Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

16-26 Phẩm Tứ Chuyển Luân Vương

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8926)
16-26 Phẩm Tứ Chuyển Luân Vương
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Tứ Chuyển Luân Vương
Thứ Hai Mươi Sáu


 Bấy giờ đức Phật nói với Tịnh Phạn Vương : “ Nầy Đại Vương ! Các pháp như đã nói ở trên phải chuyên tâm tinh tiến quan sát tu hành chớ theo nơi khác.

 Pháp ấy là Bồ đề của chư Phật quá khứ vị lai hiện tại, hay tự tại siêu việt tất cả thế gian, hay trừ tất cả khát ái hàng phục ngã mạn, diệt trừ tội lỗi, được bình đẳng nơi tất cả pháp. Nó chẳng phải là chỗ của hạng phàm phu, tất cả Thanh Văn chẳng đến được, chẳng phải cảnh giới của tất cả Bích Chi Phật, là chỗ tu hành của tất cả Bồ Tát, là chỗ chứng đắc của tất cả chư Phật.

 Ở trong pháp ấy, Đại Vương phải để tâm suy nghĩ rằng : Tôi phải thế nào để được làm mắt sáng ở trong Trời Người, được làm đèn sáng , đuốc lớn, thuyền bè, biết thủy lộ giới là Đạo Sư, là thương chủ, là đạo thủ ở trong Trời Người.

 Tôi phải thế nào để tự độ mình rồi lại độ được người, tự đã giải thoát lại giải thoát người, tự được an ổn lại an ổn người, tự chứng Niết bàn lại khiến người chứng Niết bàn.

 Đại Vương nên biết chẳng nên quan sát đời quá khứtrải qua sự giàu mạnh tự tại.

 Nầy Đại Vương ! Các căn như ảo, không bao giờ thỏa mãn, cũng không có gì làm nó thỏa mãn được. Cảnh giới như mộng, ở nơi sắc thanh hương vị xúc không biết chán đủ.

 Nầy Đại Vương ! Thuở quá khứchuyển luân vương tên Vô Biên Xưng có đủ thất bửu oai lực tự tại thống lãnh tứ thiên hạ. Nhà vua ấy ở chỗ đức Phật trước trồng các cội lành nên được thành tựu ý lực nghĩ gì được nấy.

 Lúc ấy, vua Vô Biên Xưng tự nghĩ ta thử sức phước đức của ta, nay ta tự nương phước đức khiến tất cả cây cối trong bốn thiên hạ nầy thường có bông trái dùng hoài không hết.

 Nầy Đại Vương ! Vua Vô Biên Xưng ý nghĩ như vậy rồi, khắp bốn thiên hạ tất cả rừng cây trổ bông kết trái xum xuê nhơn dân dùng mãi không hết.
 

 Nhà vua ấy lại nghĩ tưởng làm cho tất cả nhơn dân trong bốn thiên hạ muốn gì đều được cả không hề trái ý. Nhà vua ấy nghĩ tưởng như vậy rồi, tất cả nhơn dân đều được đầy đủ theo chỗ mong cầu.

 Nhà vua ấy lại nghĩ tưởng khiến khắp bốn thiên hạ đều mưa nước thơm. Liền đó khắp nơi đều mưa nước thơm.

 Nhà vua ấy thử phước lực của mình nên lại nghĩ tưởng khắp bốn thiên hạ đều mưa hoa đẹp. Liền theo ý tưởng của nhà vua ấy, khắp nơi đều mưa hoa đẹp.

 Nhà vua ấy lại nghĩ tưởng khắp nơi đều mưa y phục đẹp. Liền đó khắp nơi mưa y phục kiếp bối cõi trời

 Nhà vua ấy lại muốn thử phước lực của mình nên nghĩ tưởng khắp bốn thiên hạ mưa bạc, rồi lại tưởng mưa vàng. Theo đúng ý tưởng của nhà vua ấy, khắp nơi mua bạc rồi mưa vàng.

 Tại sao như vậy ? Vì vua Vô Biên Xưng ấy từ quá khứ đã ở nơi tất cả chúng sanh tu cộng nghiệp thiện.

 Nầy Đại Vương ! Thuở ấy mặt đất Diêm Phù Đề dọc ngang đều một vạn tám ngàn do tuần, có sáu mưoi ngàn vạn đại thành. Trung ương có hoàng thành tên Bửu Trang Nghiêm dọc ngang mười hai do tuần, bốn phía bằng phẳng khéo đẹp, đường sá trang nghiêm, ranh giới rành rẽ.

 Ngoài thành Bửu Trang Nghiêm ấy có bảy lớp hàng cây Đa La bằng bốn thứ báu là vàng bạc lưu lypha lê rất đẹp đáng ưa. Nếu là cây Đa La vàng thì thân cành gốc rễ bằng vàng mà lá bông và trái bằng bạc. Nếu là cây Đa La bạc thì thân cành gốc rễ bằng bạc mà lá bông và trái bằng vàng. Nếu là cây Đa La bằng lưu ly thì gốc rễ thân cành bằng lưu ly mà lá bông và trái bằng pha lê. Nếu là cây Đa La pha lê thì gốc rễ thân cành bằng pha lê mà lá bông và trái bằng lưu ly.

 Thành Bửu Trang Nghiêm ấy giáp vòng có bảy lớp treo lưới linh lạc báu, lại có màn lưới báu che trùm phía trên.

 Ngoài thành có bảy lớp hào, mỗi hào sâu nửa do tuần, rộng một do tuần, đáy và bờ hào đều bằng phẳng, đầy nước trong sạch đủ tám đức, chim chóc uống nước ấy. Trong nước hào mọc đầy bốn thứ hoa sen xanh, vàng đỏ và trắng. Đáy hào trải cát vàng. Bờ hào bằng bốn báu vàng bạc lưu lypha lê : bực vàng thì thang bạc, bực bạc thì thang vàng, còn lưu lypha lê thì trang sức trên dưới xen lẫn trang nghiêm. Lan can xung quanh hào bày bảy báu trang nghiêm vô tỉ.

 Mỗi con đường đều có bảy lớp cổng báu, hai bên đường có những cây chuối vàng, bốn bên hào đường sá giáp vòng, nơi hai đầu đều có tọa ngồi bằng bảy báu.

 Tất cả sự trang nghiêm báu quí ấy đều do phước đức của vua Vô Biên Xưng cảm thành.

 Xung quanh ngoài thành Bửu Trang Nghiêm có tám vạn rừng vườn. Làm những rừng vườn ấy, vua Vô Biên Xưng không có lòng chấp trướcsở hữu của mình mà cho tất cả nhơn dân cùng hưởng.

 Mỗi khu vườn ấy có tám ao lớn dọc ngang đều nửa do tuần, đầy hoa sen bốn màu. Bờ ao có tám thềm đường bằng bốn báu và cổng ngỏ bảy báu.

 Hai bên thềm đường có cây chuối vàng Diêm Phù Đàn trang nghiêm. Trong ao đầy nước tám đức, các loài chim uống nước ấy. Bốn bên ao nhà vua ấy lại cho trồng nhiều hoa đẹp để nhơn dân cùng hưởng.
 

 Các lưới báu linh lạc báu khắp thành Bửu Trang Nghiêm, lúc gió nhẹ thoảng phát ra tiếng hòa nhã như ngũ âm do nhạc công giỏi trổi lên. Nhơn dân trong thành cùng vui chơi theo nhạc điệu ấy.

 Thuở ấy thành lớn Bửu Trang Nghiêm giàu vui an ổn, nhơn dân giàu có no đủ, mọi nơi đều có hoa sen bốn màu đẹp thơm vô tỉ.

 Một lúc khác, vua Vô Biên Xưng lại nghĩ rằng :Nay ta sẽ qua châu Tây Cù Đà Ni. Vua cùng bốn binh chủng cùng bay lên hư không qua Cù Đà Ni. Chư tiểu Quốc Vương ở châu Tây ấy đều đến phụng nghinh và đem quốc độ phụng hiến. Vua Vô Biên Xưng ở lại đó trăm ngàn muôn năm rồi mang bốn binh chủng lên hư không bay qua châu Đông Phất Bà Đề, các tiểu Quốc Vương ở châu Đông đều phụng nghinh và đem quốc độ phụng hiến. Vua Vô Biên Xưng ở lại đó trăm ngàn vạn năm rồi đem bốn binh chủng lên hư không bay đến châu Bắc Uất Đơn Việt, nhơn dân nơi châu Bắc đều hoan nghênh. Vua Vô Biên Xưng ở lại châu Bắc nhiều trăm ngàn năm cùng quyến thuộc vui vầy.
 

 Một hôm vua Vô Biên Xưng nghĩ rằng ta có nghe trời Đao Lợi ỏ đảnh núi Tu Di, nay ta nên lên đó.

 Nghĩ như vậy rồi nhà vua ấy ngồi long tượng đem bốn binh chủng bay lên hư không thẳng lên núi Tu Di. Nhà vua ấy hỏi quan hầu cận rằng ngươi thấy núi Tu Di cùng đại hảitứ thiên hạ thế nào ?

 Quan hầu thưa : Tâu Đại Vương, tôi thấy núi Tu Di cùng đại hảitứ thiên hạ đều xoay tròn. Như nhà gốm quay tròn vòng khuôn, tôi thấy núi Tu Di cùng đại hảitứ thiên hạ cũng quay tròn như vậy.

 Nhà vua ấy bảo quan hầu cho long tượng vương đại hành chưa ngừng thẳng tiến lên trước.

 Nhà vua ấy lại hỏi quan hầu : Giờ đây ngươi thấy núi Tu Di cùng đại hải và bốn châu thiên hạ thế nào ?

 Quan hầu thưa : Tâu Đại Vương ! Tôi thấy núi Tu Di cùng đại hải và bốn châu thiên hạ đều chấn động.

 Nhà vua ấy nói nay ta muốn đến đánh núi Tu Di, cho long tượng vương nầy tiểu hành chưa ngừng thẳng tiến lên trước.
 

 Nhà vua ấy hỏi quan hầu : Giờ đây người thấy núi Tu Di cùng đại hảitứ thiên hạ thế nào ?

 Quan hầu thưa : Tâu Đại Vương, tôi thấy núi Tu Di cùng đại hải và bốn thiên hạ đều chẳng động chẳng chuyển.

 Nhà vua ấy bảo : Đã đến đảnh núi Tu Di rồi.

 Vua ấy cùng bốn binh chủng đến đảnh núi Tu Di.

 Đế Thích thấy vua Vô Biên Xưng thì vui mừng đón tiếp và chia nửa tòa ngồi cho cho vua ấy cùng ngồi. Vua Vô Biên Xung tiếp nhận chỗ ngồi rồi cùng Đế Thích ngự trời Đao Lợi cả vô lượng năm.

 Sau đó, vua Vô Biên Xưng lại nghĩ rằng : Ta nên truất phế Đế Thích để riêng ta làm Thiên Vương.

 Vừa nghĩ xong như vậy, nhà vua ấy cùng bốn binh chủng từ trời Đao Lợi rơi xuống vườn bảy báu ngoài thành Bửu Trang NghiêmNam Diêm Phù Đề.

 Bấy giờ có dân trong thành ra thấy như vậy vội cấp bảo vào thành. Lúc ấy vua đang ngự trị thành Bửu Trang Nghiêm tên là Tác
 

 Ái, nghe có vị Thiên Tử bốn binh chủng từ trên không giáng xuống vườn thất bửu ngoài thành, liền truyền nghiêm xa giá cùng bốn bộ binh chủng xuất thành đến vườn thấy vua Vô Biên Xưng. Vua Tác Ái sai đem các thứ hoa và hương bột hương thoa đến rồi tự trịch y vai hữu quỳ gối hữu chắp tay hướng về vua Vô Biên Xưng mà thưa rằng : Ngài là ai ?

 Vua Vô Biên Xưng nói : Người có từng nghe thuở xa xưa có vua Vô Biên Xưng chăng ?

 Vua Tác Ái và các quan dân đều nói : Chúng tôi có nghe người xưa nói thuở trước có vua Vô Biên Xưng ngự trị bốn châu thiên hạ. Vua ấy cùng bốn binh chủng bay lên trời Đao Lợi.

 Vua Vô Biên Xưng nói : Như chỗ các ngươi đã nghe, vua Vô Biên Xưng chính là ta đây.

 Từ đó vua Vô Biên Xưng nghe mùi vị đồ ăn uốngnhân gian lòng chẳng ưa thích chẳng chịu được nên thân tâm trầm trọng hôn mê. Như đem đề hồ để trên cát nóng liền chìm mất chẳng tạm dùng còn, vua Vô Biên Xung ở Diêm Phù Đề ăn uống các thứ lòng không ưa thích, thân tâm chìm mất cũng như vậy.

 Vua Tác Ái thấy vua Vô Biên Xưng chẳng chịu được mùi vị đồ ăn uống ở nhơn gian nên thân tâm chóng hư hoại chẳng thể sống còn bèn thưa rằng : Đại Vương có lời gì dặn bảo để tôi truyền lại cho người đời sau.

 Vua Vô Biên Xưng nói với vua Tác Ái : Nhà vua nên biết từ xưa vua Vô Biên Xưng ngự trị bốn thiên hạ oai đức tự tại, tùy ý muốn gì đều được như vậy, muốn rừng cây đầy hoa quả thì bông trái có luôn hay trừ khổ cho mọi người. Nhơn dân muốn cần gì thì đều được thỏa mãn cả. Ta lại có thể mưa nước thơm, mưa hoa đẹp, mưa y phục báu, mưa bạc trắng, mưa vàng ròng. Ngự trị bốn châu giàu mạnh tự tại. Ta lên trời Đao Lợi, Đế Thích chia ngự tọa cùng cai trị cõi trời. Vì lòng tham không chán đủ nên phải từ cung trời rơi xuống Diêm Phù Đề mà chết.

 Vua Vô Biên Xưng bảo vua Tác Ái : Các sự việc vừa kể ấy, nhà vua nên truyền nói như vậy và kết luận rằng : Vua Vô Biên Xưng giàu mạnh tự tại, vì tham cầu không chán nên phải chết mất.

 Vua Vô Biên Xưng nói xong thì chết”.
 

 Thuật đến đây, đức Phật nói với vua Tịnh Phạn : Vua Vô Biên Xưng ấy tức là thân Phật đây vậy. Nầy Đại vvương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng.

 Nầy Đại Vương !Vì thế nên phải nhiếp tâm quan sát như vậy, chớ tin nơi khác ”.

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng :

 “ Thường vui pháp tự tại
 Luôn luôn sách tấn mình
 Trong tham dục tự tại
 Lòng phải biết chán lìa
 Ly dục tự tại rồi
 Trụ trong pháp tự tại
 Nếu hàng phục được tâm
 Thì hàng phục phiền não
 Hàng phục được phiền não
 Liền được lìa nghiệp đạo
 Được lìa nghiệp đạo rồi
 Là tháp chùa thế gian
 Chẳng bị dục ô nhiễm
 hiển bày lỗi phiền não
 Nhớ lợi ích chúng sanh
 Nên hiệu là tháp chùa
 Nghe lời tham dục rồi
 Liền lìa được tham dục
 Nhứt thiết trí tịnh tâm
 Nên hiệu là tháp chùa
 Tối thắng đại trượng phu
 Nhớ dứt lỗi chúng sanh
 Giải thoát sân cho họ
 Nên hiểu là tháp chùa
 Tối thắng đại trượng phu
 Nhớ dứt si cho chúng
 Thoát tâm ngu si ấy
 Nên hiệu là tháp chùa
 Điều ngự thiên nhơn sư
 Nhớ dứt mạn cho chúng
 Làm tâm chúng sanh sạch
 Nên hiệu là tháp chùa.”

 Đức Phật phán tiếp phán tiếp với vua Tịnh Phạn : “ Nầy Đại Vương ! Thuở xưa quá khứQuốc Vương tên là Địa Thiên, làm vua đúng pháp, có đủ bảy báu và luân báu, tượng báu, mã báu, minh châu báu, ngọc nữ báu, trưởng giả báu và chủ binh báu.
 

 Cha của vua Địa Thiên tên là Địa Sanh. Sau khi Địa Sanh chết, Địa Thiêntrưởng tử nên phụ tướng đại thần lấy nước bốn biển rưới đảnh của Địa Thiên tôn làm vua, đó là vua Sát Đế Lợi Quán Đảnh.

 Lúc lên ngôi vua rồi, đến ngày rằm trăng tròn ngày thọ trai, vua ĐịaThiên tắm rửa gội đầu cắt cạo râu tóc và móng tay móng chưn, mặc y phục mới sạch, dùng vòng hoa chuổi ngọc mũ mão vòng xuyến trang sức thân mình, ngồi trên lầu cao, các thể nữ vây quanh. Liền đó từ phương Đông có luân bửu bằng vàng đủ ngàn căm giàn trục đều đủ, ánh sáng chói ngời, ngang dọc đều bảy cánh tay, thuần bằng vàng ròng.

 Thấy kim luân bửu xuất hiện, vua Địa Thiên nghĩ rằng : Ta từng nghe người xưa nói nếu vua Sát Đế Lơi Quán Đảnh lên ngôikim luân bửu ứng hiện thì sẽ là Chuyển Luân Thánh Vương. Nay ta có phải là Luân Vương chăng, ta nên thử xem.

 Vua Địa Thiên liền đứng dậy trịch y vai hữu đối luân bửu chắp tay khấn rằng : Luân bửu nên hạ xuống đây. Vua khấn xong, luân bửu liền hạ xuống dừng trước vua.
 

 Vua Địa Thiên dùng hương thơm thoa tay, mặc y mão đẹp, tay mặt tiếp lấy luân bửu để trong tay trái, tay mặt xoa vuốt luân bửu mà khấn rằng : Nay ngươi nên hàng phục phương Đông.

 Kim luân ấy liền bay lên hư không xoay vòng hai bên rồi dừng ở phương Đông tại con đường chuyuển Luân Vương thuở xưa. Con đường ấy bằng phẳng rải đầy hoa bằng phẳng rải đầy hoa rất khả ái. Chỗ kim luân đi qua mặt đất đều bằng phẳng không có cao thấp. Do phước đức của vua Địa Thiên nên những ao suối giếng hồ khô cạn đều đầy nước tám đức, tất cả cây cối đều xum xê tươi tốt đầy trĩu hoa trái.

 Bấy giờ vua Địa Thiên mang bốn binh chủng đi theo luân bửu, nếu luân bửu dừng lại vua và binh chủng cũng dừng theo. Những xứ nhà vua đến, quốc vương và thần dân xứ ấy đồng mang lễ vật ra nghênh đón và phụng hiến cả quốc độ ấy cho vua ngự trị.

 Vua Địa Thiên Chuyển Luân Vương liền bảo rằng : Ta chẳng cần đến quốc độ nầy, các ngươi cứ cai trị như xưa, nhưng phải xa lìa những sự sát sanh, cũng chớ trộm cắp, chẳng được tà dâm, không nên vọng ngữ lưỡng thiệt ác khẩu ỷ ngữ, chớ có tham dục giận thù và tà kiến. Các người phải tự mình tu mười nghiệp đạo lành và bảo người khác cùng tu. Nay ta nhận biết các người quy phục nơi ta, tuân lời ta truyền, ta xem các người như con em ta. Các người phải thảo ngay phụng dưỡng cha mẹ sư trưởng và các nhà tu hành. Chớ làm sự phi pháp và sự ác bất thiện, cũng khuyên người làm lành lánh dữ. Nếu được như vậy mới thiệt quốc độ và nhơn dân xứ nầy qui phục nơi ta.

 Lần lượt như vậy, vua Địa Thiên theo luân bửu hàng phục xong châu Phất Bà Đề phương Đông và cả ba châu Nam, Tây, Bắc rồi trở lại Diêm Phù Đề tại cung thành cũ, kim luân bửu ấy dừng ở bất động tại hư không trên chỗ vua ngự. Lúc ấy cả bốn châu thiên hạ, do phước lực của vua Địa Thiên nên đều biến thành bảy báu trang nghiêm, đó là vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ , xích châumã não. Ba ác đạo cũng được giải trừ sanh vào đường lành. Toàn cõi không còn tiếng ác, không còn một ai tạo nghiệp ác.

 Tại sao được như vậy ? Đó là do bổn nguyện lực của vua Địa Thiên. Vả lại lúc kim luân bửu xoay lăn đến đâu, cả tứ thiên hạ chẳng cần gieo trồng mà mọi nơi đều mọc đầy những cạnh mễ tự nhiên không có cám trấu. Mọi nơi lại tự nhiên sản xuất y phục báu đẹp từ những cây thiên thọ. Tất cả bệnh hoạn khắp nơi đều tự nhiên lui mất, chỉ trừ ba điều là cầu dục lạc, ăn nuốt và suy già. Tất cả nhơn dân đều thọ đủ ngàn muôn tuổi, tất cả những khổ não đều tự nhiên tiêu trừ. Có vô lượng sự hi hữu chẳng thể nghĩ bàn như vậy xuất hiện nơi thế gian sau lúc vua Địa Thiên theo luân bửu ngự trị toàn bốn châu thiên hạ.

 Thời gian lâu về sau, một hôm vua Địa Thiên nghĩ rằng : Nơi đây ta thọ hưởng khoái lạc, chẳng biết còn có chốn nào hơn ? Vua lại nhớ đã từng nghe trời Đao Lợi ở đảnh núi Tu Di, sự vui đẹp ở đó thế nào ?

 Vì lòng còn nặng ái dục nên vua Địa Thiên chán ghét sự thọ dụngnhân gian mà mong muốn sự vui đẹp ở cõi trời, nên vua cùng bốn binh chủng bay lên cung trời Đao Lợi.

 Thấy vua Địa Thiên đến, Đế Thích vui mừng đón tiếp và chia chỗ ngự trị cho.

 Cùng Đế Thích chia trị cõi trời vô lượng trăm ngàn năm, vua Địa Thiên bỗng có ý nghĩ truất bỏ Đế Thích để mình trọn quyền. Vừa nghĩ như vậy xong, vua Địa Thiên và bốn binh chủng từ cung trời Đao Lợi rơi xuống thành An Ổn nơi Diêm Phù Đề.
 

 Bấy giờ vua Địa Thiên vì lâu ngày ăn dùng vật thực thắng diệu cõi trời , nay bỗng đến nhơn gian nên chẳng chịu được đồ thô xấu, thân tâm vua bị trầm một, như đem đề hồ đổ trên cát nóng liền chìm mất .

 Thân tâm quá mệt suy vua Địa Thiên nói kệ rằng :

 Các vua chúa tự tại
 Chẳng trừ được khát ái
 Như cỏ khô gặp lửa
 Thế nên phải bỏ dục
 Thường làm sự dâm dục
 Chưa từng có lúc thỏa
 Như khát uống nước mặn
 Chẳng bao giờ hết khát
 Như các dòng về biển
 Chẳng bao giờ đầy được
 Ái dục cũng như vậy
 Chưa bao giờ thỏa đủ
 Như lửa cháy cỏ cây
 Không bao giờ thôi đủ
 Ái dục cũng như vậy
 Không bao giờ thỏa đủ
 Như tiếng vang hang sâu
 Theo tiếng không thôi dứt
 Nghe tiếng cũng như vậy
 Không bao giờ thôi dứt
 Như thùng chứa chất thơm
 Chứa đựng không chọn lọc
 Ngửi hương cũng như vậy
 Không bao giờ chán đủ
 Như vá múc đồ ăn
 Không bao giờ thôi đủ
 Lưỡi nếm các vị ngon
 Cũng không hề biết đủ
 Như gương sáng hiện bóng
 không bao giờ thôi đủ
 Người hành dục cũng vậy
 Với dục không chán đủ
 Như hư không chứa gió
 Không bao giờ đầy đủ
 Thân thường ưa chạm xúc
 Không bao giờ chán đủ
 Như trong mộng uống nước
 Chẳng bao giờ trừ khát
 Y thức duyên các pháp
 Cũng chẳng hề chán đủ
 Người tham cầu ái dục
 Càng thêm lớn ái dục
 Nhìn xem các sự cảnh
 Ái luyến chẳng chán đủ
 Thấy dục tăng khổ não
 Dường như lửa cháy củi
 Dứt trừ các ái dục
 như dùng nước tắt lửa

 Nầy Đại Vương, chớ nghĩ là ai khác, vua Địa Thiên thuở xưa ấy chính lá thân Phật đây vậy.

 Thuở xưa ấy vua Địa Thiên giàu mạnh tự tại, vì tham cầu không chán đủ nên phải chết mất. Tại sao ? Do vì các căn không chán đủ nên sự cảnh không thỏa mãn được. Các ăn như gương soi, sự cảnh như bóng tượng. Các căn như ảo, cảnh giới như mộng.

 Đại Vương phải để tâm nơi pháp nầy tự quan sát thật kỹ sâu, chớ theo nơi khác. Pháp nầy là vô thượng Bồ đề của chư Phật ba đời.
 

 Đại Vương phải xa rời tất cả giàu mạnh, phải tiêu kiệt tất cả ái dục, lật đổ núi kiêu mạn, rời xa tất cả suy họa, bình đẳng đối với tất cả pháp. Đây chẳng phải là địa vị với tất cả phàm phu, chẳng phải đường đi của tất cả hàng Thanh Văn, cũng chẳng phải cảnh giới của tất cả Duyên Giác, mà chính là chỗ đi của tất cả Bồ Tát, là tất cả chứng đắc của tất cả chư Phật Đẳng Chánh Giác.

 Đại Vương phải chú tâm chớ để tán loạn, phải suy nghĩ rằng ; Ở trong tất cả thế gian thuở vị lai, tôi phải thế nào để được làm đèn sáng, làm đuốc lớn, làm ánh sáng, làm thuyền bè, làm đạo sư, làm thương chủ, làm đạo thủ, làm thượng thủ, tự độ và độ người ,tự thoát và giải thoát người, tự an và an cho người, tự được Niết bàn khiến người cũng được Niết bàn.

 Đại Vương chớ xem xét sự giàu mạnh tự tại đã có thuở trước. Phải biết các căn như ảo nó chẳng hề chán đủ, cũng không gì làm cho nó đủ được. Cảnh giới như mộng, chẳng thể làm thỏa mãn được ”.

 Đức Phật lại nói với vua Tịnh Phạn :“ Thuở quá khứ có vua tên Đảnh sanh. Vua ấy có oai đức lớn, có đại thần thông, có oai thế lớn. Vua ấy từ trên đảnh của phụ vương Ô Bô Sa mà sanh ra. Vua từ lâu chứa nhiều căn lành, đã từng thấy vô số chư Phật và tu các thiện căn, cung kính cúng dường chư Phật, tích chứa cội lành, rất được giàu mạnh tự tại trong bốn thiên hạ. Sau khi được quán đảnh lên ngôi vua bảy ngày thì bảy báu hiện ra đủ, làm Chuyển Luân Thánh Vương.

 Những gì là bảy báu của Chuyển Luân Thánh Vương ?

 Một là kim luân bbửu, thuần bằng vàng ròng, đủ ngàn căm, giàn trục đủ, ngang dọc đều bảy cánh tay, tự nhiên hiện đến trước nhà vua.

 Hai là bạch tượng bửu, đủ sáu ngà, bảy chi chống đất, trắng như núi Tuyết, tự nhiên ứng hiện đến.

 Voi và ngựa hai báu ấy, từ sáng sớm đến giờ ăn có thể đi khắp tám phương bốn châu thiên hạ, hết mé các biển rồi trở về chỗ cũ

 Bốn là minh châu bửu , lớn bằng bắp vế người, thuần lưu ly xanh ánh sáng chiếu ra xung quanh đều một do tuần..
 

 Năm là trưởng giả bửu, giàu có vô lượng, tùy ý vua muốn đều có thể sẵn đủ cả. Sáu là ngọc nữ bửu, đoan trang xinh đẹp tuyệt luân, toàn thân toát ra mùi chiên đàn, hơi miệng sạch thơm, như hoa sen xanh , lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt, thân sắc mịn màng như lá đồng đỏ. Cả thân mềm dịu như không có xương, mùa đông thì ấm, mùa hạ thì mát. Lòng dạ từ bi luôn nói lời nhỏ nhẹ tay chạm đến vua liền hiểu được ý nghĩa của vua.

 Bảy là chủ binh bửu, tự nhiên xuất hiện, dũng mảnh sách mưu võ lược đệ nhứt, biết trước ý nghĩ của vua cả bảy ngày, giỏi điều binh đánh trận.

 Vua ấy lại có đủ ngàn con trai đoan chánh dũng kiện hàng phục được oán địch.

 Thuở ấy vua Đảnh Sanh ngự trị bốn thiên hạ, đúng pháp giáo hóa, khiến bốn thiên hạ giàu vui an ổn, nhân dân đông nhiều, thành ấp tụ lạc gần liền nhau. Toàn cõi không có đá sỏi gai góc mà nhiều châu báu đầy đủ vô lượng, vườn rừng ao suối rất tốt khả ái. Đó là do vua Đảnh Sanh an trụ nơi pháp lực mà cảm hiện lành tốt như vậy. Thời kỳ ấy hoặc Người hoặc Trời hưởng thọ dục lạc tối đệ nhứt.

 Đô thành của vua Đảnh Sanh ngự tên là A Du Xà. Thành ấy Đông Tây đều rộng mười hai do tuần, Nam Bắc đều rộng bảy do tuần. Trong thành ngoài thành các thứ trang nghiêm đều đồng như thành Bửu Trang Nghiêm của vua Vô Biên Xung ở trên, cũng như Đắc Thắng Đườngtrời Đao Lợi.

 Đảnh Sanh Vương tạo ba bửu điện : Một là Nguyệt Xuất điện, vua ở đó trong mùa Hạ, hai là Tỳ Lưu Ly điện, vua ở đó trong mùa Xuân, Ba là Nhựt Oai Đức Khởi, vua ở đó trong mùa Đông rét lạnh. Lúc vua cùng ngọc nữ và thể nữ vào điện Nguyệt Xuất thì thân thể vua mát mẻ như ướp thoa hương ngưu đầu chiên đàn. Lúc vua cùng quyến thuộc vào điện Tỳ Lưu Ly thì thân vua thư thới như ướp thoa hương lá đa ma la. Lúc vua cùng quyến thuộc vào điện Nhựt Oai Đức thì thân vua ấm áp như thoa ướp hương trầm thủy.

 Vua Đảnh Sanh ấy theo chỗ thích muốn đều được tùy ý tự tại, khiến các cung điện theo thời tiết mà phát sanh sự cảm xúc vừa ý : tùy ý phát xuất gió, tùy ý phát xuất mưa, các thứ âm nhạc tùy ý vua mà đến, các đồ cần dùng cũng theo ý vua mà xuất hiện.

 Bấy giờ nơi cung điện mà vua Đảnh Sanh ngự trọn bảy ngày, trời mưa vàng và bạc. Qua bảy ngày vua nghĩ rằng : Rất là hi hữu chẳng nghĩ bàn được, nghiệp nhơn thanh tịnh cảm lấy quả báo như vậy, tùy ý hiện đến đầy đủ theo ý ta muốn, phước đức gây nên như vậy không thể sai lạc. Có ai thấy quả báo nầy mà ở nơi sự tu phước đức lại thôi nghỉ.

 Vua Đảnh Sanh ngự Diêm Phù Đề trăm ngàn năm, sau đó vua tự nghĩ rằng nay Diêm Phù Đề của ta an ổn giàu vui, nhơn dân đông đúc và đều quí thuộc nơi ta, trong cung điện ta mưa vàng bạc trọn cả bảy ngày. Giờ đây ta nên qua châu Tây Cù Đà Ni.

 Nghĩ xong, vua Đảnh Sanh cùng quyến thuộc mang bốn binh chủng bay lên hư không thẳng đến châu Tây Cù Đà Ni. Vua đã đến rồi ngự trị châu Tây trăm ngàn năm, cũng tác ý mưa vàng bạc, là cho nhơn dân đều an ổn giàu vui. Sau đó vua lại mang bốn binh chủng đến ngự trị châu Đông Phất Bà Đề trăm ngàn năm cũng khiến toàn châu Đông giàu vui an ổn. Vua Đảnh Sanh lại sang ngự trị châu Bắc Uất Đơn Việt vô lượng ngàn năm, vua hưởng thọ y báu hơn Người mà chưa bằng Trời.

 Sau đó vua Đảnh Sanh nghĩ rằng, ta có nghe đảnh núi Tu Ditrời Đao Lợi, ta nên đến đó quan chiêm coi thế nào.

 Vua Đảnh Sanh liền mang bốn binh chủng bay lên hư không thẳng đến đảnh núi Tu Di.

 Bấy giờ Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn cùng ba mươi ba Thiên Vương hợp tại Thiện Pháp Đường luận sự việc Trời Người.

 Thấy vua Đảnh Sanh đến, Đế Thích đón tiếp chia ngự tòa cùng ngồi.

 Lúc vua Đảnh Sanh lên ngự tòa cùng ngồi với Đế Thích xong liền có mười sự việc thù thắng che chói chư Thiên. Đó là thọ mạng hơn chư Thiên , dung nhan hơn chư Thiên , danh tiếng hơn chư Thiên, thọ lạc hơn chư Thiên, ngự trị tự tại hơn chư Thiên, thân hình hơn chư Thiên, âm thanh hơn chư Thiên, hơi thơm hơn chư Thiên, vị ăn hơn chư Thiên, chạm xúc mịn dịu hơn chư Thiên.

 Vua Đảnh Sanh cùng Đế Thích hình dung tướng mạo hành động oai nghi đồng nhau không sai khác, ăn uống y phục đồ dùng cũng đồng, chỉ có nhìn nháy là khác nhau thôi.

 
 Nhưng chư Thiên phân biệt biết rõ thiên Vương và Nhơn Vương sai khác.

 Rất là lạ lùng hi hữu, Đế Thích và vua Đảnh Sanh là Trời và Người mà hình dung tướng mạo lại đồng nhau, đó là sức phước đức tạo ra như vậy, ai lại ở nơi phước đức mà chẳng thích ưa.

 Vua Đảnh Sanh ở trời Đao Lợi vô lượng ngàn năm là tăng thượng tự tại, vua chẳng biết đủ nên sau đó lại nghĩ rằng : nay ta nên một mình làm Thiên Vương cần gì Đế Thích, ta sẽ truất phế ông ấy. Vừa nghĩ xong như vậy, vua Đảnh Sanh cùng toàn thể quyến thuộc bốn binh chủng liền rơi xuống Diêm Phù Đề trong vườn ngoài thành A Tu Xà.

 Lúc vua Đảnh Sanh rơi xuống oai quang chiếu sáng khắp mọi nơi làm luốt mất ánh sáng mặt trời. Như lúc mặt trời mọc, mặt trăng bị luốt mất, lúc vua Đảnh Sanh sa xuống mặt trời bị luốt mất cũng như vậy.

 Bấy giờ có người xuất thành thấy như vậy, vội vào phổ cáo cho mọi người trong thành hay rằng : Nay có Thiên Tử cùng bốn binh chủng từ hư không sa xuống vườn ngoài thành.
 

 Được tin ấy, quốc Vương cùng thần dân chỉnh đốn nghi lễ mang hoa hương kỹ nhạc xuất thành đến khu vườn ấy để tiếp nghinh vua Đảnh Sanh.

 Lúc vua Đảnh Sanh sa xuống, toàn cõi đất chấn động sáu cách.

 Vua Đảnh Sanh vì đã quen hưởng thọ dục lạc cõi trời nên chẳng chịu được hơi hám và đồ dùng ở nhơn gian, vua mê mệt nằm trên đất, như tô lạc đề hồ đổ vào cát rất nóng liền tiêu tan.

 Quốc Vương và thần dân thấy vua Đảnh Sanh hôn mê nằm trên đất liền kêu hỏi : Ngài là ai ?

 Vua hỏi lại các người có từng nghe nói vua Đảnh Sanh thuở xưa chăng ?

 Quốc vương và thần dân đáp đã có nghe các bực kỳ cựu thuật rằng có vua Đảnh Sanh chẳng bỏ thân người đem quyến thuộc và bốn binh chủng bay lên trời.

 Vua nói Đảnh Sanh Vương thuở xưa chính là ta đây . Ta cùng bốn binh chủng từ trời rơi xuống vậy.

 Quốc Vương và thần dân nói kệ hỏi vua rằng :

 Tôi nghe kỳ cựu nói
 Xưa có vua oai đức
 Hiệu là Đảnh Sanh Vương
 Có danh tiếng rất lớn
 Vua mang bốn binh chủng
 Từ đây bay lên trời
 Cũng đem cả quyến thuộc
 Thánh Vương trị đúng pháp
 Trời Người tuân lời vua
 Sức vô thường làm hại
 Mất báo trời chịu khổ
 Đảnh Sanh Vương là Ngài
 Chúng tôi đều chắp tay
 Cúi đầu lạy chân vua
 Có sự hi hữu
 Sẽ truyền lại đời sau.

 Vua Đảnh Sanh Vương từ trời sa xuống bị khổ nói kệ đáp rằng :

 Đảnh Sanh Thánh Vương xưa
 Thống lãnh bốn thiên hạ
 Thọ lạc hơn Trời Người
 Tham không nhàm phải chết
 Xưa trong cung vua ấy
 Mưa trân bửu bảy ngày
 Trị thiên hạ đúng pháp
 Tham không nhàm phải chết
 Vua trước cùng Thiên Đế
 Chia ngự tọa mà ngồi
 Vì phát khởi ác niệm
 Quá tham dục phải đọa
 Ở trong biển sanh tử
 Vì vô trí nên chìm
 Vì say đấm ngũ dục
 Tham không nhàm phải chết
 Như khát mộng uống nước
 Chẳng thể hết khát được
 Thọ ngũ dục cũng vậy
 Trọn không hề chán đủ
 Các chúng sanh trí huệ
 Dứt trừ tối ngu si
 Người trí ấy biết đủ
 Chánh quán sát các loài
 Trí quán sát các loài
 Huệ thấy già bịnh chết
 Dứt trừ các khát ái
 Bỏ các loài không ham
 Quán chạm xúc như lửa
 Thì bỏ được khát ái
 Quán thọ lạc cũng vậy
 Biết ái là chẳng lành
 Như đánh các âm nhạc
 Căn cảnh giới cũng vậy
 Dùng thánh giáo điều phục
 Bỏ được căn tự tánh
 Tất cả năm loài sanh
 Sanh ra từ danh sắc
 Trong ấy thức phân biệt
 Thì phát sanh tưởng nghĩ
 Thánh giả chánh quán sát
 Chẳng tham chấp nghiệp nhơn
 Trí giả đủ sáng suốt
 Chứng diệt như củi tàn

 Vua Đảnh Sanh nói kệ đáp mọi người xong thì chết.

 Nầy Đại Vương ! Vua Đảnh Sanh thuở xưa ấy chính là thân Phật đây. Ngày xưa Phật từng làm Đảnh Sanh Chuyển Luân Vương thống lãnh Trời Người oai thế tự tại, vì tham dục không nhàm đủ mà phải chết mất.Vì lẽ ấy nên phải rời bỏ giàu sang kiêu mạn oai thế mà an trụ chẳng phóng dật . Nếu có thể an trụ được nơi hạnh chẳng phóng dật, thì có thể tu các thiện căn.

 Nầy Đại Vương ! Nếu chẳng phóng dật lại có thể vào pháp giới bình đẳng. Nếu người lìa được phóng dật thì thành tựu lợi ích.

 Nầy Đại Vương !Hữu vi vô vi giới chẳng phải nam nữ, chẳng phải quá vị hiện tại. Đại Vương nên ở nơi pháp nầy mà an trụ tự tâm, chớ theo giáo pháp khác. Pháp nầy là Vô thượng Bồ đề của tam thế chư Phật.

 Đại Vương nên xa rời tất cả hào quí, tiêu cạn tất cả biển dục, xô ngã núi kiêu mạn, rời xa tất cả suy đọa, bình đẳng với tất cả. Đây chẳng phải chỗ của phàm phu, chẳng phải hàng Thanh Văn làm được, cũng chẳng phải cảnh giới của Duyên Giác. Đây là công hạnh của tất cả Bồ Tát, là chỗ chứng của chư Phật Chánh Đẳng Giác.

 Đại Vương phải nhiếp tâm chớ để tán loạn, phải suy nghĩ rằng : Đời vị lai ở trong tất cả Nhơn Thiên thế gian, ta phải thế nào để được làm đèn sáng, làm đuốc, làm ánh sáng, làm thuyền, làm hướng đạo, làm thầy, làm thương chủ, làm đạo thủ, làm vô thượng, tự độ độ người, tự thoát giải thoát người, tự an an ổn người, tự được Niết bàn khiến người được.

 Đại Vương chớ quan sát thuở trước đã từng giàu sang tự tại, phải biết các căn như ảo không có chán đủ, cũng không gì làm cho nó đủ được, cảnh giới như mộng chẳng thỏa mãn được

 Nầy Đại Vương ! Thuở quá khứ có vua hiệu là Ni Di, rõ thấu các pháp, làm vua đúng pháp, trọn chẳng phóng dật, khi vua có làm việc thì rời lìa phóng dật.

 Vua Ni Di ấy thường quán tam thế bình đẳng, lại quán tất cả pháp cũng như tam thế bình đẳng. Vua ấy quán tất cả pháp quá khứ xa lìa tự tánh, quán vị lai tất cả pháp xa lìa tự tánh, quán hiện tại tất cả pháp cũng xa lìa tự tánh. Quán tất cả pháp bình đẳng rồi, vua ấy ở nơi tất cả pháp chẳng thủ trước. Vua ấy quán tất cả thế gian bị bốn thứ điên đảo nó làm điên đảo : ở trong pháp bất tịnh mà tưởng là tịnh, ở trong pháp khổ mà tưởng là vui, ở trong pháp vô thường mà tưởng là thường, ở trong pháp vô ngã mà tưởng là ngã. Vua quán thế gian rồi tự nghĩ rằng : Thế gian bại hoại đại bại hoại, chúng sanh ở nơi tất cả pháp tự tánh, không tịch mà họ chẳng hay biết. Ta nên dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp các chúng sanh. Các chúng sanh ấy tùy thuận ta rồi tất sẽ lãnh thọ lời ta dạy.

 Vua Ni Di dùng bốn nhiếp pháp nhiếp các chúng sanh rồi liền đem pháp bình đẳng dạy các chúng sanh.

 Nầy đại chúng ! Tất cả các pháp lìa tự tánh. Nếu tất cả pháp lìa tự tánh thì nó cũng chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Tại sao ? Vì các pháp ấy tự tánh chẳng phải thiệt vậy. Các pháp đã lìa tự tánh thì các pháp ấy chẳng thể gọi nó lá quá khứ vị lai hiện tại.

 Vua Ni Di dạy các chúng sanh về pháp tam thế bình đẳng rồi, có tám mươi ngàn vạn na do tha vô lượng trăm ngàn chúng sanh được vô sanh pháp nhẫn.

 Bấy giờ tại cung trời Đao Lợi, chư Thiên Tử tụ hội nghị luận rằng : Lành thay lành thay, người nước Diêm Phù Đề được đại lợi ích. Vua Ni Di hiểu rõ các pháp, làm vua đúng pháp có đủ phương tiện. Ở nơi các chúng sanh điên đảo, vua ấy dùng phương tiện khéo dạy họ pháp chẳng điên đảo

 Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhơn ở cách xa Thiện Pháp Đường, do thiên nhĩ vói nghe lời các Thiên tử nghị luận, liền đến Thiện Pháp Đường lên ngự pháp tọa bảo các Thiên Tử rằng : Vua Ni Di ấy thành tựu đầy đủ phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Tại trời Đao Lợi nầy, các Ngài có muốn thấy vua Ni Di ấy chăng ?

 Chư Thiên Tử đồng thưa muốn được thấy.

 Thiên Đế liền truyền ngự thần tên Ma Đa Lê rằng : Nhà ngươi nên trang bị ngàn xe báu cõi trời đến Diêm Phù Đề nước Bệ Đề A thưa với vua Ni Di rằng : Đây là ngàn xe báu cõi trời sai đến rước vua, xin vua chớ kinh sợ. Tất cả chư Thiên Đao Lợi đều muốn được thấy vua. Xin vua lên ngự trên xe báu nầy.

 Lúc thấy vua Ni Di lên xe rồi, thì ngươi hỏi : “ Thưa Đại Vương ! Nay tôi đem vua theo đường nào để đi đến trên trời Đao Lợi ? Theo đường chúng sanh an trụ điên đảo mà đi hay theo đường chúng sanh chẳng an trụ điên đảo mà đi.

 Thiên thần Ma Đa Lê lãnh lịnh Thiên Đế Thích nghiêm bị ngàn xe báu, tự lên ngồi rồi từ Đao Lợi Thiên xuống Diêm Phù Đề đến nước
 

 Bệ Đề A thưa vua Ni Di rằng : Chư Thiên Đao Lợi đem ngàn xe báu đến rước xin vua chớ nghi sợ. Chư Thiên trên ấy đồng muốn thấy vua.

 Bấy giờ vua Ni Di lòng không kinh sợ buớc lên xe báu. Vua đã lên rồi, thiên thần Ma Đa Lê lại thưa rằng : Nay tôi phải đem vua đi đường nào, đi đường chúng sanh an trụ điên đảo, hay đi đường chúng sanh chẳng an trụ điên đảo ?

 Vua Ni Di bảo Thiên Thần : Ngài có thể đưa tôi đi khoảng giữa hai đường ấy.

 Ma Đa Lê liền đem vua đi giữa hai đường ấy.

 Vua Ni Di bảo Thiên Thần : Ngài nên tạm dừng xe lại, tôi muốn quan sát các chúng sanh điên đảo.

 Thiên Thần tuân lời dừng xe. Trong thời gian ngắn ấy, vua Ni Di làm cho tám mươi ngàn vạn chúng sanh an trụ trong thiệt kiến tam muội. Tại sao được như vậy ? Vì vua từ lâu đã khéo tu tập bất phóng dật hạnh. Khiến chúng sanh nhập thiệt kiến tam muội rồi sau sẽ đều được vô sanh pháp nhẫn.

 Ma Đa Lê trọn chẳng hay biết việc làm của vua Ni Di, tiếp tục đưa vua đi đến đảnh núi Tu Di. Từ xa vua thấy rừng rậm xanh tốt liền bảo Thiên Thần :Rừng ấy quyết định là chỗ ở của các chúng sanh chẳng điên đảo.

 Thiên Thần Ma Đa Lê thưa : Nơi ấy chính là Thiện Pháp Đường, chư Thiên Đao Lợi đang chờ được thấy vua, xin vua bước lên chớ sợ.

 Bấy giờ vua Ni Di lòng chẳng sợ bước lên Thiện Pháp Đường. Thiên Đế Thích đón tiếp vua và chia nửa bửu tọa cho vua cùng ngồi.

 Hai vua ngồi xong. Thiên Đế Thích ôn nhu nói với vua Ni Di rằng : Đại vua làm được lợi ích lớn, có thể làm cho Phật pháp thạnh hưng tăng trưởng.

 Thiên Đế Thích lại bảo chư Thiên Đao Lợi rằng : Vua Ni Di nầy đầy đủ thành tựu phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Trong thời gian ngắn, vua nầy có thể làm cho tám mươi ngàn vạn chúng sanh an trụ Phật phápMa Đa Lê đều chẳng hay biết.

 Lúc ấy vua Ni Di vì chư Thiên Đao Lợi mà giảng rộng Phật pháp vi diệu. Làm cho chư Thiên được lợi ích xong, vua thưa với Thiên
 

 Đế Thích rằng : Tôi muốn trở lại Diêm Phù Đề,. Tại sao ? Vì tôi muốn hộ trì chánh pháp của Phật tại Diêm Phù Đề vậy.

 Thiên Đế Thích liền truyền Ma Đa Lê nghiêm bị ngàn cổ xe đưa vua Ni Di về.

 Về đến Diêm phù Đề vua Ni Di thành tựu phương tiện đại từ thiện xảo dìu dắt vô lượng chúng sanh an trụ Phật pháp.

 Nầy Đại Vương ! Vua Ni Di thuở xưa ấy chính là thân Phật đây vậy.

 Đại Vương nên quan sát năng lực của hạnh bất phóng dật khó nghĩ bàn được. Vua Ni Di lên ngồi ngự tọa của Thiên Đế Thích mà còn chẳng tham trước. Vì thế nên Đại Vương ở trong Phật pháp phải siêng năng tinh tấn tu các hạnh chẳng phóng dật.

 Nầy Đại Vương ! Thế nào gọi là Phật pháp ?

 Nầy Đại Vương ! Tất cả pháp đều là Phật pháp cả ».

 Tịnh Phạn Vương nghe lời dạy nầy liền bạch rằng : « Bạch Thế Tôn ! Nếu tất cả pháp là Phật pháp, thì tất cả chúng sanh cũng lẽ ra là Phật » .

 Đức Phật phán rằng : « Nếu chẳng điên đảo thấy chúng sanh thì chính là Phật vậy ».
 

 Nầy Đại Vương ! Nói là Phật đó , là như thiệt thấy chúng sanh vậy, như thiệt thấy chúng sanh chính là thấy thiệt tế. Thiệt tế chính là pháp giới.

 Nầy Đại Vương ! Thiệt tế ấy chẳng thể hiển thị được. Chỉ là danh từ, chỉ là thế tục, chỉ là trong số thế tục, chỉ có ngôn thuyết, chỉ giả đặt để. Phải nhận xét như vậy.

 Nầy Đại Vương ! Tất cả pháp vô sanh đây là môn đà la ni. Tại sao đây gọi là môn đà la ni ? Ở đây tất cả pháp không động không lay, không lấy không bỏ, đây gọi là môn đà la ni.

 Nầy Đại Vương ! Tất cả pháp bất diệt là môn đà la ni. Tại sao bất diệt là môn đà la ni ? Trong ấy, tất cả pháp chẳng động chẳng lay, chẳng lấy chẳng bỏ. Môn đà la ni ấy không có tướng mạo, không có tự tánh, không đặt đề được, không tác không tạo, không lai không khứ, không ngã không nhơn, không chúng sanh không thọ mạng, không dưỡng dục chẳng phải đối trị, không hình không trạng, không trói không rời, không uế không tịnh, không thương không ghét, không buộc không mở, không xuất không thối, không được không ở, không định không loạn, không tri chẳng phải vô tri, chẳng phải kiến chẳng phải vô kiến, chẳng phải giới chẳng phải phạm, chẳng phải ăn năn chẳng phải không ăn năn, chẳng phải mừng chẳng phải không mừng, chẳng phải khổ chẳng phải vui, chẳng phải định chẳng phải bất định , chẳng phải thiệt chẳng phải đảo, chẳng phải Niết bàn chẳng phải không Niết bàn, chẳng phải ái kiến chẳng phải lìa ái kiến, chẳng phải giải thoát chẳng phải không giải thoát, chẳng phải trí chẳng phải bất trí, chẳng phải nhìn xem chẳng phải chẳng nhìn xem, chẳng phải nghiệp chẳng phải chẳng nghiệp, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo.

 Nầy Đại Vương ! Phải dùng sáu mươi bảy pháp môn để vào tất cả pháp.

 Nầy Đại Vương tự thể các pháp chẳng phải từng có sẽ có

 hiện có. Như tượng trong gương chẳng phải có không, tự thể của sắc cũng vậy, chẳng phải đã sẽ và hiện có. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.

 Nầy Đại Vương ! Như vang chẳng phải đã sẽ, và hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và hiện có.

 Nầy Đại Vương ! Như dương diệm chẳng phải đã sẽ và hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và hiện có.

 Nầy Đại Vương như khối bọt nước chẳng bền chắc, nó chẳng phải đã sẽ và hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và hiện có.

 Nầy Đại Vương ! Như mộng thấy nữ nhơn đẹp, sự thấy trong mộng chẳng phải đã sẽ và hiện có. Thể tánh của sắc thọ tưởng hành thức cũng như vậy, chẳng phải đã sẽ và hiện có.

 Nầy Đại Vương ! Như Thạch Nữ mộng thấy đẻ con trai, sự được thấy trong mộng ấy chẳng phải đã sẽ và hiện có. Thể tánh của thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, chẳng phải đã sẽ và hiện có.

 Nầy Đại Vương ! Sắc không có sanh cũng không có diệt, thọ tưởng hành và thức không có sanh cũng không có diệt, như Niết bàn giới không có sanh không có diệt vậy.
 Như pháp giới không sanh không diệt, sắc thọ tưởng hành và thức không sanh không diệt cũng như vậy.

 Nầy Đại Vương Tất cả pháp là Như Lai cảnh giới, bất khả tư nghì cũng là Như Lai cảnh giới, bất cộng pháp, cũng là Như Lai cảnh giới, vì chẳng cùng chung với cảnh giới của tất cả phàm phu vậy, cũng chẳng cùng chung với cảnh giới của tất cả Thanh Văn Duyên Giác vậy.

 Tất cả pháp ấy chẳng phải chê chẳng phải khen, chẳng phải được chẳng phải mất, chẳng phải giác chẳng phải bất giác, chẳng phải trí chẳng phải bất trí, chẳng phải thức chẳng phải bất thức, chẳng phải xả chẳng phải bất xả, chẳng phải tu chẳng phải bất tu, chẳng phải thuyết chẳng phải bất thuyết, chẳng phải chứng chẳng phải bất chứng, chẳng phải hiển thị chẳng phải chẳng hiển thị, chẳng phải khả văn chẳng phải chẳng khả văn.

 Tại sao vậy ?

 Vì pháp ấy không có pháp phò cử được xô ngã được như vậy.

 Tại sao vậy ?

 Vì tất cả pháp rời lìa tự tánh vậy.

 Đại Vương nay phải an tâm ở trong pháp ấy, sâu quan sát nó chớ tin nơi khác ”.

 
 Bấy giờ Tịnh Phạn Vương nghĩ rằng : Ở trong các pháp không có pháp gì để được. Không có pháp ấy chứng được pháp ấy mà gọi là Phật ấy. Các pháp thiệt chẳng có được. Chỉ vì chúng sanhđức Phật giả ngôn thuyết thôi.

 Lúc Phật nói pháp ấy, Tịnh Phạn Vương và bảy vạn Thích chủng được vô sanh pháp nhẫn.

 Đức Phật biết hàng Thích chủng được thâm tín rồi liền hiện mỉm cười.

 Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ hỏi Phật :

 “Đấng Đại Hùng Đạo Sư
 Vì đời mà mỉm cười
 Mong đuốc sáng thế gian
 Diễn nói sự mỉm cười
 Thập lực Nhứt thiết trí
 Cớ chi hiện mỉm cười
 Xin nói cớ cười ấy
 Dứt lưới nghi thế gian
 Phật vì hàng Thích chủng
 Mà hiện tướng mỉm cười
 Xin mau trừ lưới nghi
 Của chúng Trời và Người
 Được nghe đức Phật nói
 Thế gian hết nghi ngờ
 Lòng họ được hoan hỉ
 An trụ trong Phật pháp
 Các con của Thế Tôn
 Được nghe cớ mỉm cười
 Bền chắc ở thệ nguyện
 Trí huệ tất thông đạt
 Ngưỡng mong đấng Đạo Sư
 Dứt trừ lòng chúng nghi
 Chúng được hết nghi rồi
 Tất được vui lớn rộng ”.

 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo :

 “ Phật hiện cười tịch diệt
 Mã Thắng hãy lắng nghe
 Nay Phật sẽ nói rõ
 Thích chủng quyết định trí
 Các pháp bất khả đắc
 Thích chủng đều biết được
 Vì thế tâm quyết định
 An trụ nơi Phật pháp
 Dòng họ Thích danh tiếng
 Y cứ vô sở đắc
 Sẽ được Vô Thượng Giác
 Biết rõ tất cả pháp
 Mạng người nầy mãn rồi
 Thích chủng ấy quyết định
 Được sanh nước cực lạc
 Gần kề Phật Di Đà
 Họ ở cực lạc rồi
 Vô úy thành Bồ đề
 Hay đến mười phương cõi
 Cúng đường vô số Phật
 Ở tại một Phật độ
 Hay cúng mười phương Phật
 Vì thương xót chúng sanh
 Mà cầu đạo vô thượng
 Du lịch các Phật quốc
 Cúng dường chư Phật ấy
 Đều do thần lực mình
 Theo chỗ chư Phật mà đến
 Vô lượng vô số kiếp
 Cúng dường các Đạo Sư
 Với các thứ diệu cúng
 Sau sẽ thành Phật đạo
 Mỗi mỗi thành Phật rồi
 Hay độ vô lượng chúng
 Khiến được thành Phật đạo
 Lại giáo hóa chúng sanh
 Chúng sanh ở nước ấy
 Đều sẽ thành Phật đạo
 Chư Phật Thế Tôn ấy
 Chẳng độ chúng Thanh Văn
 Mỗi Phật Thế Tôn ấy
 Đều thọ một kiếp tuổi
 Chánh pháp chư Phật ấy
 Vô lượng vô số kiếp
 Chư Phật ấy diệt độ
 Chư Bồ Tát đại Trí
 Gìn pháp độ thế gian
 Ức Vô số ngàn năm
 Chư đại Bồ Tát ấy
 Giáo hóa vô lượng chúng
 Đặt ở đạo Vô thượng
 Thuyết pháp đều không tịch
 Khiến trụ bất phóng dật
 Tu tập pháp không tịch
 Hay được Nhứt thiết trí
 Ưa hạnh bất phóng dật
 Nghe Thế Tôn tuyên nói
 Thọ ký hàng thích chủng
 Trời Người đều vui mừng
 Chí cầu đạo vô thượng ”.

 Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Huệ Mạng Xá Lợi Phất : Nầy Xá Lợi Phất ! Đây là tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát. Ông phải nói lại với hàng bất thối chuyển của Bồ Tát. Tại sao vậy ? Nầy Xá Lợi Phất ! Tam muội nầy chẳng thể nói được. Như Lai ở trong tam muội ấy chẳng được một pháp. Nếu là chẳng được thì nó là chẳng thể giác được. Nếu chẳng thể giác đuợc thì nó là chẳng thể nói được. Nếu chẳng thể nói được thì nó là chẳng thể biết được. Chẳng thể biết được ấy tức là pháp của tam thế chư Phật vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất ! Nay ta phó chúc cho ông, đây là tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát phải nên thọ trì đọc tụng giảng nói rộng cho người.

 Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có thiện nam thiện nữ an trụ đại thừa trải qua mười kiếp tu hành năm ba la mật, lìa Bát Nhã Ba la mật, nếu có người được nghe tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát nầy thì phước đức lớn hơn. Nếu người tạm nghe tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát nầy, nếu lại có người được nghe đây rồi nói cho mọi người thì phước đức càng lớn hơn.

 Nếu có người trong mười kiếp nghe đây rồi nói cho mọi người, nếu lại có người nhẫn đến trong thời gian một sát na tu tập tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát thì phước đức càng lớn hơn.

 Vì thế nên Xá Lợi Phất đem kinh Bồ Tát Kiến Thiệt Tam Muội nầy vì chư Bồ Tát mà diễn nói chỉ dạy tu hành.

 Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu tu theo tam muội nầy thì sẽ được vô sanh pháp nhẫn.

 Nầy Xá Lợi Phất ! Trong pháp hội đây, chư Bồ Tát được ta thọ ký đạo vô thượng đều được an trụ trong tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát.

 Bấy giờ tất cả Bồ Tát Thanh Văn, Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà, Nhơn Phi Nhơn tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy đều vui mừng phụng hành.

 Hết Tập 4
 Hết Phẩm thứ XVI
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33113)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6516)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11238)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30386)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30424)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7961)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12154)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12227)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12776)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34704)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9823)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52233)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10720)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10489)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10691)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10442)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13049)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16223)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21802)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9590)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7098)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10369)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12707)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12757)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16203)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16504)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13833)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16551)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12091)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13778)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14300)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9176)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11727)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16276)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14324)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16183)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12680)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12057)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11778)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15639)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11494)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14008)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11992)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12601)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14971)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11942)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13103)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14505)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20652)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13186)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10921)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20663)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14325)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20324)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17608)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13997)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31839)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11997)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant