Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

16-24 Phẩm Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca Ngoại Đạo

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 7868)
16-24 Phẩm Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca Ngoại Đạo
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca Ngoại Đạo
Thứ Hai Mươi Bốn


 Bấy giờ có tám ngàn người ngoại đạo Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca thấy A Tu La nhẫn đến Tịnh Cư Thiên cúng dường được thọ ký, và nghe tiếng tán thán, họ sanh lòng hi hữu. Họ nghe pháp môn ấy, pháp mà họ chưa hề được nghe, họ sanh nghi tự bạch đức Phật rằng : « Thưa Cù Đàm ! Chúng tôi nghe pháp mà từ trước chưa được nghe, nghe xong chúng tôi không thích Giá La Ca Ba Lợi Bà la Xà Ca ngoại đạo, cũng chẳng thích tại gia. Ở nơi pháp nầy, chúng tôi lại nghĩ lự chẳng kính tin, do vì từ trước chưa hề được nghe. Chúng tôi ở chỗ Cù Đàm Sa Môn cũng có nhơn duyên, do nơi Cù Đàm làm thần thông biến hóa như vậy, chúng tôi được thấy chư Thiên chư Thần được thân vi diệu, và thấy đại chúng qui phục Cù Đàm rất đông , nên biết vì Cù Đàm rất khéo thuyết pháp. Do đó ở nơi Cù Đàm chúng tôi có chút lòng tin.

 Cù Đàm lại vì chúng trời Quảng Quả nói pháp rằng : « Tất cả pháp là Như Lai ». Nơi pháp thuyết ấy chúng tôi rất nghi lự : thế nào tất cả pháp gọi là Như Lai ?

 Chúng tôi ở nơi Cù Đàm sanh lòng tin như vậy : chỉ có Cù Đàm biết được ý chúng tôi như vậy như vậy. Xin Cù Đàmchúng tôi mà giải nói cho chúng tôi hiểu nghĩa của pháp ngữ ấy hầu được lìa lưới nghi ’’.

 Đức Thế Tôn bảo chúng ấy rằng : “ Nay Phật hỏi lại các ông, tùy ý các ông đáp ”.

 Chúng ngoại đạo thưa : “ Lành thay Cù Đàm ! Ngài có hỏi chúng tôi xin nói ”.

 Đức Thế Tôn hỏi: “ Các ông có biết thế nào thai nhập bụng mẹ chăng? ”.

 - Thưa Cù Đàm ! trong luận của phái tôi có nói ba thứ nhơn duyên hòa hiệp thai nhập bụng mẹ. Đó là cha mẹ gần nhau sanh tham nhiễm nghĩ đến sự dục, do nghĩ mà hành dục nên thai nhập mà thành thai
 
 Nầy các ông ! Theo ý các ông thế nào, lúc cha mẹ nghĩ tưởng, tham nhiễm ấy có phải từ nơi tâm mẹ mà phát khởi chăng ?
 - Thưa Cù Đàm ! không phải.
 - Nầy các ông ! Có phải từ mẹ nghĩ tưởng sanh khởi chăng ?
 - Thưa Cù Đàm ! Không phải.
 - Nầy các ông ! Có phải từ nơi tâm cha phát khởi chăng ?
 - Thưa Cù Đàm ! Không phải.
 - Nầy các ông ! Có phải từ cha nghĩ tưởng sanh khởi chăng ?
 - Thưa Cù Đàm ! Không phải.
 - Nầy các ông !Tham dục ấy của cha có vào bụng mẹ chăng ?
 - Thưa Cù Đàm ! Không phải.
 - Nầy các ông ! Tâm người cha có vào bụng mẹ chăng ?
 - Thưa Cù Đàm !Không phải.
 - Nầy các ông ! Sự phân biệt của cha có vào bụng mẹ chăng ?
 - Thưa Cù Đàm ! Không phải.
 - Nầy các ông ! Thai ấy có phải từ thân trời chết rồi xuống vào bụng mẹ chăng ?
 
 Thưa Cù Đàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
 - Nầy các ông ! Thai ấy có phải từ thân địa ngục chết rồi đến vào bụng mẹ chăng ?
 - Thưa Cù Đàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
 - Nầy các ông ! Thai ấy có phải từ súc sanh chết rồi đến vào bụng mẹ chăng ?
 - Thưa Cù Đàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
 - Nầy các ông ! Thai ấy có phải từ ngạ quỉ chết rồi đến vào bụng me chăng ?
 - Thưa Cù Đàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
 - Nầy các ông ! Thai ấy có phải từ thân A Tu La chết rồi đến vào bụng mẹ chăng?
 - Thưa Cù Đàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
 - Nầy các ông ! Thai ấy có phải là phi sắc đến vào bụng mẹ chăng ?
 - Thưa Cù Đàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
 - Nầy các ông ! Thai ấy có phải là sắc đến vào bụng mẹ chăng ?
 - Thưa Cù Đàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
 - Nầy các ông ! Thai ấy có phải là thọ tưởng hành và thức đến vào bụng mẹ chăng ?
 - Thưa Cù Đàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
 Đức Thế Tôn bảo chúng ngoại đạo : “ Nầy các ông ! Pháp ấy thậm thâm tịch diệt vi diệu
 
 Khó lường, khó hiển thị được, chẳng phải cảnh giới tư lương, chẳng phải các ông biết được. Các phái ngoại đạo dị kiến dị nhẫn, ưa muốn dị chủng. Nơi pháp chẳng chánh thì tinh tấn tu hành, nơi trong dị kiến thì quyết định xu hướng.
 - Nầy các ông ! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn gặp được thiện tri thức thì ở trong pháp thậm thâm sanh được mắt sáng tỏ.
 Ví như có người đau mắt lòa tối gặp được lương y chữa lành, họ do nơi mắt lành sáng ấy mà hiện đời được thấy những hình sắc từ trước chưa hề thấy.

 Cũng vậy, nầy các ông ! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn chẳng có đủ các căn tính v.v…, họ gặp thiện tri thức nên huệ nhãn thanh tịnh, do huệ nhãn nên thấy được thâm pháp.

 Hàng ngoại đạo các ông từ đêm dài xa xưa bị tà luận dối phỉnh mà sanh dị kiến, ở nơi phi pháp lại cho là thiện pháp, nơi phi giải thoát lại cho là giải thoát, nơi phi xuất thế lại cho là xuất thế.

 Thấy các ông tự hư hỏng lại làm các ông hư hỏng. Như có người mù bảo người mù khác rằng tôi dẫn anh đi. Người có trí nên biết hai người mù ấy chắc sẽ trụy lạc nơi phi đạo mà bị khổ.
 Cũng vậy, nầy các ông ! Hoặc Sa Môn, hoặc Bà La Môn thiệt chẳng phải Đạo Sư mà tự xưng Đạo Sư, thiệt chẳng phải chánh giác mà tự xưng chánh giác, thiệt chẳng biết đạo xuất thế mà tự xưng là biết, thiệt chẳng thấy đạo xuất thế mà tự xưng là thấy, thiệt chẳng biết chỗ cạn qua mà tự xưng là biết, thiệt chẳng phải giáo sư mà tự xưng là giáo sư, điều họ dạy bảotà giáo, là tá giác, là tà xuất, là tà đạo, chẳng biết chỗ cạn tự xưng là biết rồi đưa người , người được đưa qua trở lại càng khốn khổ hơn.

 Nầy các ông ! Ví như kẻ chăn bò chẳng biết chỗ cạn lùa bầy bò xuống nước, đưa đến chỗ nước sâu giữa dòng bị khốn không ai cứu hộ. Đó là do kẻ chăn bò chẳng biết chỗ nước cạn vậy.

 Cũng vậy, Hàng ngoại đạo các ông chẳng phải Đạo Sư mà tưởng mình là Đạo Sư, người được độ trở lại bị khốn khổ.

 Nầy các ông ! Phật là Đạo Sư thiệt có khả năng hóa đạo, người được hóa độ đều chánh được độ. Phật là chánh giác lời nói chẳng hư, người được Phật giác ngộ đều được chánh ngộ. Phật là năng xuất lời nói chẳng hư, người được dạy xuất thì được chánh xuất. Phật thấy đạo dạy đường chánh cho người. Phật biết chỗ cạn lời nói chẳng hư , người được Phật độ thì được chánh độ. Phật biết pháp giáo hóa hay giáo hóa người. Phật biết Phật pháp hay giác ngộ người. Phật biết pháp xuất khiến người được xuất. Do vì Phật chánh kiến nên hay chánh chỉ bảo người. Phật biết chỗ độ qua được nên hay độ người, người được dắt qua đều được đường tốt.

 Ngoại đạo các ông, người ưa giải thoát. Phật là Đạo Sư nay ở trước các ông đây, các ông nên đến. Phật là chánh ngộ hiểu rõ pháp xuất ly, khéo thấy đạo xuất ly nên làm chỗ cạn qua.

 Các ông nhứt tâm lắng nghe kỹ khéo suy nghĩ đều sanh ưa muốn chánh niệm hiện tiền tâm sẽ lưu chú phát cần tinh tấn, vì chưa chứng pháp khiến được chứng, vì chưa dến được pháp khiến đến được., vì xưa chưa hành đạo khiến tiến hành , vì xưa chưa đến chỗ khiến đến chỗ, vì chưa phục ma khiến hàng phục, vì xưa chưa tìm bạn khiến cầu bạn lữ, vì chưa được pháp phương tiện khiến được pháp phương tiện.
 
 Nầy các ông ! Như Phật đã nói ba pháp hòa hiệp được thọ thai. Nay sẽ nói , các ông phải nhứt tâm nghe kỹ pháp môn thọ thai.

 Nầy các ông ! Phật nói mẹ đó là quá khứ tác nghiệp ấy làm duyên. Phật nói cha , đó là quá khứ tác nghiệp ấy làm nhơn. Phật nói Càn Thát Bà, đó là nghiệp chiêu vời thức. Phật nói Ca La Lã, đó là nghiệp an trí. Phật nói bụng mẹ, đó là chỗ nơi mà nghiệp an trí thức. thức ở nơi bụng rồi thì sanh mạng được tăng trưởng lần lần lớn rộng.

 Nầy các ông ! Vì như có thuốc rừng rậm nương đại địa mà được tăng trưởng lần lần lớn rộng. Cũng vậy, thức ấy vào bụng mẹ rồi tăng trưởng lớn rộng. Trong bụng mẹ ấy, hài nhi trưởng thành mới được sản sanh , sanh rồi lần tăng, đã được trưởng thành hành tánh thuở đời trước theo chỗ đã chết mà đến, chỗ sở hành quá khứ kia, quen tập phát khởi hiện tại đây. Cái ấy phải là trí mới biết , chẳng phải ngu rõ được. Kết bạn cùng ở thường quan sát luôn mới biết tánh ấy.

 Các ông lắng nghe đây ! Người ấy nếu từ địa ngục chết rồi đến sanh trong loài người đây sẽ có tướng nầy mà người trí phải biết : tiếng họ ré lên ồ ề, như tiếng con la, tiếp gấp rút , tiếng kinh sợ, tiếng to tiếng nhỏ lòng thường sợ sệt, luôn luôn run rẩy nổi ốc dựng lông trong chiêm bao phần nhiều thấy lửa cháy lớn, hoặc thấy chạy trên núi, hoặc thấy khối lửa, hoặc thấy nồi chảo nước sôi trào, hoặc thấy có người cầm gậy gộc mà chạy, hoặc thấy thân mình bị mâu xóc đâm, hoặc thấy la sát nữ, hoặc thấy bầy chó dữ, hoặc thấy bảy voi dữ rượt, hoặc thấy mình chạy bốn phương mà không có chỗ nương về, lòng họ ít tin, không có thân hữu.

 Nầy các ông ! Vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật nói lượt bấy nhiêu, đây gọi là từ địa ngục chết đến sanh trong loài người, chẳng phải ngu lường được mà chỉ có trí mới biết.

 Nầy các ông ! Người ấy nếu từ súc sanh chết rồi đến sanh trong loài người, họ sẽ có những tướng dạng nầy, mà người trí phải biết, họ ám độn ít trí lười biếng ăn nhiều, thích ăn bùn đất, tánh họ khiếp nhược, ngôn ngữ chẳng rành, họ thích làm bạn với kẻ ngu, ưa chỗ tối tăm , mến thích nước đục, ưa nhăn cỏ cây, ưa lấy ngón chưn đào khoét đất cát, ưa động đầu xua đuổi ruồi lằn, thường cất cao đầu ngáp nhai không, thường ưa có chưn tùy nghi nằm trên đất chẳng tránh ô uế, ưa ngửi không, ưa trần truồng, ưa dối trá, nói khác làm khác ưa nói thêm bớt, họ thường chiêm bao thấy lấy bùn trét lên mình, hoặc mộng thấy mình ở đồng ruộng ăn cỏ, hoặc mộng thấy mình bị rắn quắn, hoặc mộng thấy muình vào trong hang núi rừng rậm. Có vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật nói lược các tướng ấy, đây gọi là từ súc sanh chết đến sanh trong loài người. Trí mới biết chẳng phải ngu lường được.

 Nầy các ông ! Người ấy nếu từ ngạ quỉ chết đến sanh trong loài người thì sẽ có các tướng sau đây mà người trí phải biết. Tóc họ vàng, giận trợn mắt nhìn, thường ưa nhịn đói nhịn khát, tham lam bỏn xẻn ghen ghét, ưa tham ăn tham uống, ưa nói lén người, thân nhiều lông, tròng mắt sáng đỏ, nhiều nghĩ tưởng các thức ăn, ưa muốn tích tụ chẳng muốn chia cho, chẳng thích thấy người lành tốt, thấy tài vật liền sanh lòng trộm cắp nhẫn đến được chút ít cũng liền mừng vui, thường cầu tài lợi, ưa ăn dơ, thấy người có của cải liền ganh ghét, lại ở nơi của người tưởng là của mình, thấy người thọ dùng thì tiếc lẫn, nghe nói ăn ngon thì lòng chẳng ưa, nhẫn đến nơi xóm nơi đường thấy trái cây rụng hay lúa đậu liền sanh lòng tham lượm hái. Có vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật chỉ nói lược các tướng ấy, đây gọi là từ ngạ quỉ chết đến sanh trong loài người chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.

 Nầy các ông ! Nếu người ấy từ A Tu La chết đến sanh trong loài người sẽ có những tướng sau đây mà người trí phải biết :

 Họ cao ngạo ngã mạn, ưa giận dữ đấu tranh, oán hận chẳng quên, khởi tăng thượng mạng, thân họ to mạnh, mắt trắng như mắt chó, răng dài lộ ra ngoài, dũng kiện nhiều sức lực hay chiến trận, cũng ưa lưỡng thiệt phá hoại kẻ khác, lòng họ cao ngạo khinh miệt sách luận của người, người khác dầu biết mà họ khéo dùng lời lẽ kín sâu, họ cũng có trí lựcphiền não lực, thích tự dưỡng thân thể. Có vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật nói lược những tướng ấy, đây gọi là từ A Tu La chết đến sanh trong loài người, chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.

 Nầy các ông ! Nếu từ loài người chết rồi sanh trở lại trong loài người thì có những tướng như sau mà người trí phải biết : Người ấy hiền trực ưa gần người lành, chê trách kẻ ác, mến tiếc dang vọng nhà mình , đốc hậu thủ kín, ưa thích tiếng tâm và lời khen tặng, mến ưa nghề khéo, kính trọng trí huệ, có tâm tàm sĩ, tâm tánh nhu nhuyến, biết ơn dưỡng nơi các thiện hữu, lòng thuận không trái, ưa xả thí, biết người hay dở, giỏi quan sát người có ích hay vô ích, giỏi đối đáp lãnh hội ngôn nghĩa ấy, giỏi hòa hiệp cùng giỏi trái lìa, giỏi làm sứ giả tuyên truyền ngôn ngữ, nơi các thứ ngôn ngữ giỏi thông đạt ghi nhớ chẳng quên, cũng biết được thị xứ phi xứ. Có vô lượng tướng như vậy nay Phật nói lược các tướng ấy, đây gọi là người từ loài người chết trở lại sanh trong loài người. Chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.

 Nầy các ông ! Nếu người ấy từ thân trời chết rồi sanh trong loài người sẽ có các tướng sau đây mà người trí phải biết. Người ấy đoan chánh thích thanh tịnh, hay mang vòng hoaướp hương thoa hương nơi thân, thích tắm gội, thọ ngũ dục thì chọn thứ đẹp tốt mà chẳng ưa thứ xấu, ưa âm thanhca vũ, thuần giao hữu với các thượng nhơn , chẳng kết bạn với hạ nhơn, ưa lầu các nhà cao phòng rộng, lòng từ hòa mỉm cười không giận, lời nói dịu dàng đẹp hay khiến người nghe đẹp dạ vui lòng, thích chuổi ngọc và y phục trang sức, thường ưa đi ra vào, bước đi thong dong nhàn nhã, làm việc chuyên cần chẳng biếng lười. Có vô lượng tướng như vậy, nay Phật nói lược các tướng ấy, đây gọi là người từ thân trời chết rồi sanh trong loài người, chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.

 Nầy các ông ! Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn muốn siêu thoát các tướng ấy thì phải gần gũi thiện tri thức, thuận theo ý và làm theo chỗ làm của thiện tri thức. Thiện tri thức ấy sẽ thuyết pháp để họ được siêu độ.

 Nầy các ông ! Người từ địa ngục chết sanh trong loài người ấy, trước đời địa ngục lúc họ làm thân người họ tạo những tội ác, vì họ sân khuể nên giết hại, do nghiệp giết hại ấy dắt họ đọa địa ngục thọ nhiều thứ khổ, sau đó sanh trong loài người vẫn còn tập khí.

 Người ấy đã biết tướng dạng như vậy rồi cần phải tự biết là mình từ địa ngục đến sanh trong loài người. Vì bỏ lìa nhơn duyên địa ngục, người ấy phải tìm thiện tri thức. Gặp được thiện tri thức rồi cung kính thưa sự. Thiện tri thức ấy vì trừ nghiệp sân hại mà dạy nói từ bitrợ đạo tương ưng từ bi. Do các pháp hành ấy trừ được tập khí tàn thừa nhơn duyên địa ngục của người ấy. Thiện tri thức ấy hoặc vì họ nói Thi la Ba la mật tương ưng từ bi để trừ tội ác sân hại cho người ấy. Lúc người ấy tu từ bi, sáu Ba la mật sẽ đầy đủ thêm lớn phước đức.

 Nầy các ông ! Người từ súc sanh chết, sanh trong loài người, trước đời súc sanh, lúc làm thân người, họ thật hành quen tập pháp ngu si, do quen tập ngu si bèn làm ác nghiệp, do ác nghiệp ấy sanh trong loài súc sanh, ăn ở chung chạ lâu ngày với các súc sanh, hành động nghi thức súc sanh, nên nay làm thân người vẫn còn những tướng theo tập khí súc sanh. Người ấy phải tự biết sau khi thấy hành tưởng của mình, tôi từ súc sanh chết đến sanh trong loài người đây. Vì bỏ rời nhơn duyên súc sanh, họ phải tìm thiện tri thức. Vì trừ tập khí ngu si. Thiện tri thức dạy họ mười hai nhơn duyên. Do pháp nhơn duyên ấy mà trừ được ngu si. Thiện tri thức ấy hoặc vì họ mà dạy Bát Nhã Ba la mật, do đó ngu si thể tánh tự lìa dứt, bèn sanh trí huệ.

 Nầy các ông ! Người từ ngạ quỉ chết đến sanh trong loài người, trước đời làm ngạ quỉ, lúc làm thân người, họ thật hành chứa quen pháp xan tham, do nghiệp lực xan tham sanh trong loài ngạ quỉ, cùng chung với các ngạ quỉ ăn ở, hành động theo nghi thức ngạ quỉ. Người ấy quan sát thấy hành động của mình phải tự biết rằng tôi vốn là ngạ quỉ chết rồi đến sanh trong loài người nầy. Vì muốn bỏ rời hành nghiệp ngạ quỉ, người ấy phải tìm thiện tri thức. Vì trừ nghiệp xan tham của người ấy nên thiện tri thức dạy họ pháp bố thí. Nhờ pháp bố thí mà nghiệp xan tham được trừ. Hoặc thiện tri thức dạy họ pháp trợ Bồ đề tương ưng với bố thí, hoặc dạy họ Đàn na Ba la mật. Người ấy tu Bàn na Ba la mật mà được đủ sáu Ba la mật. Thiện tri thức hoặc dạy họ tất cả pháp đều bình đẳng. Người ấy tu pháp bình đẳng nên được đủ Bát Nhã Ba La mật. Vì tu Bát Nhã ba la mật nên lưu chú xu hướng Nhứt thiết trí.

 Nầy các ông ! Người từ A Tu La chết đến sanh trong loài người, trước đời A Tu La, lúc làm thân người, họ làm nhiều căn lành mà kiêu mạn, do kiêu mạn mà tạo các nghiệp , do sức nghiệp kiêu mạn tích tập mà sanh trong A Tu La cùng chung ăn ở với chư A Tu La làm những nghiệp A Tu La. Từ A Tu La chết họ sanh trong loài người đây nhưng tập khí nghiệp A Tu La vẫn còn. Người ấy nghe pháp như vậy, quan sát hành động của mình phải tự biết rằng tôi vốn từ A Tu La chết rồi sanh trong loài người. Vì muốn bỏ rời hành nghiệp A Tu La nên người ấy phải tìm thiện tri thức. Vì trừ nghiệp kiêu mạn cho người ấy, thiện tri thức dạy họ thánh trụ xứ, do pháp môn nầy khiến họ trừ được nghiệp kiêu mạn. Hoặc dạy họ không pháp môn, do đây trừ được nghiệp kiêu mạn ngô ngã mà được trí vô ngã. Hoặc dạy họ nhơn duyên hòa hiệp mà có các pháp, do hòa hiệp mà có sở tác. Nếu không hòa hiệp thì không sở tác. Quan sát như vậy thì kiêu mạn và nghiệp đều tiêu trừ. Hoặc dạy các pháp nhứt tướng, tu theo đây thì được đủ Bát Nhã Ba la mật mau chứng Nhứt thiết trí trọn chẳng thối chuyển.

 Nầy các ông ! Người từ thân người chết rồi lại sanh trong loài người, lúc đời trước làm thân người, họ tu hành tích tập mười nghiệp đạo lành, do nghiệp lực luôn luôn tu hành tích tập nghiệp đạo lành ấy mà lại sanh trong loài người đây. Người ấy nghe pháp như vậy phải tự biết rằng tôi vốn từ thân người chết rồi lại sanh trong loài người nầy. Vì muốn siêu tập khí nghiệp người , họ phải tìm thiện tri thức. Vì trừ tập khí ấy, thiện tri thức dạy họ vô thường tưởng để trừ tập khí. Hoặc dạy họ sanh từ lỗi khổ, Niết bàn rất vui. Nghe pháp ấy rồi, người ấy được nhàm sanh tử lỗi khổ mà ưa thích Niết bàn vui. Hoặc dạy họ sáu Ba la mật, do đó hoặc họ có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề. Hoặc dạy họ thiện phương tiện, do đó họ có thể kiên trì sáu Ba la mật mau chứng Nhứt trí trọn chẳng thối chuyển.

 Nầy các ông ! Người từ thân trời chết rồi đến sanh trong loài người, trước đời làm thân trời, lúc làm thân người tu phạm hạnh bố thí trì giới đều mong phước báu tương lai. Tu hành tích tập thiện nghiệp như vậy dài lâu xong trọn, do nghiệp lực ấy sanh thân trời, cùng chư Thiên chung ăn ở quen nghi thức chư Thiên , từ thân trời chết, tập khí pháp hành chư Thiên vẫn còn, khi được thân người rồi, nghe pháp như vậy quan sát hành động của mình phải tự biết rằng tôi vốn quyết từ thân trời chết đến sanh trong loài người. Vì muốn siêu tập khí chư Thiên, người ấy phải tìm thiện tri thức. Thiện tri thức ấy dạy họ tu trì phạm hạnh chẳng cầu báo tương lai, dạy cho họ biết cầu phước báu là lầm lỗi, dạy rõ tịnh tu phạm hạnh không chỗ y trước thì được phước vô lượng. Dạy họ tu bố thí chẳng cầu phước báu, nói cầu báo là lỗi lầm, dạy rõ bố thí không chỗ y trước thì được phước vô lượng. Dạy họ tu trì giới chẳng cầu phước báu tương lai, nói cầu báo là lỗi lầm, dạy rõ trì giới không chỗ y trước thì công đức vô lượng. Hoặc dạy họ thiện xảo phương tiện, do đó người ấy có hành lục Ba la mật, đầy đủ lục Ba la mật mau chứng Nhứt thiết trí trọn chẳng thối chuyển.

 Nầy các ông ! Người từ địa ngục chết đến sanh trong loài người phải nương tựa thiện tri thức để được nghe pháp tam thế chư Phật bình đẳng. Được nghe pháp bình đẳng rồi phải phát cần tinh tấn y thành ấp tụ lạc cùng đại chúng chung ở nơi đủ cả bốn bộ chúng cùng nhau luận lượng Phật pháp học vấn nạn đáp, pháp tam thế bình đẳng được hiện ra trước, hiểu tất cả pháp khôngtự tánh. Do tu trí hiểu nầy mà phiền não lần trừ.

 Nầy các ông ! Người từ súc sanh chết sanh trong loài người ấy phải nương tựa thiện tri thức gần gũi người đa văn, do gần người đa văn mà trừ lần ngu si. Người ấy dầu gần người đa văn và các kinh luậnquán tưởng chẳng phải có. Người ấy quán tưởng chẳng phải có rồi tự nhiên hiểu chứng pháp không tự tánh, do đây mà pháp tam thế bình đẳng tự nhiên hiện tiền mau chứng Nhứt thiết trí chẳng có thối chuyển.

 Nầy các ông ! Người từ ngạ quỉ chết sanh trong loài người ấy phải nương tựa thiện tri thức tu hành bố thí để trừ xan tham và làm các công đức. Do vì tu xả thí nên tâm họ chằng tich tụ, do đó pháp tam thế bình đẳng tự nhiên hiện tiền được nhứt tướng, tức là vô tướng. Người ấy do tu trí hiểu vô tướng nầy nên mau chứng Nhứt thiết trí trọn chẳng thối chuyển.

 Nầy các ông ! Người từ A Tu La chết đến sanh trong loài người phải nương tựa thiện tri thức để cùng chiến đấu với phiền não ma, đó là kiêu mạn. Bấy giờ người ấy nên quán sát “ gì là mạn, ai mạn, ai bị khinh mạn, ai do mạn nầy mà khởi phiền não xứ, ai bỏ mạn ấy ?”. Suy tìm như vậy không có mạn để được, cũng chẳng thấy có ai nhiếp thọ mạn ấy. Người ấy do quán sát nghĩa như vậy nên không có mạn để được, không có người mạn, cảnh giới tương ưng với mạn cũng chẳng có được, cũng chẳng thấy có ai bỏ kiêu mạn. Quan sát như vậy, không một pháp có thể được. Người ấy lại quan sát như vậy : “Do ác nhiếp thọ tự phỉnh thân mình cũng phỉnh thân người ”. Lúc quan sát như vậy có thể thấy các pháp khôngtự tánh. Do thấy các pháp đều không có tự tánh nên thấy pháp chẳng phải có, do chẳng phải có nên biết chẳng thành tựu, do biết chẳng thành tựu nên biết là chẳng sanh, vì biết là chẳng sanh nên biết là chẳng diệt, đã chẳng sanh diệt thì đó là bất khả thuyết. Nếu hiểu được bất khả thuyết thì nó chẳng phải quá khứ chẳng phải hiện tại chẳng phải vị lai tam thế bất khả đắc. Các pháp đã là tam thế bất khả đắc thì nên biết chưa hề có được có mất, đây là tất cả pháp bình đẳng. Do tất cả pháp bình đẳng nên biết tất cả pháp là chơn như bất biến bất dị, Như Lai cũng là chơn như bất biến bất dị, vì tất cả pháp tức là chơn như.

 Do đó nên quan sát kiêu mạn được biết người ấy từ thân người đời trước chết rồi lại sanh trong loài người, vì họ có sức tập khí kiêu mạn. Nhẫn đến từ địa ngục chết đến sanh trong loài người do có tập khí kiêu mạn nên biết được tướng ấy. Nếu không tập khí kiêu mạn thì không thể nói được là người ấy từ thân người đến hay nhẫn đến từ trong địa ngục đến.

 Nầy các ông ! Đây gọi là trí huệ lìa rời kiêu mạn. Tướng ấy phải do đủ xảo phương tiện mới có thể biết được. Lại do Bát Nhã Ba la mật gia trì nên người ấy mới biết được ”.

 Lúc ấy, tám ngàn người ngoại đạo được nghe đức Phật thuyết pháp liền được vô sanh pháp nhẫn. Chúng ấy được vô sanh pháp nhẫn rồi liền đứng dậy đảnh lễ chưn Phật. Họ đảnh lễ chưn Phật rồi đứng qua một phía khác miệng đồng lời nói kệ tán thán đức Phật :

 “Đạo Sư kiến lập sức trí huệ
 Biết các đạo thú chẳng do người
 Biết các chúng sanh đi các thú
 Như thấy trái cây cầm trong tay
 Do các kiến thủ trược thế gian
 Thí như mây mù chướng hư không
 Do đây bầy ngu thường lưu chuyển
 Như bọn người mù lạc đường chánh
 Thế gian là thường là vô thường
 Lại nói cũng thường cũng vô thường
 Lại nói phi thường phi vô thường
 Họ như voi đui đi vào thành
 Nói đời hữu biên hay vô biên
 Nói cũng hữu biên cũng vô biên
 Nói phi hữu biên phi vô biên
 Do đây lưu chuyển như chim lồng
 Lại nói tức thânthần ngã
 Hoặc nói ly thân có thần ngã
 Bị vọng tưởng phân biệt trói buộc
 như chim sa lưới lòng sanh khổ
 Lại nói Trời Tự Tại hóa ra
 Lại nói sanh chẳng phải do nhơn
 Chúng sanh bị kiến thủ che lấp
 Ví như mây mù che khuất trăng
 Như trứng trong lồng nở ra chim
 Theo các lỗ trống thường muốn ra
 Chúng sanh bị kiến thủ làm ngu
 Họ chẳng giải thoát như chim lồng
 Lại để Phạm Vương và Thiên chúa
 Lại để đồng hài và phụ nhơn
 Lại để phương hải Tỳ Sa Môn
 Như giặc bị bắt cầu thần linh
 Dường như kẻ nghèo gặp chủ nợ
 Cầu lập bảo chứng cùng chủ nợ
 Như vậy người đời chấp kiến thủ
 Ngu si cầu trời mong dục lạc
 Phật thấy chúng sanh y chơn thiệt
 Như thấy năm ngón trên bàn tay
 Ở trong các thú chịu trăm khổ
 Như bọn giặc cướp vào lao ngục
 Với họ Thế Tôn lòng thương xót
 Tu các đạo hạnh biết các thú
 Thế Tôn đã dạy pháp xuất ngục
 Như vua sanh trai phóng đại xá
 Thương đời chẳng kể vô số kiếp
 Tu các khổ hạnh được Bồ đề
 Kiến thủ phá hoại bọn ngu si
 Phật dạy cho họ được giải thoát
 Do đây Thiện Thệ Thiên Nhơn Sư
 Ở trong các pháp được tự tại
 Chúng tôi kiến thủ nên lạc đường
 Nơi kiến thủ Phật cứu chúng tôi
 Do đây Thế Tônđại lực
 Có đủ vô úy không oán đối
 Giữa chúng đại hống như sư tử
 Chúng tôi cũng nguyện được pháp ấy
 Vì nó hay động cõi Đại Thiên
 Cũng dùng pháp ấy chiếu khắp chốn
 Dùng nó thọ ký các chúng sanh
 Cũng nguyện chúng tôi gặp gỡ họ”.

 Đức Thế Tôn biết chư ngoại đạo đã thâm tín nên hiện tướng mỉm cười phóng ánh sáng.

 Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật :

 “Phật thương thế gian hiện mỉm cười
 Vì thấy các chúng ngoại đạo ấy
 Ngưỡng mong Như Lai nói cớ cười
 Phật hiện mỉm cười có nghĩa chi
 Đấng khéo hiểu nhơn chẳng không nhơn
 Mà hiện mỉm cười phóng ánh sáng
 Lành thay đấng hiện sáng mỉm cười
 Đại chúng chiêm ngưỡng mong Phật nói
 Đại chúng tại hội đều hoài nghi
 Vì thấy Phật hiện ánh sáng cười
 Tất cả đều như nhìn trăng tròn
 Nhìn Phật chờ nói cớ mỉm cười
 Ai tại hôm nay dâng cúng dường
 Ai ngày nay làm vui từ phụ
 Nay ai có được Phật công đức
 Lành thay Đại Trí xin diễn nói
 Đại chúng nghe nói chắc mừng vui
 Đều do ngoại đạo được thọ ký
 Ngưỡng mong Đạo Sư thương nói cho
 Ở trong thừa nào họ đắc đạo
 Lành thay Mâu Ni trừ chúng nghi
 Do đây đại chúng được mừng vui
 Một bề đến Phật không thối chuyển”.
 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ kheo :
 “ Lành thay Mã Thắng khéo biết giờ
 Hay hỏi Như Lai hàng ma oán
 Thương xót thế gian nói lời ấy
 Hay hỏi ĐạoVô Thượng Sĩ
 Phật sẽ nói sự hiện mỉm cười
 Ông phải nhứt tâm nghe duyên cớ
 Ông phải vui mừng nghe Phật nói
 Nay nói nghĩa cớ Phật mỉm cười
 Tám ngàn ngoại đạo đều điều phục
 Bỏ các ác kiến trụ thiện kiến
 Thấy thế gian bị kiến thủ não
 Họ khởi bi tâm cầu Bồ đề
 Tất cả kiến thủ đều được bỏ
 Vì họ đã biết chánh kiến vậy
 Từ Phật được nghe ký vô ngại
 Họ đều ưa cầu Nhứt thiết trí
 Chỗ Phật quá khứ được ký rồi
 Cúng dường Đại bi Lưỡng Túc Tôn
 Đầy đủ chỗ hai ức chư Phật
 Để được lên Vô thượng Bồ đề
 Chỗ Phật tu thí cũng chẳng thiếu
 Tu trì tịnh giới tu thiền định
 Tịnh tu trí huệ phát tinh tấn
 Nơi c ác quần sanh tu nhẫn nhục
 Thường tu tập sáu Ba la mật
 Lựa chọn trí huệ cầu Bồ đề
 Mã Thắng thỉnh hỏi đấng hàng ma
 Phát tâm thích cầu Phật Bồ đề
 Những khổ não ấy do đảng ác
 Y chỈ trong chỗ có kiến thủ
 Chúng ấy nay thấy Thắng Đạo Sư
 Bỏ các ác kiến đều không thừa
 Do được thiệt hiểu lời Phật dạy
 Tùy thuận Phật pháp khởi thâm tín
 Họ có nhiều ức Phật vị lai
 Đều siêng cúng dường cầu Bồ đề
 Ở đời vị lai kiếp Tinh Tú
 Đều được làm Phật đồng một hiệu
 Hiệu Phổ Văn Phật danh tiếng lớn
 Phật ấy đại trí độ thế gian
 Quốc độ Phật ấy rất thanh tịnh
 Nhiều thứ trang nghiêm không đâu bằng
 Cõi ấy chúng sanh không ác kiến
 Thuần cầu Bồ đề quả hiền thánh
 Cõi ấy chúng sanh không ác thú
 Thuở ấy cũng không tất cả nạn
 Tất cả Phật ấy thọ mạng lâu
 Đồng trụ thế gian tám vạn tuổi
 Chúng sanh nghe được danh Phật ấy
 Đều được bất thối thượng Bồ đề
 Nếu những người nữ nghe hiệu Phật
 Tất cả đều được thân nam nhi
 Như vậy Thế Tôn đấng hàng ma
 Đã thọ ký cho chúng ngoại đạo
 Tất cả Trời Người nghe thọ ký
 Thảy đều mừng vui sanh kính tin”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32611)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11096)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30233)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30314)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7884)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12039)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11497)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12590)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34457)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9724)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52120)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10628)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10387)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9521)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12532)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16397)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11963)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14230)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16129)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16107)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12618)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11951)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15551)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11408)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12516)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14865)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11880)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14385)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13111)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14233)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20155)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17469)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11909)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant