Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

16-04 Phẩm Bổn Sự

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8497)
16-04 Phẩm Bổn Sự
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

 Phẩm Bổn Sự
Thứ Bốn


 Bấy giờ Huệ Mạng Ma Ha Ca Diếp thấy các A Tu La Vương cúng , dường đức Phật rồi , sanh tâm hi hữu tự nghĩ rằng : Lúc đức Thế Tôn tu hạnh Bồ Tát tạo căn lành gì mà nay được quả báo ấy ? Ngài liền nhập như thiệt tam muội, do sức tam muội trang nghiêm nơi tâm nên nhớ biết thuở quá khứ vô số a tăng kỳ kiếp tất cả công đứcNhư Lai đã tu tập trong các loài ấy, trong các đời ấy tu tập thiện căn đều để làm đầy đủ vô thượng Bồ đề. Do các thiện căn ấy mà được bực bất thối chuyển, các thiện căn ấy đều nhớ biết.

 Lúc Ngài Ma Ha Ca Diếp nhớ thiện căn lớn của đức Như Lai, Ngài nghĩ rằng như Phật đã tu tập căn lành rộng lớn, thiện căn mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai , ví như hằng sa thế giới quốc độ mười phương tất cả chúng sanh trong ấy đều được thân người, rồi trong hằng sa kiếp cúng dường chư Phật như A Tu La Vương. Mỗi mỗi chúng sanh trong hằng sa kiếp cúng dường Phật rồi chẳng báo đáp được thiện căn một lần phát tâm của đức Như Lai.Huệ Mạng Ma ha Ca Diếp từ tam muội dậy tán thán rằng :

 “ Mỗi mỗi Như Lai đấng Mâu Ni
 Phát tâm rộng lớn hướng Bồ đề
 Sự cúng dường Phật các Tu La
 Cũng chẳng bằng một phần Ca La
 Thế Tôn Ứng Cúng Thầy Trời Người
 Như khối chiên đàn bằng núi chúa
 Chỗ cúng dường thù thắng Trời Người
 Do nơi công đức đến bỉ ngạn
 Đấng Thầy Trời Người đáng thọ cúng
 Hơn số hằng hà sa đã thọ
 Ví như biển cả đầy nước trong
 Nước thơm hòa hiệp mà cúng dường
 Đầy đủ công đức nên thọ cúng
 Nhiều hơn cả số hằng hà sa
 
 Chứa đầy khối hoa mà cúng dường
 Dường như núi Chướng Ca Bà La
 Tự nhiên Đại Sĩ nên thọ cúng
 Ngọn đèn sáng như núi Tu Di
 Biển cả dùng làm bình đựng dầu
 Đem đèn cúng dường chư Thế Tôn
 Đấn oai thế nên thọ cúng dường
 Nhiều hơn số hằng hà sa
 Tạo lập tháp miếucúng dường
 Do nơi công đức đến bỉ ngạn
 Nhơn Thiê Đạo Sư nên thọ cúng
 Đem những lọng báo lớn đẹp lạ
 Mỗi lọng che khắp cõi Đại Thiên
 Trải suốt số kiếp na do tha
 Đấng Thế Tôn thương xót thế gian
 Công đức vô biên nên thọ cúng
 Đem những tràng báo để cúng dường
 Đầy khắp thế giới trong mười phương
 Nơi số kiếp ức bất tư nghị
 Đem phan rộng lớn mà cúng dường
 Đầy hằng hà sa các thế giới
 Trải qua vô lượng ức kiếp số
 Cúng dường Như Lai Thiên Nhơn Sư
 
 Phát khởi phân biệt làm thí dụ
 Đại chúng con của Đại Luận Sư
 Lắng nghe lắng nghe các Trời Người
 Tôi cùng mọi người tại chúng nầy
 Số đông như số hằng hà sa
 Bao nhiêu đại chúngmười phương
 Tất cả đều sẽ được làm Phật
 Đầy đủ thập lực đại Đạo Sư
 Số chư Phật ấy như hằng sa
 Mỗi mỗi đều có hằng sa đầu
 Nơi mỗi mỗi đầu như hằng sa
 Đều có đủ cả hằng sa miệng
 Nơi mỗi mỗi vô lượng miệng ấy
 Đều có vô lượng vô số lưỡi
 Dùng lưỡi ca ngợi nơi Như Lai
 Chư Như Lai ấy nói chẳng hết
 Công đức bờ kia chẳng đến được
 Nhứt thiết chủng trí chẳng lường được
 Do công đức đến bỉ ngạn vậy ”.

 Đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo: “ Lành thay, lành thay ! Nầy chư Tỳ Kheo ! Chư Thanh Văn của ta lòng đoan trực có trí có pháp như Phạm Thiên mới được vào trong biển công đức của

 Phật. Tại sao ? Vì Như Lai đầy đủ vô lượng công đức, đầy đủ công đức chẳng nghĩ bàn. Khối công đức của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.

 Nầy chư Tỳ Kheo ! Khối công đức của Như Lai nếu là hình sắc, thì công đức mỗi mỗi lần phát tâm ấy, hằng sa thế giới chẳng dung chứa được? Tại sao ?

 Nầy chư Tỳ Kheo ! Công đức mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai là chỗ phan duyên của Nhứt thiết trí, như hằng sa chư Phật, như hằng sa kiếp, chẳng thể suy lòng chẳng thể nói hết. Tại sao ? Vì lúc Như Lai tu hạnh Bồ Tát thuở xưa không một phát tâm nào là chẳng vì lợi ích tất cả chúng sanh, nhiếp thuộc chúng sanh không một phát tâm nào là chẳng vì tất cả chúng sanh, chúng sanh giới không biên tế, chúng sanh trong đó cũng không biên tế, công đức mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai cũng không biên tế. Tại sao ? Như chúng sanh giới không biên tế, như chúng sanh giới chẳng lường được, khối công đức mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai chẳng thể cùng tận, đều vì thương xót lợi ích an lạc tất cả chúng sanhphát tâm vậy. Giả sử tất cả chúng sanh đều cúng dường chẳng thể báo đáp được công đức một lần phát tâm của Như Lai. Tại sao ? Vì các chúng sanh ấy cúng dường Như Lai đều vì hi vọng quả báo thế gian tạp thực vậy.Bồ Tát phát tâm rời lìa nơi tâm tạp thực cầu báo thế gianvì lợi ích an lạc chúng sanh, muốn khiến chúng sanh trái sanh tửxu hướng Niết bàn.

 Lúc Như Lai tu hạnh Bồ Tát thuở xưa vì lợi ích an lạc chúng sanh, rời lìa tạp thực chẳng cầu báo thế gian ”.

 Đức Phật bảo chư Tỳ Kheo ; “ Thuở quá khứ, vô lượng vô biên lưu chuyển sanh tử vô số bất khả tư nghì trong vô thỉ thế giới bất khả thuyết kiếp có Phật hiệu Nhơn Đà Tràng Vương xuất thế đủ mười đức hiệu.

 Nầy chư Tỳ Kheo ! Lúc đức Nhơn Đà Tràng Vương Như Lai thành Phật, hằng sa thế giới đồng một quốc độ trang nghiêm thanh tịnh không có các ác đạotám nạn, chúng sanh trong đó đều an trụ chánh định tụ. Hoàn toàn không có chúng sanh tà định, tăng thượng mạn. Tất cả đều không có thân nghiệp bất tịnh, khẩu nghiệp bất tịnh, ý nghiệp bất tịnh, cũng không có phiền não ác đạo, nghiệp ác đạo.
 

 Tại sao ? Vì đức Nhơn Đà Tràng Vương Như Lai giáo hóa chúng sanh ấy cho họ phát tâm dứt tất cả ác, đem pháp lành dạy cho họ tu học.

 Trong quốc độ của đức Nhơn Đà Tràng Vương Như Lai có năm thứ vui : một là được dục lạc, hai là được vui xuất gia, ba là được vui thiền định, bốn là được vui tam ma đề, năm là được vui Vô thượng Bồ đề.

 Các chúng sanhquốc độ ấy dầu thọ lạc mà chẳng nhiễm trước , như ong mật chi” lấy mật hoa mà chẳng lấy sắc hoa, như chim bay đi trên không mà chẳng dừng dính hư không, chúng ấy cũng vậy dầu thọ lạc mà chẳng nhiễm lạc. Các chúng sanh ấy không có lo khổ chỉ có vui sướng, cũng không bất khổ bất lạc thọ vì không ngu si vậy, chỉ có sự vui thích vừa lòng. Tại sao ? Vì các chúng sanh vốn đã tu căn lành. Do vì đức Phật ấy lúc tu hạnh Bồ Tát hiện các tướng hảo khiến các chúng sanh ấy chẳng làm ác mà đặt để cho họ tu tập pháp lành, họ lần lượt rời lìa ác đạo ở chỗ lành vui, tất cả thứ nghiệp bất thiện họ đều không hẳn. Lúc họ tạo nghiệp lành được quả báo an vui mà họ chẳng tham luyến và không bao giờ sanh khổ thọ, vì chẳng tạo nghiệp ác nên chẳng thọ quả khổ vậy.Vì không ngu si nên cũng không bất khổ bất lạc thọ.

 Trong quốc độ ấy tất cả thời gian thường không có gió dữ mưa bạo, cũng không có độc nhiệt, chúng sanh cõi ấy không có khổ vì thời tiết thay đổi.

 Lúc đức Nhơn Đà Tràng Vương Như Lai tu hạnh Bồ Tát, tất cả thân nghiệp trí thượng thủ trí thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả khẩu nghiệp trí thượng thủ trí thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả ý nghiệp trí thượng thủ tri thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả chúng sanh trong quốc độ ấy theo Bồ Tát nghe pháp rồi tất cả ba nghiệp thân khẩu ý nghiệp trí thượng thủ trí thuận chuyển hồi hướng. Do nơi nghiệp lành nên báo ngu si chẳng sanh. Do vì không ngu si nên chúng sanh ấy không có khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Các chúng sanh ấy lúc sanh quốc độ kia, đức Nhơn Đà Tràng Vương Như Lai giáo hóa rồi, họ kính trọng nơi pháp, nếu lúc du hành họ suy lường nơi pháp yêu thích nơi pháp nhiễm trước nơi pháp. Lúc du hành do họ yêu thích nhiễm trước nơi pháp khôngkhổ thọ, đi đứng ngồi nằm ngủ thức đều không có một chút khổ về oai nghi. Các chúng sanh trong quốc độ ấy không có ác để thuận theo. Do vì không ác nên không có khổ sanh và không chấp nơi lành. Do cớ ấy nên các chúng sanh kia khéo thuận nơi không mà không có biến dịch khổ. Ở trong các pháp chẳng sanh tham trước nên chẳng có hoại khổ. Quốc độ ấy cũng không có hoán tắng hội khổ. Tại sao ? Vì các chúng sanh ấy ở trong tất cả chúng sanh được tâm an trụ bình đẳng hiện tiền nên không có oán tắng. Cũng không có ái biệt ly khổ. Tại sao ? Vì các chúng sanh ấy không ái trước tất cả pháp. Khổ ái biệt ly do nơi ái mà sanh. Chúng sanh ấy không ái nhiễm nên không có ái biệt ly khổ. Cũng không có khổ khổ. Tại sao ? Vì đối với lạc thọ chẳng luyến trước vậy.Chỉ có hành khổ thôi, đó là vô thường khổ. Tại sao ? Đức Phật ấy chỉ nói đệ nhứt nghĩa đế. Đức Phật thọ hằng sa kiếp. Trong Phật độ ấy không có một chúng sanh nào tranh luận với Phật mà sanh trong cõi ấy. Tại sao ? Vì lúc làm Bồ Tát đã thành thục xong chúng sanh vậy”.

 Đức Phật bảo các Tỳ Kheo rằng : “ Nầy chư Tỳ Kheo ! Ý các ông thế nào ? Có thể dùng hạ thiện căn, ít thiện căn những thiện căn
 

 Chẳng tập giỏi, những thiện căn chẳng tương ưng, thiện căn chẳng phải đại tinh tấn, thiện căn chẳng phải thiện thú, chẳng phải thiện pháp, chẳng phải thiện hồi hướng mà có hể làm lợi ích các chúng sanh ấy hay ban vui trừ khổ ư ? Có thể nghiêm tịnh quốc độ quảng đại ấy ư ? Có thể thành thục nhiều chúng sanh như vậy ư ? ” .

 Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ” .

 Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng :” Ý các ông thế nào ? Có thể dùng tâm hạ liệt, tâm khiếp nhược, tâm tương ưng bất thiện, tâm chẳng phải tinh tấn, tâm chẳng phải khéo tập thiện căn, tâm chẳng phải thiện thú, tâm chẳng phải thiện pháp, tâm chẳng phải thiện hồi hướng mà làm lợi ích an lạc được các chúng sanh ấy, ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng snh như vậy chăng ? ”.

 Chư Tỳ Kheo bach rằng : “ Chẳng thể được ”.

 Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng :” Ý các ông thế nào ? có thể dùng tin hạ liệt, tin ít, tin kém, tin khiếp nhược, tin tương ưng bất thiện, tin chẳng phải tinh tấn, tin chẳng phải khéo tập thiện căn, tin chẳng phải thiện thú, tin chẳng phải thiện pháp, tin chẳng phải thiện hồi hướng mà lợi được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đai như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng?”.

 Chư Tỳ Kheo bạch Phật rằng :” Chẳng thể được ”.

 Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng giới hạ liệt, giới ít, giới kém, giới chẳng phải tinh tấn, giới chẳng phải khéo tập thiện căn, giới chẳng phải thiện thú, giới chẳng phải thiện pháp, giới chẳng phải thiện hồi hướnglợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ dược và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ?” .

 Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được”.

 Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng tinh tấn hạ liệt , tinh tấn ít, tinh tấn kém, tinh tấn khiếp nhược, tinh tấn chẳng tương ưng, tinh tấn chẳng phải tinh tấn, tinh tấn chẳng phải khéo tập thiện căn, tinh tấn chẳng phải thiện thú, thiện pháp, thiện hồi hướnglợi ích được

 Các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ?”.

 Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể dược ”.

 Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng niệm hạ liệt, niệm ít, niệm kém , niệm khiếp nhược, niệm chẳng tương ưng thiện căn, niệm chẳng tinh tấn, niệm chẳng khéo tập thiện căn , niệm chẳng phải thiện thú, thiện phát thiện hồi hướnglợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ? ”.

 Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ”.

 Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng định hạ liệt, định ít, định kém, định khiếp nhuợc, định chẳng tương ưng thiện căn, định chẳng tinh tấn, định chẳng khéo tập thiện căn, định chẳng thiện thú, thiện phát, thiện hồi hướng, mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổnghiêm tịnh được quốc độ quảng đại ấy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ? ”.

 Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ”.

 Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng huệ hạ liệt,huệ ít, huệ kém, huệ khiếp nhược, huệ chẳng tương ưng thiện căn, huệ chẳng tinh tấn, huệ chẳng khéo tập thiện căn, huệ chẳng thiện thú, thiện pháp, thiện hồi hướnglợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổnghiêm tịnh được Phật độ quảng đại ấy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ?”.

 Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ”.

 Đức Phật bảo các Tỳ Kheo rằng : “Đúng như vậy. Nầy các Tỳ Kheo ! Thiệt chẳng phải dùng ít thiện căn , ít giới, ít tín, ít tinh tấn, ít niệm, ít định, ít huệ mà có thể lợi ít được các chúng sanh, và có thể ban vui cứu khổ, nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại, thành thục, được nhiều chúng sanh như vậy.

 Nầy chư Tỳ kheo ! Ý các ông thế nào ? Các ông có biết đức Phật Nhơn Đà Tràng Vương thuở quá khứ xa xưa ấy là ai chăng ? ”.

 Đức Phật hỏi rồi mà chư Tỳ Kheo đều nín lặng chẳng đáp.

 Đương lúc ấy, phương Đông quá hằng sa thế giới tên Nguyệt Quang Trang Nghiêm, hiện tạiPhật hiệu Cao Oai Đức Vương Như Lai. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ở tại chúng hội ấy biết tâm niệm của Phật Thích ca Mâu Ni liền bạch đức Cao Oai Đức Vương Như Lai rằng : “ Bạch đức Thế Tôn! Nay Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết Pháp tại thế giới Ta Bà. Tôi qua đó đảnh lễ cúng dường cung kính nghe pháp ”. Đức Cao Oai Đức Vương Như Lai nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng : “Ông đi tùy ý, nay đã phải lúc ”. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đầu diện lễ đức Cao Oai Đức Vương Như Lai đi nhiễu Phật ba vòng rồi như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay từ cõi Nguyệt Quang Trang Nghiêm hiện ra trước đức Thích Ca mâu Ni Như Lai lạy chân Phật rồi ngồi một bên mà bạch rằng : “ Bạch Thế Tôn ! Đức Nhơn Đà Tràng Vương Như Lai thuở xưa ấy tức là Thế Tôn vậy. Tại sao ? Do đức Thế Tôn đầy đủ bất tư nghì các thiện phương tiện có thể thành thục chúng sanhnghiêm tịnh Phật độ luôn chẳng mỏi mệt cũng chẳng chán nhàm. Đức Thế Tôn an trí chúng sanh nơi Bồ Tát thừa cũng chẳng mỏi nhàm. Nếu có người chơn thiệt ngữ nói lời chánh đáng rằng : Thù thắng trong thù thắng, vi diệu trong vi diệu, thượng thủ trong thượng thủ, tối thắng trong tối thắng, nói đức Phật là như vậy, thì nên biết rằng Thích Ca Mâu Ni chơn thiệt không khác ”.

 Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói kệ rằng :

 “ Hùng mãnh xảo phương tiện
 Thương xót các thế gian
 Hiện đại oai thần lực
 Để thành thục chúng sanh
 Đã ở thuở quá khứ
 Từng làm tám ức Phật
 Như tựthần lực
 Vô tâm chứng chánh giác
 Sáu mươi một Tam Thiên
 Thanh tịnh quốc độ Phật
 Trí cạn chẳng biết Phật
 Mâu Ni xảo phương tiện
 Chẳng bỏ sơ phát tâm
 Các nơi chỗ kia hiện
 Lại ở đời vị lai
 Thị hiện vô lượng Phật ”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188485)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43717)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25002)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30793)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21005)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38717)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27344)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31075)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33083)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23946)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16956)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20487)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31886)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18071)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20522)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 26993)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18004)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25529)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26613)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36548)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28034)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27264)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30313)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37052)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37216)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23853)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32263)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55108)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36877)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27547)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28284)
Công Phu Khuya
(Xem: 37917)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25380)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24119)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11211)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14478)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10604)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant