Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 7811)
16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
Thứ Hai Mươi Mốt


 Bấy giờ có mười hai na do tha chúng trời Biến Tịnh thấy A Tu La nhẫn đến trời Quang Âm cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vừa mừng hớn hở tự hiện oai lực bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có tam muội tên Siêu quá tất cả pháp. Đại Bồ Tát được tam muội ấy rồi, ở nơi các phan duyên và tất cả sự đều sanh lạc thọ mà chẳng sanh khổ thọ. Giả sử ở trong sự địa ngục khổ não, cũng đều sanh ý tưởng vui vẻ, hoặc nơi súc sanh đạo thọ báo súc sanh đạo thọ báo súc sanh cũng ý tưởng vui, hoặc tại ngạ quỉ đạo thọ đói khát cũng sanh tưởng vui, hoặc ở trong A Tu La đạo cũng sanh tưởng vui, hoặc trong loài người bị khổ cũng sanh ý tưởng vui mà chẳng hề sanh ý tưởng khổ. Giả sử bị chặt tay chặt chưn, lắt tai xẻo mũi hay dao gậy chém đập thân người, hoặc tù ngục giam cầm, treo ngược, xẻo da thịt như lột áo, cột trói thái thịt, chày giã ép nghiền như bã mía, chà đạp dập nát như lau cói, hoặc bị thiêu đốt như tim đèn như đuốc sáng, hoặc bị cho sư tử cọp sói xé ăn, hoặc bị rót nước dấm nước cay vào miệng mũi, hoặc bị nung nấu hay thui đốt , hoặc cho voi ngựa chà đạp, hoặc bị móc mắt, hoặc bị mâu sóc đâm giơ lên cao, hoặc bị chặt đầu,tất cả sự ấy đều sanh ý tưởng vui.

 Tại sao vậy?

 Vì đại Bồ tát ấy trong đêm dài tu hạnh Bồ Tát phát nguyện như vầy : Nếu có chúng sanh bố thí vật thực cho tôi,nguyện họ được vui Niết bàn, nếu có chúng sanh ở nơi tôi bố thí cúng dường lễ bái tôn trọng cung kính khen tặng hoặc chê bai xua đuổi quở mắng đánhgiết, đều nguyện cho tất cả đều được vui Niết bàngiác ngộ Vô thượng Bồ đề.

 Đại Bồ Tát ấy thành tựu tâm như vậy, đầy đủ nghiệp như vậy, cũng lại trọn vẹn nguyện như vậy, đối với tất cả chúng sanh đều sanh ý tưởng vui, thường hay tu tập luôn chẳng hở dứt. Do nghiệp báo ấy mà được tam muội Nhứt thiết pháp lạc rất thiện thắng ấy. Lúc đại Bồ Tát được tam muội ấy chẳng bị các ma nhiễu hoại, cũng chẳng bị các ma sự ràng buộc. Phải biết đại Bồ Tát nầy được năm thứ tự tại : một là thọ mạng tự tại, hai là sanh tự tại, ba là nghiệp tự tại, bốn là giác quán tự tại, năm là những món quả báo tự tại. Đại Bồ Tát nầy nếu muốn quá một đời chứng Vô thượng Bồ đề, do nơi sức tam muội ấy nên liền có thể được chứng. Nếu chẳng thích mau chứng Vô thượng Bồ đề thì có thể ở đời vô lượng a tăng kỳ kiếp cứu độ chúng sanh. Tại sao vậy? Phải biết Bồ Tát ấy an trụ đại thừa thường làm Đạo Sư cho chư Bồ Tát nhiếp thọ tất cả chư Bồ Tát khác. Đại Bồ Tát nầy nhàm lìa các loài mà vì độ chúng sanh nên lại sanh vào trong các loài, cứu cánh sở học của tất cả Bồ Tát được Bát Nhã Ba la mật nhiếp thọ, đầy đủ tất cả xảo phương tiện biết các ma nghiệp được pháp cứu cánh. Thừa Phật oai thần, chư đại Bồ Tát ấy nơi tất cả pháp đều biết được hết”.

 Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật :

 “Chúng tôi tất cả trời Biến Tịnh
 Ở nơi Phật pháp đều biết hết
 Đầu mặt quy kính Thiên Nhơn Sư
 Các căn tịch tĩnh như tịch diệt
 
 Hiểu rõ các nghĩa được cúng dường
 Đấng Mâu Ni đã qua sanh tử
 Tôi nay tán thán đại Đạo Sư
 Hay dắt dẫn người chẳng bị dắt
 Các pháp tánh tướng chẳng cứu cánh
 Cũng lại chẳng có chỗ y trụ
 Như Lai khéo biết sự vọng tưởng
 Như nhà ảo thuật biết sự ảo
 Người trí hiểu rõ tiếng ngữ ngôn
 Dụ như hang sâu dột tiếng vang
 Thế Tôn tri kiến khéo như vậy
 Tất cả thế gian Trời Người thảy
 Không có chúng sanh không thọ mạng
 Cũng lại không nhơn không có ngã
 Đại trí quan sát tất cả tưởng
 Rõ thấu ý tưởng đều về không
 Lưỡng Túc Thế tôn đại từ bi
 Hằng thường hành từ chẳng tạm bỏ
 Tất cả thế gian các Trời Người
 Chẳng lường biết được trí Như Lai
 Đạo Sư diễn nói duyên chúng sanh
 Đó là từ tâm căn lành lớn
 Biết rõ tất cả các chúng sanh
 
 Không có chúng sanhthọ mạng giả
 Nơi đây chúng tôi không cấu trược
 Tâm trí thanh tịnh lìa nghi hoặc
 Thế nên nơi Phật thắng trí huệ
 Đấng đáng thọ cúng dâng cúng dường
 Ở trong mười phương thế giới kia
 Tìm khổ rốt ráo chẳng có được
 Như Lai vô thượng trời trong trời
 Nói duyên chúng sanh phát từ tâm
 Đây là lời dạy của Thế Tôn
 Nay tôi được hiểu cũng như Phật
 Vì thế tôi đối Thế Gian giải
 Nay được cúng dường bực đáng cúng
 Đã không chúng sanh cũng không khổ
 Thế nên không có được cứu độ
 Đã khiển trừ được lòng ưu muộn
 Bèn được mừng vui rất hớn hở
 Phật giáo như vậy bất tư nghị
 Chúng tôi đã được biết như thiệt
 Thế nên nay tôi cúng dường Phật
 Nguyện được trí vô thượng Như Lai
 Phật ở các loài chẳng thấy khổ
 Niết bàn cũng lại bất khả đắc
 
 Tăng thượng vứt bỏ nơi sanh tử
 Dùng đây lợi ích các thế gian
 Không khổ không loài không chúng sanh
 Cũng không Niết bàn để y trụ
 Biết được Phật pháp như vậy rồi
 Thế nên chúng tôi nay cúng dường
 Phật đủ từ bihỉ xả
 Chuyễn vì chúng sanh thường diễn thuyết
 Mà lại chẳng thấy có chúng sanh
 Được trụ nơi bốn tâm vô lượng
 Chẳng thấy có ai là phóng dật
 Cũng lại chẳng thấy bất phóng dật
 Biết được giáo pháp của Phật rồi
 Nay tôi cúng dường đại Đạo Sư
 Vô Thượng Sĩ nơi thân lìa thân
 Quán thân cứu cánh bất khả đắc
 Dầu vậy chẳng phải chẳng nói niệm
 Mà nói có niệm và thất niệm
 Thiện Thệ thường nói tu học niệm
 Đó là quán thân chánh niệm xứ
 
 Nay được cúng dường đấng cứu độ
 Thế Tôn quán thọ bất khả đắc
 Vì thọ không có thể tánh vậy
 Cũng lại quán sát nơi thọ giả
 Cứu cánh không có tánh chơn thiệt
 Và quán người tu niệm xứ ấy
 Cứu cánh cũng lại bất khả đắc
 Chúng tôi biết Phật pháp như vậy
 Nay được cúng dường Thiên Nhơn Sư
 Quán tâmquán tâm số pháp
 Cứu cánh thể tánh bất khả đắc
 Cũng lại chẳng thấy có tu niệm
 Và không ai chánh trụ niệm xứ
 Phật nói niệm cùng tâm hòa hiệp
 Người cầu giải thoát phải tu học
 Chúng tôi biết Phật giáo như vậy
 Nay được cúng dường Chánh Biến Tri
 Như Lai chẳng thấy có các pháp
 Cũng chẳng thấy có người tu pháp
 Đại Thánh chỉ dạy tụ tập niệm
 Niệm ấy cũng lại tánh tự không
 Lại nói niệm cùng pháp hòa hiệp
 Muốn cầu giải thoát phải nên tu
 
 Chúng tôi biết Phật pháp như vậy
 Nay được cúng dường Nhứt thiết trí
 Một niệm xứ còn bất khả đắc
 Huống lại còn có ba và bốn
 Nghĩa là nơi niệm trụ xứ ấy
 Các niệm xứ ấy thảy đều không
 Thế nên thiệt cầu bất khả đắc
 Cứu cánh không người thọ khổ lạc
 Chúng tôi biết thánh giáo như vậy
 Nay được cúng dường Phật Thế Tôn
 Mâu Ni tuyên dạy tứ chánh cần
 Nếu có Tỳ Kheo chuyên tu tập
 Đây thì hay làm đường giải thoát
 Sẽ được ra khỏi biển sanh tử
 Mà không ai thoát không ai trói
 Không Phật không giáo không Bồ đề
 Nhưng lại chẳng hoại giả danh dụng
 Thế nên nay tôi cúng Đại Thánh
 Phật dạy bốn thứ như ý túc
 Đường an ổn giải thoát thắng diệu
 Hàng chúng sanh các căn tịch tĩnh
 Tu hành đạo nầy được Niết bàn
 Như ý và túc cùng người tu
 
 Chơn thiệt quán sát bất khả đắc
 Nhưng chẳng đoạn tuyệt nêu có làm
 Cảnh giới trí huệ chẳng thấy có
 Trong giáo pháp Thế Tôn như vậy
 Nơi đây chúng tôi đều biết cả
 Tâm trí thanh tịnh không cấu uế
 Đều được xa rời các nghi hoặc
 Dùng đây tức là thượng cúng dường
 Cúng đấng kham thọ đấng thù thắng
 Thế nên diệu trí không ngang sánh
 Nay tôi đều được dâng cúng dường
 Đấng Thế Gian Giải nói ngủ căn
 Xuất thế được đến giải thoát
 Cẩn thận chớ lười thường siêng tu
 Đó là xu hướng Niết bàn lộ
 Căn và người tu thảy đều không
 Cũng không giải thoát và người thoát
 Nơi đây chúng tôi đều không nghi
 Thế nên nay được cúng dường Phật
 Đạo Sư chỉ dạy năm thứ lực
 Đường chánh đến được thành Niết bàn
 Đây dứt được hết phiền não phược
 Khiến người bị trói được giải thoát
 
 Thể các lực ấy tánh tự không
 Phiền não và Phật đều cũng không
 Chúng tôi nơi đây không nghi lự
 Thế nên nay được cúng Như Lai
 Đại Tiên diễn nói bảy giác chi
 Bồ đề phần pháp đạo tối thắng
 Hay mở sự trói các chúng sanh
 Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng
 Không có trói buộcgiải thoát
 Cũng không ai bị trói được mở
 Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc
 Thế nên nay được cúng dường Phật
 Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo
 Hiển thị tất cả các quần sanh
 Đây là gốc khổ các phiền não
 Tu học thánh đạo dứt trừ được
 Cả hai pháp ấy lìa đối trị
 Đó là thánh đạophiền não
 Chúng tôi nơi đây đều không nghi
 Thế nên được cúng đấng đáng cúng
 Tu xa ma tha và xá na
 Đạo ấy hay hết các mé khổ
 Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ
 
 Thể các lực ấy tánh tự không
 Phiền não và Phật đều cũng không
 Chúng tôi nơi đây không nghi lự
 Thế nên nay được cúng Như Lai
 Đại Tiên diễn nói bảy giác chi
 Bồ đề phần pháp đạo tối thắng
 Hay mở sự trói các chúng sanh
 Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng
 Không có trói buộcgiải thoát
 Cũng không ai bị trói được mở
 Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc
 Thế nên nay được cúng dường Phật
 Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo
 Hiển thị tất cả các quần sanh
 Đây là gốc khổ các phiền não
 Tu học thánh đạo dứt trừ được
 Cả hai pháp ấy lìa đối trị
 Đó là thánh đạophiền não
 Chúng tôi nơi đây đều không nghi
 Thế nên được cúng đấng đáng cúng
 Tu xa ma tha và xá na
 Đạo ấy hay hết các mé khổ
 Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ
 
 Kiếp xa Thế Tôn đã trừ sạch
 Quả xa ma tha và xá na
 Tất cả thứ ấy thảy đều không
 Chúng trời nơi đây lìa nghi hoặc
 Vì thế chúng tôi nay cúng dường
 Phật nói bất tịnh trị tham dục
 Từ tâm đối trị các sân khuể
 Tỳ bà xá na đối trị si
 Như Lai hiển thị các chúng sanh
 Đây đều vô tác không tạm dừng
 Thế nên không cấu cũng không tịnh
 Chúng tôi nơi ấy đều không nghi
 Thường thích cúng dường đại Đạo Sư
 Mười nghiệp bất thiện của Phật nói
 Thứ ấy gọi là nghiệp đạo ác
 Sát sanh thâu đạotà dâm
 Vọng ngữ lưỡng thiệt cùng ác khẩu
 Ỷ ngữ tham dụcsân khuể
 Tối hậu thứ mười tên tà kiến
 Phật nói thứ ấy là bất thiện
 Là nghiệp đạo ác của chúng sanh
 Đã không chúng sanh cũng không hại
 Cả chín nghiệp kia cũng đều không
 
 Không có đối trị các thiện ác
 Vì tự tánh nó vốn không tịch
 Nhưng chẳng phải không lời Phật dạy
 Bởi vì chẳng hoại pháp thể tánh
 Tôi nơi Phật huệ cũng chẳng nghi
 Thế nên nay cúng trí vô thượng
 Nếu người tu pháp của Như Lai
 Người ấy tức là chơn Phật tử
 Người ấy xứ xứ đều thọ vui
 Hằng thường xa lìa các khổ não
 Thiện Thệ trí huệ thắng như vậy
 An ổn dẫn đạo các quần sanh
 Chúng tôi nơi đây lìa lòng nghi
 Nay đều cúng dường đấng đáng cúng ».

 Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật rồi đều yên lặng đứng một phía.

 Đức Thế Tôn thấy chúng trời ấy đứng yên lặng, và biết lòng thâm tín của họ nên hiện tướng mỉm cười.

 Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật :

 « Nay Phật Thế Tôn trí thù thắng
 Vì lợi ích đời hiện mỉm cười
 Thập Lực Thế Hùng siêu tất cả
 Mà hay hóa phục các đại chúng
 Giỏi hiểu các pháp đại Đạo Sư
 Phật hiện tướng cười chẳng không nhơn
 Đấng Thế Gian Giải lòng không thiếu
 Ngưỡng mong giải nói nghĩa mĩm cười
 Các đại chúng đây đều một lòng
 Không có loạn tưởngchánh niệm
 Lòng vui chiêm ngưỡng núi công đức
 Chỉ muốn được nghe cung kính đứng
 Nơi Đại Luận Sư tự tại Phật
 Nếu được nghe nói đều vui mừng
 Giỏi hiểu các pháp trí quyết định
 Sẽ được làm Phật độ quần sanh
 Nếu ai nơi Phật sanh tịnh tín
 Chắc thành đại trí nhứt thế gian
 Lường biết câu cam lộ vi diệu
 Người nầy thấy được khắp mười phương
 Ai ở trong kiếp đời vị lai
 Sẽ được làm Phật thường thế gian
 Đấng đại Đạo Sư diệu ngôn từ
 Ngưỡng mong nói rõ cho chúng vui
 Nếu ở nơi đấng Đại Thánh Hùng
 
 Mà sanh kính tin lòng tôn trọng
 Cũng ở chánh pháp sanh tín huệ
 Tất cả các ma chẳng động được
 Nếu hay sanh tín được quyết định
 Tức là Phật tử từ tâm sanh
 Ngưỡng mong Thế Tôn diễn nói pháp
 Do đó đại chúng được trừ nghi
 Nếu có ai đối với chúng sanh
 Tâm từ che chở khắp thế gian
 Trí huệ kiên cố sẽ thành Phật
 Bèn được an trụ Nhứt thiết trí
 Đấng vô thượng trăm phước trang nghiêm
 Ngưỡng mong giải bày trừ lưới nghi
 Chỉ muốn thọ trì pháp Thế Tôn
 Như Lai vì họ hiện tướng cười
 Mong được nghe Phật lời thiện xảo
 Âm thanh tám đức rất vi diệu
 Trước tự được đến nơi thiện đạo
 Sau hay dẫn dắt các quần sanh
 Phật pháp vi diệu là như vậy
 Phật tử an trụ ở trong ấy
 Giống Phật Thế Tôn chẳng đoạn tuyệt
 Chắc được ở lâu tại thế gian”.
 
 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo :

 “Mã Thắng nay ông hỏi cớ cười
 Phật vì lợi ích các thế gian
 Ông được phước đức vừa lòng mình
 Phước ấy vô lượng chẳng hết được
 Người trí mới hay hỏi đúng lúc
 Do đó lợi lớn các chúng sanh
 Ông cùng tất cả hàng đại chúng
 Mừng vui một lòng nghe Phật nói
 Chúng trời Biến Tịnh hiện diện đây
 Ở trong pháp Phật đều không nghi
 Tất cả mừng vui lòng tịnh tín
 Dùng kệ khen ngợi Phật công đức
 Trời ấy đã ở đời quá khứ
 Cúng dường ngàn ức do tha Phật
 Cũng hỏi Phật ấy những nghĩa nầy
 Trong tất cả pháp đều không nghi
 Do các nhơn duyên thuở xưa ấy
 Nay nói được kệ tán thán Phật
 Cũng lại tịnh tâm sẽ tán thán
 Hiền kiếp tất cả chư Như Lai
 
 Trong kiếp Ưu Ba La họ sẽ
 Thành Phật đại lực na la diên
 Giáo hóa chúng sanh bất khả tư
 Dẫn dắt vào nơi thành Niết bàn
 Lúc chư Đại Thánh ấy thành Phật
 Được danh hiệu Phật rất vi diệu
 Nay ta vì ông nói hiệu ấy
 Đồng trong kiếp ấy đều làm Phật
 Hiệu là Pháp Tràng Phật Như Lai
 Thảy đều cứu độ bất tư nghị
 Na do tha chúng nhập Niết nàn
 Các Như Lai ấy diệt độ rồi
 Đốt thân lưu bố những Xá lợi
 Đem Xá lợi ấy đều xây tháp
 Đầy trong quốc độ như rãi hoa
 Bấy giờ tất cả Phật Xá lợi
 Mỗi mỗi thảy đều lưu bố rộng
 Sau mỗi mỗi Phật ấy nhập diệt
 Thảy đều lợi ích các thế gian
 Bất tư nghị do tha chúng sanh
 Cúng dường Xá lợi Phật ấy rồi
 Sẽ được cam lộ diệu Niết bàn
 Tam thế chư Phật đều tán thán
 
 Nếu ai xưng niệm danh Phật ấy
 Thì được thiện căn thắng vi diệu
 Sẽ được thành tựu đạo hữu học
 Gặp Phật chuyễn được quả thù thắng
 Dường như vô lượng nan tư chúng
 Đều ở chỗ ta trồng căn lành
 Mừng ưa tin thích tâm thanh tịnh
 Sẽ được gặp gỡ Phật Di Lặc
 Chúng Thanh Văn của chư Phật ấy
 Từ Phật ấy đến chỗ chư Phật
 Sẽ được gặp Phật nhập chúng hội
 Đều do cúng dường Xá lợi ấy
 Được nghe lời Phật như vậy rồi
 Tất cả đại chúng sanh hi hữu
 Công đức thắng diệu có oai thần
 Chúng trời Biến Tịnh thanh tín sĩ
 Và hàng đại chúng khắp vui vẻ
 Thảy đều lưu chú hướng Bồ đề
 Được biết Như Lai thế lực lớn
 Thảy đều dảnh lễ chưn Thế Tôn”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33300)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6560)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11307)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30421)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30447)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7996)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12224)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12271)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11621)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12851)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34814)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9860)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52285)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10766)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10540)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10730)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10479)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13097)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16308)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21869)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9637)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7138)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10405)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12782)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12808)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16252)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16549)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13879)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16615)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12141)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13854)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14340)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9225)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11768)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11291)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16354)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14368)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16212)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12703)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12099)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11808)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15689)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11527)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14032)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12026)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12680)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15006)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11976)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13142)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14569)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20745)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13249)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10980)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20734)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14380)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20410)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17677)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14038)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31870)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12030)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant