đời được lợi ích rất lớn".

 Đức Thế Tôn khen ngợi Tôn giả Ưu Đà Di rằng : "Lành thay ! Lành thay ! Nay ông được phước đức lớn, vì đã làm cho Tịnh Phạn Vương kính tin vậy".

 Đức Thế Tôn lại bảo chư Tỳ Kheo rằng : "Ưu Đà Di giáo hóa Tịnh Phạn vương được công đức, nếu là có sắc thì hằng sa thế giới mười phương chẳng dung thọ được, vì khối công đức ấy rộng lớn vô lượng vậy".
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12494)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10380)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12345)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11642)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28802)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12048)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13007)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11442)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12372)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17440)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53036)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35485)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21392)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19239)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12404)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26038)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13314)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14378)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16083)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13727)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16837)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17581)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13126)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12529)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11607)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11617)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14505)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20479)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18989)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19563)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18651)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12182)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12311)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13858)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15029)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15036)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15512)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11401)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17192)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14976)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20195)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14612)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13837)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11708)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15059)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12997)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22871)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11648)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13169)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18341)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11939)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11498)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15850)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12881)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18904)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18421)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant