Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

16-22 Phẩm Quảng Quả Thiên Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 7698)
16-22 Phẩm Quảng Quả Thiên Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Quảng Quả Thiên Thọ Ký
Thứ Hai Mươi Hai


 Bấy giờ có tám ức chúng trời Quảng Quả thấy A Tu La nhẫn đến trời Biến Tịnh cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vừa lòng vui mừng hớn hở nhập mỗi mỗi pháp môn, từ mỗi mỗi pháp môn được vô lượng môn, nơi tất cả pháp môn được vô lượng biện tài, bất đoạn biện tài, tương ưng biện tài , giải thoát biện tài, vô trước biện tài, vô ngại biện tài, vi tế biện tài, thậm thâm biện tài, chủng chủng biện tài, mỹ diệu biện tài, tương tục biện tài. Ở nơi các biện tài thảy đều biết rồi, chúng trời Quảng Quả ấy đối với Như Lai, kính tin tôn trọng mà bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn! Có đà la ni tên Vô Lượng Môn. Nếu có Bồ Tát tu tâp đà la ni vô lượng môn ấy, thì được các biện tài bất đoạn V.V…ấy, ở trong tất cả cảnh giới tâm chẳng mê hoặc. Các cảnh giới ấy không có một pháp nào chẳng phải đà la ni. Lúc đại Bồ Tát được đà la ni ấy, ở trong các pháp đều được đà la ni trí biện tài vô ngại. Lúc đại Bồ Tát an trụ đá la ni vô lượng pháp môn ấy thì nhập nơi ngũ ấm, nhập nơi thập nhị xứ, nhập nơi thập bát giới, nhập nơi các căn, nhập nơi tứ đế , thập nhị nhơn duyên, nhập nơi chúng sanh, nhập nơi phi chúng sanh , nhập nơi hữu, nhập nơi phi hữu, nhập nơi thủ tưởng, nhập nơi phi thủ tưởng, nhập nơi y nơi phi y,nhập nơi không nhập nơi ngã, nhập nơi tướng nơi phi tướng, nhập nơi nguyện nơi phi nguyện, nhập nơi hữu vi nơi vô vi, tất cả xứ như vậy được bất hoại biện tài.

 Đại Bồ Tát ấy nhập trong ngũ ấm được đà la ni. Nghĩa là sắc ấm ấy tức chẳng phải thành tựu, tại sao, vì không có chút sắc pháp được thành tựu, tại sao, vì địa giới tánh chẳng phải thành tựu, thủy giới hỏa giớiphong giới tánh đều chẳng phải thành tựu, tại sa, vì địa giới tánh ly vậy, nếu pháp khôngthể tánh thì gọi là chẳng phải thành tựu, thủy hỏaphong giới tánh tự ly, vì không thể tánh nên chẳng phải thành tựu. Sắc chẳng phải thành tựu như vậy, do vì chẳng phải thành tựu nên chẳng thể nói là quá khứ hiện tạivị lai, tại sao, vì sắc chẳng phải pháp có nên là bất khả đắc. Nếu sắc đã bất sanh tức laé bất diệt, do vì bất sanh diệt nên tức là bất khả thuyét, lại còn có thuyết như vầy, những sắc quá khứ, sắc hiện tại, sắc vị lai, các sắc ấy hòa hiệp gọi là sắc ấm, sắc ấy thể tánh cũng bất khả đắc, nào có quá khứ hiện tại vị lai, thế nên sắc ấm chẳng phải là khả thuyết, thọ tưởng hành và thức cũng như vậy. Vì vậy nhập nơi ấm tức là nhập nơi đà la ni. Do vì nhập đà la ni nên ấm bất khả đắc, vì ấm bất khả đắc nên đà la ni cũng bất khả đắc, do đó mà nhập đà la ni bất khả đắc, chỉ có rieng danh, riêng dụng, riêng giả, chỉ là thế tục, chỉ là ngôn thuyết, chỉ là thi thiết, chẳng phải ấm chẳng sắc, chẳng phải nhập nơi sắc, cũng chẳng đà la ni thể tánh khả đắc. Tại sao ?

 Nghiã là ấm v.v…chă »ng phải là tác pháp, vì chẳng phải tải tác pháp nên không có tích tụ. Do vì tích tụ nên giả gọi là ấm, như thế gian nhiều vật liệu tích tụ lại giả gọi là thành là nhà v.v…Các sắc ấy tánh bất khả đắc, không có tích tụ, vì không tích tụ nên là không sắc , cũng hông sắc ấm. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, tánh bất khả đắc khôngtích tụ, vì không tích tụ nên không thọ tưởng hành thức, cũng không thọ tưởng hành thức ấm. Nhập nơi các ấm ấy phải biết như các ấm.

 Nhập nơi nhãn rồi là ai nhập, nghĩa là khổ nhập. Gì là nhãn ? Đó là thanh tịnh tứ đại tạo nên sắc gọi đó là nhãn. Những gì là tư đại ? Đó là thanh ti(nh địa giới, thủy giới, hỏa giớiphong giới, địa giới ấy tánh tự ly, đã là tánh tự ly thì là pháp thể bất khả đắc, nó là chẳng phải thành tựu. Như vậy thủy hỏaphong giới tánh đều tự ly, vì pháp thể bất khả đắc nên nó chẳng phải thành tựu. Nhãn nhập chẳng phải thành tựu như vậy nên chẳng thể nói là quá khứ hiện tại vị lai. Tại sao ?Vì nhãn nhập chẳng phải là vật. Vì chẳng phải là vật nên chẳng sanh chẳng diệt. Nếu chẳng sanh chẳng diệt tức là bất khả thuyết. Như vậy nhãn chẳng sanh diệt, nhập cũng chẳng sanh diệt, vì chẳng sanh diệt nên cũng bất khả thuyết. Phải hiểu biết như vầy : Chỉ là riêng danh, riêng dụng, riêng giả, chỉ là thế tục, chỉ là ngôn thuyết. Danh ấy và danh thể cũng tư( tánh ly. Tại sao ? Vì không có một pháp gọi là nhãn, gọi là nhập, gọi là khổ. Vì danh bất khả đắc nên nhãn nhập cũng bất khả đắc.

 
 Vì nhãn bất khả đắc nên tức là đà la ni nhập. Đà la ni nhập nầy cũng bất khả đắc, tại sao, vì tánh tự ly vậy, chỉ là danh dụng giả, chỉ là thế tục, ngôn thuyết thi thiết. Vì thế nên do nhãn nhập mà được đà la ni. Được đà la ni rồi thì được biện tài.

 Nên biết nhĩ tỉ thiệt thân ý sắc thanh hương vị xúc pháp cũng đều như vậy.Nhập nơi giới ấy được đà la ni nhãn, nhãn thể bất khả đắc, giới thể bất khả đắc. Tại sao ? Vì nhã ly nhãn tánhvậy, vì giới ly giới tánh vậy. Bởi pháp thể bất khả đắc nên nó chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựu. Chẳng thành tựu thì là chẳng sanh chẳng diệt. Vì chẳng sanh diệt nên nó chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai, chỉ là dan h dụng giả, chỉ là thế tục ngôn thuyết thi thiết. Danh ấy ly danh tự tánh, nhẫn đến thi thiết ly thi thiết tự tánh. Nếu pháp không tự tánh bất khả đắc tức là chẳng phải vật. Đã chẳng phải vật thì chẳng phải thành tựu. Đã chẳng phải thành tựu thì chẳng sanh chẳng diệt. Bởi bất sanh diệt nên chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai. Nếu chẳng nhiếp ở danh ấy tức chẳng phải tướng cũng chẳng phải tưởng, chẳng phải dụng, chẳng phải giả, chẳng phải hữu vi, chẳng phải khả thuyết, chẳng phải lai chẳng phải khứ, chẳng phải được nói cho người, chẳng phải được hiển thị, chẳng phải được biết, chẳng phải được rõ, chẳng phải đen, chẳng phải trắng, chằng phải nhà cửa. Vì ly nhà cửa vậy, vì chẳng phải đến, chẳng phải được đến vậy, vì chẳng phải được, chẳng phải bị được vậy, vì chẳng phải chứng, chẳng phải được chứng vậy, chẳng phải phàm phu cũng chẳng phải phàm phu địa, chẳng phải Thanh Văn cũng chẳng phải Thanh văn địa, chẳng phải Duyên Giác cũng chẳng phải duyên Giác địa, chẳng phải Bồ Tát cũng chẳng phải Bồ Tát địa, chẳng phải Phật cũng chẳng phải Phật địa, chẳng phải địa cũng chẳng phải phi địa, đây tức là chơn như, chẳng dị như, chẳng phải phi như, tịch diệt vô tướng, chỉ riêng dụng riêng giả. Nói rằng Như Lai chỉ riêng vì thế tục nên nói danh Như Lai, chẳng phải đệ nhứt nghĩa mà có Như Lai vậy. Tại sao ? Vì pháp ấy bất khả đắc nên không có Như Lai ở nơi giới ấy mà nhập. Phải nên nhập nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý giới pháp giới ý thức giới như vậy. Tất cả giới khác cũng phải biết như vậy.

 Phải nên rộng nhập pháp giới như vậy.

 
 Bạch Thế Tôn !Pháp giới ấy, lúc nói rằng ấm mà chẳng hư hoại bổn tánh của pháp giới ấy, lúc nói nhập lúc nói giới, lúc nói tứ đế, lúc nói thập nhị nhơn duyên, cũng đều chẳng hoạibổn tánh thể của pháp giới ấy.

 Pháp giới tùy theo chỗ được nói tất cả các pháp kiến lập danh tự, đèu chẳng hoại thể tánh của pháp giới ấy.

 Bạch đức Thế Tôn ! Thi như địa tùy theo chỗ nó ở mà làm danh tự sai khác, nhưng chẳng hư hoại bổn tánh của địa giới ấy. Cũng vậy, pháp giới tùy theo chỗ nó ở làm danh tự sai khác mà chẳng hoại bổn tánh pháp giới. Thi như tủy hỏa phong giới cũng vậy.

 Bạch đức Thế Tôn ! Thí như hư không tùy theo chỗ nó ở có tác dụng sai khác mà chẳng hoại thể tánh hư không. Cũng vậy, pháp giới tùy theo chỗ nó ở có tác dụng danh tự sai biệt mà chẳng hoại thể tánh pháp giới.

 Bạch đức Thế Tôn ! Lúc nhập các căn tức là nhập pháp giới? Nói các căn lá nhãn căn nhĩ căn tỷ căn thiệt căn than căn và ý căn, cùng nam nữ căn mạng căn, lạc căn khổ căn hỉ căn ưu căn xả căn, tín căn tinh tấn căn niệm căn định căn huệ căn, vị tri dục tri căn, tri căn tri dĩ căn.

 Nhãn ấy, nhãn thể bất khả đắc. Căn ấy, căn thể bất khả đắc. Tại sao ?Vì nhãn ấy ly nhãn tự tánh vậy. Đã ly tự tánh thì không pháp thể. Bởi pháp không thể tánh thì nó chẳng phải vật. Bởi chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựu. Bởi chẳng thành tựu nên nó chẳng sanh. Bởi chẳng sanh nên chẳng diệt. Bởi chẳng sanh diệt nên chẳng thể nói nó là quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở trong tam thế chẳng sanh diệt thì nó chẳng phải nhãn cũng chẳng phải nhãn căn thì làm sao có dụng, phải biết như vậy.

 Bạch đức Thế Tôn !Thí như không quyền hư dối không có vật chỉ có danh tự chỉ có ngôn thuyết. Ở trong địa nhứt nghĩa không quyền cũng không có. Nhãn và nhãn căn ấy dường như không quyền hư vọng chẳng phải thiệt mà hiện tướng hư giả dối gạt phàm phu, chỉ có danh tự thi thiết ngôn thuyết, ở trong đệ nhứt nghĩa nhãn và nhãn căn đều bất khả đắc.

 Bạch đức Thế Tôn ! Vì như vậy nên ngườo được Nhứt thiết trí rồi vì độ chúng sanh mà nói tên là căn. Các căn ấy, ở đệ nhứt nghĩatự tánh ly nên căn thể đều không. Vì pháp ấythể kho-ng nên dụng cũng hư vọng chẳng có chẳng thiệt dối gạt phàm phu. Vì ly tự tánh nên chẳng sanh diệt. Vì chẳng sanh diệt nên chẳng được nói nó là quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở trong tam thế không có thié nó không có danh không có tướng, chẳng phải được nói, chẳng phải được vì người khác nói, chẳng phải sanh chẳng phải bị sanh, chẳng phải đã biết sẽ biết, chẳng phải đã nghe sẽ ngh, chẳng phải biết chẳng phải biết chẳng phải bị biết, chẳng phải đã chứng sẽ chứng, chẳng phải đã được sẽ được, chẳng phải đã thấy sẽ thấy, chẳng phải đã đến sẽ đến, tại sao , vì nó chẳng phải có vậy.

 Bạch đức Thế Tôn ! Thí như có người chiêm bao được vui mừng cười nói mớ đi chơi, người ấy sau khi thức dậy ghi nhớ sự vui chơi trong mộng mà tìm chẳng thấy chẳng được. Người ấy đương lúc chiêm bao sự vui chơi ấy còn chẳng có thiệt huống là lúc thức dậy, không bao giờ cảnh mộng ấy lại hoặc thấy hoặc được.

 Bạch đức Thế Tôn ! Các căn như vậy giống cảnh vui chơi trong mộng thiệt bất khả đắc. Vì thế nên tất cả các pháp thể tánh đều bất khả đắc. Vì là bất khả đắc nên chẳng thể nói là quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở nơi tam thế thế bất khả đắc thì nó chẳng thể nói được. Với tất cả các căn phải biết như vậy.

 Bạch đức Thế Tôn nhập pháp giới là nhập tất cả pháp, nhập tất cả pháp là nhập pháp giới.
 Bạch đức Thế Tôn !Nhập pháp tứ đếnhập pháp giới. NHững gì là tứ đế ? Đó là khổ tập diệt đạo.

 Đức Thế Tôn cũng nói tất cả các pháp thảy đều là không, chẳng phải chúng sanh , chẳng phải mạng, chẳng phải nhơn, chẳng phải tưởng, chẳng phải tướng. Chúng tôi ở nơi pháp ấy chăẳng có nghi lự.

 Bạch đức Thế Tôn ! Vì không chúng sanh nên cũng không có khổ. Tại sao ? Vì chúng sanh không nên khổ đế cũng không. Tại sao ?Vì không có nhơn như vậy nên không có quả như vậy. Vì không có tập nên diệt đế cũng không. Tại sao ? Vì không có đạo mà chẳng đoạn tập vậy. Bạch đức Thế Tôn ! Đạo quả ấy là diệt đế. Phiền não tập kia bất khả đắc nên đoạn phiền não diệt cũng bất khả đắc. Do diệt bất khả đắc nên đạo cũng bất khả đắc. Không khi nào có đạo như vậy mà không có quả của nó. Bốn thánh đế ấy chỉ là phân biệt hư vông chẳng phải có. Bởi chẳng phải có nên chẳng thể nói được là quá khứ hiện tại vị lai.Nếu ở trong tam thế bất khả đắc thì nó chẳng phải sanh chẳng phải diệt, chẳng phải tướng chẳng phải tưởng, chẳng phải sắp bày chẳng phải bị sắp bày, chẳng phải nêu chỉ chẳng phải bị nêu chỉ, chẳng phải hiển hiện chẳng phải bị hiển hiện, chẳng phải ngũ ngôn chẳng phải bị ngũ ngôn, chẳng phải ngôn từ chẳng phải bị ngôn từ; chẳng no&i chẳng phải bị nói; chẳng phải thấy chẳng phải bị thấy, chẳng phải biết chă”ng phải bị biết, chẳng phải rõ chẵng phải bị rõ, chẳng phải lường chẳng phải bị lường, chẳng phải thấu chẳng bị thấu, chẳng phải đến chẳng phải bị đến, chẳng phải được chẳng phải bị được, chẳng phải nghe chẳng phải bị nghe, chẳng phải thấy chẳng phải bị thấy, chẳng phải đối chẳng phải bị đối, chẳng phải chứng chẳng phải bị chứng, chẳng phải trắng chẳng phải đen, chẳng phải sáng chẳng phải tối, chẳng phải đến chẳng phải đi, chẳng phải cạn chẳng phải sâu, chảng phải trong chẳng phải đục, chẳng phải sợ chẳng phải an.chẳng phải trói chẳng phải mở, chẳng phải ghét chẳng phải thương, chẳng phải phiền não chẳng phải thanh tịnh, chẳng phải trí chẳng phải chẳng trí, chẳng phải đường sá chẳng phải chẳng đường sá, chẳng phải hoại chẳng phải chẳng hoại, chẳng phải nhiếp thọ chẳng phải chẳng nhiếp thọ, chẳng phải sanh tử chẳng phải chẳng sanh tử, chẳng phải được chẳng phải chẳng được, chẳng phải chúng sanh chẳng phải chẳng chúng sanh, chẳng phải thọ mạng chẳng phải chẳng thọ mạng, chẳng phải ngã chẳng phải chẳng ngã, chẳng phải vật chẳng phải chẳng vật, chẳng phải không chẳng phải chẳng không, chẳng phải tướng chẳng phải chẳng tướng,, chẳng phải nguyện chẳng phải chẳng nguyện, chẳng phải y chẳng phải chẳng y, chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi, chẳng phải đoạn chẳng phải thường, chẳng phải tà chẳng phải chánh, chẳng phải thiệt chẳng phải vọng, chẳng phải vọng tưởng chẳng phải chẳng vọng tưởng, chẳng phải xứ chẳng phải chẳng xứ, chẳng phải nhà chẳng phải chẳng nhà, chẳng phải trí chẳng phải chẳng trí, chẳng phải xả chẳng phải tu, chẳng phải sanh tử chẳng phải Niết bàn, chẳng phải giác chẳng phải chẳng giác, chẳng phải cảnh giới phàm phu chẳng phải cảnh giới Thanh Văn chẳng phải cảnh giới duyên giác chẳng phải cảnh giới Bồ Tát chẳng phải cảnh giới Phật, chẳng phải cảnh giới chẳng phải chẳng cảnh giới, chẳng phải tác chẳng phải bất tác. Nhập vào đế như vậy tức lànhập vào pháp giới. Nhập pháp giới rồi thì được đà la ni. Được đà la ni rồi thì được biện tài. Nhập vào mười hai nhơn duyên tức lá nhập vào pháp giới. Vô minh duyên hành hành duyên thức thức duyên danh sắc duyên sắc duyên lục nhập lục nhập duyên xúc xúc duyên thọ thọ duyên ái ái duyên thủ thủ duyên hữu hữu duyên sanh sanh duyên lão tutủ ưu bi khổ não, khối lớn nhiều khổ lớn như vậy. Vô minh diệt thì hành diệt nhẫn đến sanh diệt thì lão tử ưu bi khổ não diệt, khối lớn nhiều khổ diệt.

 Bạch đức Thế Tôn ! Vô minh ấy, vô minh thể bất khả đắc, tại sao, vì tánh tự ly. Nếu pháp khôngthể tánh thì nó chẳng phải vật. Vì chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựuBởi chẳng phải thành tựu nên chẳng phải sanh chẳng phải diệt. Bởi chẳng sanh diệt nên chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai. nếu ở trong tam thế bất khả đắc thì kho-ng có danh không có hình không tướng không tưởng cũng chẳng sai biệt. Chỉ là riêng danh riêng giả riêng dụng, chỉ là thế tục chỉ là ngôn thuyết, vì giáo hóa tất cả phàm phu chúng sanh. Vô minh ấy ở trong đệ nhứt nghĩa thiệt bất khả đắc. Bởi bất khả đắc nên chẳng phải dụng sai biệt cũng chẳng thể nói được

 Bạch đức Thế Tôn ! Nếu chỉ là chỉ riêng danh nhẫn đến chỉ riêng thi thiết thì nó chẳng phải thiệt chỉ là hư vọng ngôn thuyết phân biệt, giác quán chẳng phải định chỉ lá hí luận. Vô minh ấy nếu khôngtự tánh thì làm sao sanh được hành. Vì vô minh đã không nên hành cũng chẳng sanh, bởi chẳng sanh nên nó tức là bất lão bất bịnh bất tử, chẳng lưu chuyển tức là bất sanh. Nếu chẳng sanh thì làm sao có lão tử. Nếu chẳng sanh chẳng tử tức là chư Phật Bồ đề quá khứ hiện tại vị lai chỉ là thế tục danh tự chẳng phải đệ nhứt nghĩa. Nói rằng vô minh đó tức là Bồ đề, các chỉ kia cũng vậy. Nhập mười hai nhơn duyên như vậy phải biết tức là nhập nơi pháp giới.

 Bạch đức Thế Tôn ! Như Lai bất sanh tất cả pháp cũng bất sanh , vì thế tất cả pháp tức là Như Lai. Như Lai bất diệt tất cả pháp cũng bất diệt, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai , Như Lai vô tướng tất cả pháp cũng vô tướng, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai.

 Nói tóm lược, vô tướng bất khả đắc như vậy chẳng phải cấu chẳng phải tịnh, chẳng phải yêu chẳng phải ghét, pháp giới chẳng thể rõ cũng chẳng thể biết.

 Bạch đức Thế Tôn ! Chơn như tức là Như Lai, tất cả các pháp tức là chơn như, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai

 Bạch đức Thế Tôn ! Thiệt tế tức là Như Lai, tất cả pháp tức là thiệt tế, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai.

 Bạch đức Thế Tôn ! Tùy trong pháp nào tức là có Như lai, trong pháp ấy tức là có tất cả pháp, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai.

 Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có người nói Như Lai được Vô thượng Bồ đề, người ấy là có kiến chấp. Tại sao ? Vì Như Lai bất nhị, Bồ đề cũng bất nhị, bất nhị ấy chẳng có thể giác ngộ bất nhị vậy.

 Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có người nói Như Lai chuyễn pháp luân vô thượng, người ấy là có kiến chấp. Tại sao ? Vì Như Lai chẳng phải tiến thối vậy.

 
 Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người,nói Như Lai độ vô lượng chúng sanh, người ấy là có chấp kiến. Tại sao ? Vì tất cả pháp thiệt không có chúng sanh nên không có ai được diệt độ vậy.

 Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người nói rằng Như Lai lợi ích vô lượng chúng sanh, người ấy là có kiến chấp. Tại sao ? Vì Như Lai chẳng vì lợi ích hay chẳng lợi ích chúng sanhxuất thế vậy.

 Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có chúng sanh ở đời vị lai nói rằng Như Lai xả bỏ thọ mạng, chúng sanh ấy là có chấp kiến. Tại sao ? Vì pháp giới không có nhiếp thọ cũng không có xả bỏ vậy.

 Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người nói Như Lai nhập vô dư Niết bàn, người ấy là có chấp kiến. Tại sao ? Vì pháp giới không có sanh tử cũng không có Niết bàn vậy.

 Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người ở nơi pháp của tôi nói mà có thể quyết định biết, người ấy chẳng còn thối chuyễn nơi Vô thượng Bồ đề.

 Bạch đức Thế Tôn ! Giả sử pháp giới có biến khác, các thiện nam tử thiện nữ nhơn có thể tin như vậy, tất định sẽ giác ngộ Vô thượng Bồ đề không có biến đổi ».

 Tám ức chúng trời Quảng Quả ở nơi Thế Tôn diễn nói pháp của mình được chứng rồi đầu mặt lễ chưn Phật, nhiễu Phật ba vòng đứng qua một phía chắp tay đồng thanh nói kệ tán thán đức Phật :

 « Kính lễ Thiện Thệ đấng biết pháp
 Đại Đạo Sư na la diên lực
 Thắng Mâu Ni thương yêu tất cả
 Phương tiện thị hiện nơi chơn thiệt
 Đã tự biết rõ tất cả pháp
 Như thiệt hiển thị các thế gian
 Cúi lạy thân vô lượng công đức
 Vô Thượng Sĩ trí huệ tối thắng
 Pháp vi diệu chơn thiệt như vậy
 Phật nói tương ưng không có khác
 Thế Tôn đại Y Vương vô thượng
 Khiến chúng sanh pháp nhãn thanh tịnh
 Khai diễn tám thứ đường chơn chánh
 Vì được đại Bồ đề Vô thượng
 Quy kính thân vô lượng công đức
 
 Vô Thượng Sĩ trí huệ tối thắng
 Hiễn thị Bồ đề đạo chánh chơn
 Quyết định xu hướng đại Niết Bàn
 Chứng được Vô thượng thắng Bồ đề
 Tịch diệt an ổn rất kiên cố
 Độ thoát nhiều ức na do tha
 Chúng sanh luân hồi khổ sanh tử
 Đãnh lễ thân vô lượng công đức
 Vô Thượng Sĩ trí huệ tối thắng
 Quan sát ngũ ấm đều không vô
 Ấm thể rốt ráo bất khả đắc
 Ấm ấy tức thể ly chẳng có
 Chỉ gạt những chúng sanh phàm ngu
 Thế gian nơi đây bị trói buộc
 Như khỉ vượn kia bị dính nhựa
 Người trí nơi đây được giải thoát
 Du hành không ngại như gió trống
 Các giới tức thể tánh tự không
 Tất cả người trí nói như vậy
 Không ấy cũng không có tự tánh
 Cứu cánh cầu nó bất khả đắc
 Phàm phu nơi đây đều bị trói
 Do vì chẳng biết tánh chơn thiệt
 
 Người trí quán sát được giải thoát
 Nơi tam giới kia vô sở trước
 Các nhập không thể tự không tịch
 Tất cả người trí nói như vậy
 Như nắm tay không giả chẳng thiệt
 Dối gạt hàng chúng sanh ngu tối
 Phàm phu vọng sanh lòng thủ trước
 Đều do nơi pháp sanh nghi hoặc
 Trụy lạc sanh tử bị tán hoại
 Như các nhà buôn chìm biển lớn
 Các căn ấy tự nó tự không
 Cứu cánh suy tìm bất khả đắc
 Ví như trong gương hiện mặt mắt
 Tượng ấy không thiệt cứu cánh không
 Phàm phu vô trí chấp tượng ấy
 Chánh vì chẳng biết pháp chơn thiệt
 Dường như bầy chim vào lưới bẫy
 Cũng như trong vực cá mắc câu
 Chúng sanh không thể lìa tướng sanh
 Chơn thiệt tìm cầu bất khả đắc
 Ví như trên vách vẽ hình tượng
 Cứu cánh không tướng chúng sanh thiệt
 Phàm phu vô trí nên thử trước
 
 Đều do chẳng biết nghĩa chơn thiệt
 Người trí quan sát được giải thoát
 Ví như chim sanh ra khỏi vỏ
 Nhơn duyên sanh pháp đều vô thường
 Tất cả không tịch lìa phan duyên
 Ví như trong mộng hưởng thọ vui
 Hư dối gạt gẫm phàm phu
 Ngu si vô trí bị nó trói
 Do chẳng tư lương vọng phân biệt
 Người trí quan sát được giải thoát
 Như các chim khôn thoát lồng lưới
 Như Phật công đức bất tư nghị
 Tất cả các pháp cũng như vậy
 Các pháp vô tướng như Mâu Ni
 Pháp thể tịch diệt như Niết bàn
 Các pháp vô y như Như Lai
 Nơi tam giới kia chẳng thủ trước
 Vì thế tất cả người thành Phật
 Đều do được biết nghĩa nầy vậy
 Các pháp vô bố như Thế Tôn
 Chẳng khởi tưởng thân mình thân người
 Các pháp nannhư Đạo
 Chỉ Phật biết được dắt quần sanh
 
 Pháp vô phân biệt như Thiện Thệ
 Chẳng phải tâm cảnh của phàm phu
 Là diệu cảnh giới của Như Lai
 Chỉ Phật Đại Thánh biết rõ được
 Nếu có vô trí nói thế này
 Phật chứng Vô thượng đại Bồ đề
 Nếu lại có người nói như vầy
 Thế Tôn đã chuyễn diệu pháp luân
 Nếu lại có người nhận định rằng
 Thiện Thệ đã độ vô lượng chúng
 Họ đều bị kiến chấp trói buộc
 Vì họ chẳng biết tánh chơn thiệt
 Nếu người bảo Phật nói lời nầy
 Sát hại hành ấm và cùng mạng
 Hoặc nói Thập Lực nhập Niết bàn
 Đã lợi ích vô lượng chúng sanh
 Tất cả người ấy đều chấp kiến
 Bị trói chặt trong rọ của ma
 Chẳng hiểu biết được pháp chơn như
 Vì chẳng biết nên chẳng biết Phật
 Nếu người khéo biết phải chẳng phải
 Họ biết rõ được Đại Đạo Sư
 Sẽ được khối vô lượng công đức
 
 Thành Phật thương xót các thế gian
 Đây là chơn như không biến đổi
 Tất cả các pháp lìa nghi hoặc
 Đấng thắng vô thượng trong Trời Người
 Chúng tôi đã biết nghĩa như vậy
 Tám ức chúng trời Quảng Quả nầy
 Nơi pháp thảy đều được biết hết
 Đối Phật Đạo Sư tự diễn nói
 Hiện nội tâm mình tin hiểu rồi
 Tất cả mừng vui không nghi lự
 Đều tự thấy mình sẽ thành Phật
 Đây là diệu pháp của Như Lai
 Họ tự nhận lãnh Phật thọ ký ».

 Đức Thế Tôn biết chúng trời Quảng Quả có đủ thâm tín, ở trong Phật pháp quyết định không nghi, vì muốn đại chúng trồng căn lành nên hiện mỉm cười.

 Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch đức Phật

 « Đạo sư trí huệ núi công đức
 Chẳng phải không nhơn mà mỉm cười
 Tôi từng nơi Phật thân tự nghe
 Thế Tôn mỉm cười tất có cớ
 Như Lai hiện tướng mỉm cười ấy 
 Khiến chúng đều thọ vui thanh tịnh
 Trời Người Tu La đại Đạo Sư
 Ngưỡng mong diễn nói nhơn duyên cười
 Nay thấy Như Lai từ nơi miệng
 Hiện tướng mỉm cười rất thanh lương
 Các chúng hội đây đều hoài nghi
 Nhứt tâm chiêm ngưỡng mặt Như Lai
 Đại bi tối thắng Thiên Nhơn Sư
 Xin nói cớ cười rất hi hữu
 Thế gian nếu được nghe Phật nói
 Quyết định trừ hết lòng nghi hoặc
 Tám ức chúng trời Quảng Quả ấy
 Thảy đều diễn nói tự thọ ký
 Do công đức gì được quả gì
 Xin nói thành Phật sự thần thông
 Khai diễn phạm âm rất vi diệu
 Để khắp trừ dứt chúng sanh nghi
 Tất cả đại chúng nghe Phật nói
 Thảy đều hớn hở rất vui mừng
 Đại chúng chắp tay đều nhứt tâm
 Tịnh tín chiêm ngưỡng cung kính đứng
 Chúng trời Phật tử đều tư duy
 Mong cầu Vô thượng đại Bồ đề
 Các chúng hội đây có nghi hoặc
 Xin đức Như Lai trừ dứt cho
 Chắc sẽ được trí biết phải chẳng
 Đầy đủ thành tựu Nhứt thiết trí
 Được nghe Như Lai tiếng tám đức
 Chúng trời không ai chẳng vui mừng
 Sẽ được hộ trì Như Lai giáo
 Tùy thuận chánh pháp như thuyết hành
 Quan sát biết lòng chúng trời rồi
 Đại trí Vô thượng nguyện giải nói
 Do đó đại chúng lòng mừng vui
 Ở trong Phật pháp được tin hiểu
 Nay nơi Đạo Sư nguyện được nghe
 Chúng trời quá khứtu hành
 Nếu nhờ Như Lai giải nói rồi
 Sở nguyện thảy đều được đầy đủ
 Chúng trời Quảng Quả như pháp hành
 Chắc được thành tựu Nhứt thiết trí
 Sẽ độ thế gian các chúng sanh
 Hiển thị thể tánh pháp chơn như ».

 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng :

 « Lành thay Mã Thắng khéo biết giờ
 Nay ông hỏi Phật thiệt đúng lúc
 Phật vì chúng trời Quảng Quả ấy
 Ở trước đại chúng hiện mỉm cười
 Nay sẽ vì ông phân biệt nói
 Đều phải nhứt tâm cùng lắng nghe
 Nghĩa nhơn duyên của tướng mỉm cười
 Ông và đại chúng sẽ được rõ
 Như Lai đầy đủ Nhứt thiết trí
 Quan sát nhơn duyên có ba thứ
 Lưỡng Túc Thế Tôn chánh quán rồi
 Liền hiện mỉm cười thị thế gian
 Có ngươéi thích ở nơi Niết bàn
 Ít trí cạn nhỏ cầu Thanh Văn
 Lại có người thích ở yên lặng
 Chỉ cầu Bồ đề Bích Chi Phật
 Lại có thích cầu đại Đạo Sư
 Thành Phật đại lực na la diên
 Phật thấy chúng ấy thâm tín rồi
 Tùy họ sở nguyệnđộ thoát
 Vì cầu Thanh Vănthị hiện
 Phải biết là tướng cười tối hạ
 Phải nên biết Phật trung phẩm cười
 Vì người Bích Chi mà thị hiện
 Ông phải biết cười thượng phẩm đây
 Vì chúng trời nầy thọ ký Phật
 Phật giải nói ba nhơn duyên cười
 Đó là tối hạ và trung thượng
 Khéo hiểu thế gian thắng Đạo Sư
 Thị hiện mỉm cười hiển thoại tướng
 Phật biết chúng sanh muốn ba thừa
 Nguyện ưa cầu chứng ba thánh quả
 Vì cầu Thanh Văn mà hiện cười
 Tia sáng mỉm cười vào nơi chưn
 Vì cầu Bích Chi Phật thị hiện
 Phải biết sáng cười nhập vào rún
 Vì thọ ký Vô thượng Bồ đề
 Tia sáng cười nhập vào đảnh Phật
 Mã Thắng nầy Ông nên ghi rõ
 Nhơn duyên mỉm cười có ba thứ
 Vừa rồi Phật hiện tướng sáng cười
 Sáng ấy nhập vào đảnh của Phật
 Phải biết mỉm cười hiện sáng ấy
 Đều vì thọ ký Vô Thượng Giác
 Nay Phật sẽ lại vì ông nói
 Mỉm cười lại có ba nhơn duyên
 Lành thay Mã Thắngđại chúng
 Một lòng lặng ý đều lắng nghe
 Hiện tiền mỉm cười vì cầu Phật
 Tia sáng phóng ra nhập vào đảnh
 Tia sáng có lúc dừng ngang lưng
 Giây lát mất là vì Duyên Giác
 Phật hiện mỉm cười phóng tia sáng
 Tạm thời dừng ở nơi chưn Phật
 Sáng ấy theo thừa mà biến hiện
 Phải biết là vì người Thanh Văn
 Nay Phật lại nói cớ mỉm cười
 Mã Thắng nghe kỹ có ba thứ
 Đạo Sư phóng ra các tia sáng
 Ra rồi vòng quanh nơi mình Phật
 Tia sáng ra rồi đều rẽ thưa
 Trở lại tụ mau quanh lưng Phật
 Lần lần trở lại thêm lớn rộng
 Cũng lại vòng quanh bên hữu Phật
 Có sáng đầu dừng sau rộng lớn
 Lần lần hữu nhiễu quanh thân Phật
 Sáng ấy đều khắp hết thân Phật
 Cùng đồng với thân không sai khác
 Sáng ấy trang nghiêm thân tướng Phật
 Rực rỡ dường như khối hoàng kim
 Mâu Ni phóng sáng từ miệng cười
 Phải biết sáng ấy ký quốc độ
 Có sáng phóng ra như lọng báu
 Che khắp trên thân đức Thế Tôn
 Có sáng như hoa ở hư không
 Sáng ấy chói rỡ thân Đạo Sư
 Sáng ấy tất cả đều hữu triền
 Ba vòng quanh ngoài thân Nhu Lai
 Phải biết sáng áy ký thọ mạng
 Xuất thế đại trí hiện thoại tướng
 Ba thứ mỉm cười phóng sáng áy
 Thiện Thệ theo căn hiện sai khác
 Nay đây Mã Thắng cần nên biết
 Đó là ba thứ nhơn mỉm cười
 Thế gian Đạo Sư hiện thoại tướng
 Khéo biết chúng sanh sâu tin thích
 Nay ở trong pháp của Như Lai
 Các ông nghe đây được trừ nghi
 Tám ức chúng trời Quảng Quả đây
 Hiện tiền trước Phật sâu kính tin
 Nói rộng chánh pháp môn vi diệu
 Đều riêng cõi khác được thành Phật
 Thọ mạng đầy đủ lâu vô lượng
 Trải do tha kiếp trụ thế gian
 Thế nên Như Lai hiện thoại tướng
 Ánh sáng rộng lớn đủ năm màu
 Chúng trời Quảng Quả thuở quá khứ
 Ba mươi sáu a tăng kỳ kiếp
 Thường được gặp gỡ chư Thế Tôn
 Thân thừa cúng dường tu pháp lành
 Lại trãi thời gian ba mươi sáu
 A tăng kỳ kiếp rộng tu hành
 Chư Đại Sĩ này trụ thế gian
 Cúng dường Như Lai chưa từng mỏi
 Vì tư duy cứu độ các chúng sanh
 Nên luôn siêng tu cúng dường Phật
 Cúng dường Thế Ttôn đúng pháp nghi
 Mong cầu Vô thượng đại Bồ đề
 Chúng trời Quảng Quả đời vị lai
 Sẽ làm được Phật na la diên
 Thành hiệu Mâu Ni núi công đức
 Kiếp ấy hiệu là Thắng Kim Tràng
 Chư Như Lai ấy đều riêng ở
 Trong quốc độ trang nghiêm thanh tịnh
 Phật ấy đồng hiệu Nhựt Quang Luân
 Đầy đủ vô lượng khối công đức
 Mỗi mỗi Như Lai đều trụ thế
 Lâu đến vô lượng do tha kiếp
 Chư Thiện Thệ ấy họp chúng hội
 Vô lượng vô biên chẳng đếm được
 Lúc mỗi mỗi Đạo Sư thành Phật
 Chỗ có hàng đệ tử Thanh Văn
 Dầu Phật ở trong do tha kiếp
 Tính đếm số ấy củng chẳng hết
 Nếu tất cả toán sư cùng họp
 Cũng tính chẳng hết số chúng ấy
 Thuở ấy chỗ có chư Bồ Tát
 Số đông gấp bội chúng Thanh Văn
 Thảy đều phát tâmPhật thừa
 Nguyện sẽ thành Nhứt thiết trí
 Ở trong quốc độ thanh tịnh ấy
 Đều sẽ được thành Phật thập lực
 Chư Bồ Tát ấy chỗ tu hành
 Đồng như Bỗn Sư không sai khác
 Chư Như Lai ấy diệt độ rồi
 Chánh pháp hưng thạnh ở đời lâu
 Trải đến mười hai na do kiếp
 Được chư Phật tử siêng hộ trì
 Lúc pháp chư Phật ấy hưng thạnh
 Kẽ phát tâm vô thượng Bồ đề
 Số ấy nhiều hơn cát sông Hằng
 Thảy đều siêng tu Bồ Tát hạnh
 Chư Thiện Thệ ấy diệt độ rồi
 Chỗ có tất cả chúng Thanh Văn
 Chúng ấy thảy đều được Niết bàn
 Nhiều hơn số cát nơi đại hải
 Chánh pháp của chư Thế Tôn ấy
 Đầy đủ hưng thạnh nơi Thế gian
 Lợi ích vô lượng các chúng sanh
 Giáo pháp Phật ấy rất hưnh thạnh
 Nghe Phật giải nói như vậy rồi
 Tất cả đại chúng đều tin hiểu
 Quyết sẽ được thành Phật Thế Tôn
 Rộng làm lợi ích các quần sanh
 Bấy giờ chúng hội đều mừng vui
 Đầu mặt lễ lạy chưn Như Lai
 Cung kính vô lượng nơi Thiện Thệ
 Đúng pháp cúng dường Thiên Nhơn Sư
 Thế nên hớn hở phát tinh tấn
 Dường như cứu đầu đang bi cháy
 Thường phải thân cận thiện tri thức
 Siêng tu Bát Nhã Ba la mật
 Đây là hạnh thắng tấn thấy thiệt
 Tỳ Kheo các ôg phải tu tập
 Sẽ thành Vô thượng Lưỡng Túc Tôn
 Công đức như núi lợi thế gian ».
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11532)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11247)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11975)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12454)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17861)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9851)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10103)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14210)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11997)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15179)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11880)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 11999)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12465)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13044)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14692)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12559)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16414)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19474)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13018)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11722)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10806)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13405)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11746)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11518)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12660)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12520)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15548)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13501)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12777)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17881)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11051)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12090)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12089)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16509)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14061)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24414)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10586)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant