Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

27-pháp Hội Thiện Thuận Bồ Tát

01 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7976)
27-pháp Hội Thiện Thuận Bồ Tát

KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

 

XXVII
Pháp hội

THIỆN THUẬN BỒ TÁT

Thứ hai mươi bảy

Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt Dịch: Việt Nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc tại nước Xá Vệ cùng các đại chúng: năm trăm Thanh Văn , mười ngàn Bồ Tát cung kính vây quanh..

Bấy giờ trong thành Xá Vệ có một Bồ Tát tên Thiện Thuận, đã ở nơi vô lượng Phật quá khứ trồng các thiện căn kính thờ cúng dường được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, an trụ đại từ lòng chẳng giận hờn, an trụ đại bi rộng cứu không mỏi, an trụ đại hỉ lành an pháp giới, an trụ đại xả khổ vui bình đẳng, tiết lượng ăn đúng giờ, ít muốn biết đủ, thường được chúng sanh ưa thấy, luôn đem ngũ giớibát giới trai ở trong thành ấy thương xót giáo hóa sau đó lại khuyến hóa mọi người hành bố thí trì giới nhẫn nhục tinh tiến thiền định trí huệ từ bi hĩ xả phạm hạnh thanh tịnh.

Bấy giờ Thiện Thuận Bồ Tát vì khiến chúng sanh thấy Phật nghe pháp nên cùng đại chúng sau trước vây quanh sắp đi đến chỗ đức Phật.

Thiên Đế Thích dùng thiên nhãn thấy Thiện Thuận Bồ Tát thường tinh tiến hành đầu đà đủ tịnh giới tế độ vững chắc, Thiên Đế nghĩ rằng nay Bồ Tát Thiện Thuận ấy ở nơi phạm hạnh chẳng hề biếng trễ, phải chăng là vì cầu ngôi Đế Thích hay muốn làm vua và hưởng dục lạc? Nghĩ như vậy rồi Thiên Đế hóa làm bốn người trai tráng đến trước Thiện Thuận Bồ Tát nói lời xấu ác mắng nhiếc lại dùng dao gậy chém đập và ngói đá ném chọi Bồ Tát. Thiện Thuận Bồ Tát an trụ sức từ nhẫn đều chịu đựng những sự gia hại ấy không hề giận hờn. Thiên Đế lại hóa làm bốn người trai tráng khác đến bão Bồ Tát «Ôi thưa Ngài Thiện Thuận! Bọn người ác kia đánh mắng Ngài thậm tệ nếu Ngài bão chúng tôi báo thù cho Ngài thì chúng tôi sẽ vì ngài mà giết chết bọn ác ấy « Thiện Thuận Bồ Tát liền nói với bốn trai tráng ấy rằng: «Nầy các thiện nam tử! Các anh chớ nói như vậy, nếu giết hại thì thành ác nghiệp. Dầu cho có người đến chém nát thân thể tôi như lá táo tôi trọn chẳng sanh lòng giận thù giết hại. Tại sao? Vì kẻ giết hại bị đọa địa ngục ngạ quỉ súc sanh cho đến dầu được thân người họ cũng chẳng yêu thương cha mẹ đẻ của họ, thường bị mọi người ghét bỏ. Nầy thiện nam tử! tất cả pháp phàm có hai loại thiện và bất thiện. Do pháp bất thiện mà đọa ác đạo. Nếu y theo pháp thiện thì được pháp lợi."

Muốn tuyên lại nghiã ấy Thiện Thuận Bồ Tát nói kệ rằng:

 Thiện ác như gieo trồng
Đều theo nghiệp mà sanh
Nào có hột giống đắng
Mà sanh trái chín ngọt
Hiện thấy pháp như vậy
Người trí phải suy xét
Khổ báo đền ác nghiệp
Làm lành thường an vui "

Bị từ chối bọn người nầy liền bỏ đi.

Bấy giời Thiên Đế lại hóa ra khối châu báu vàng bạc rồi sai các trai tráng đến nói với Bồ Tát ấy rằng Ngài có thề phương tiện lấy của báo ấy tùy ý tiêu dùng. Thiện Thuận Bồ Tát bảo rằng: Các anh chớ nói như vậy. Tại sao? Vì nghiệp trộm cắp hay khiến chúng sanh nghèo cùng hạ tiện không chỗ nương tựa. Dầu tôi có nghèo đến không đủ sống cũng trọn chẳng trộm cắp. Kẻ phàm phu ngu mê tham cầu trộm cắp. Nào có người trí lại làm nghiệp ác ấy ".

Bồ Tát nói kệ rằng:

«Chứa của đến ngàn ức
Lòng tham lam chẳng xà
Người trí nói người ấy
Thường nghèo khổ ở đời
Người dầu không một vật
Mà lòng luôn xả ly
Người trí nói kẻ ấy
Ở đời rất giàu sang
Người trí lìa các ác
Tất cả đều đoan nghiêm
Người ngu do tạo nghiệp
Toàn thân đều thô xấu
Người trí khuyên làm lành
Người ngu luôn làm ác
Thà bị người trí mắng
Chẳng cần người ngu khen".

Nghe Bồ Tát nói như vậy các người ấy liền bỏ đi. 
Thiên Đế lại tự thân đến chỗ Bồ Tát tay cầm trăm ngàn lượng vàng bão rằng: « Vừa rồi ở trước vua Ba Tư Nặc trong thành xá vệ tôi cùng người tranh luận cần có một người làm chứng, nếu Ngài có thể làm chứng nhơn cho tôi thì tôi xin tặng cả số vàng nầy ».

Thiện Thuận Bố Tát nói với Thiên Đế: Ngài nên biết rằng phàm vọng ngữnghiệp bất thiện, đã tự dối mình còn dối cả Thiên Long Bát Bộ. Vọng ngữ còn có thể làm gốc cho tất cả điều ác cảm lấy ác báo: Hư tịnh giới, hoại sắc thân, hơi miệng hôi thúi, lời nói ra bị người coi rẻ *.

Thiện Thuận Bồ Tát nói kệ rằng: 

« Người phạm vọng ngữ 
Hơi miệng thường hôi 
Vào ác đạo khổ 
Không ai cứu được 
Phàm người vọng ngữ 
Tự dối lấy mình 
Cũng phỉnh Thiên Long 
Bát Bộ Quỉ Thần 

Nên biết vọng ngữ 
Làm gốc nhữ ác 
Phá giới thanh tịnh 
Chết đọa tam đồ 
Dầu ông cho tôi 
Vàng đầy diêm phù 
Tôi trọn chẳng thể
Làm người vọng ngữ « .

Nghe những lời trên Thiên Đế bỏ đi rồi lại sai Xá Chi phu nhơn Nhựt Quang Phu nhơn và Ngũ Kế các phu nhơn lại đến chỗ Thiện Thuận Bồ Tát thử phá tịnh giới của Bồ Tát ấy. Chư phu nhơn cùng năm trăm thanh nữ ướp hương đeo hoa đêm khuya ấy đến trước Bồ Tát nói rằng: « Chúng nữ nhơn tôi thanh niên sắc đẹp tình nguyện hầu dưới gối cùng ông hoan lạc. Thiện Thuận Bồ Tát dùng mắt vô nhiễm quan sát chúng nữ nhơn mà bão họ rằng: Những kẽ cuồng loạn những kẻ tà tâmđịa ngục súc sanh ngạ quỉ say đắm hôi dơ mủ máu bất tịnh các la sát hung ác là thân hữu của các người chớ chẳng phải quyến thuộc của chư Thiên thanh tịnh « .

Thiện thuận Bồ Tát nói kệ rằng: 

« Người ngu hôn mê nhớ bất tịnh 
Nhiễm trước thân mũ máu hôi dơ 
Dục lạc mau hết đều vô thường 
Đọa mãi địa ngục súc ngạ quỉ 
Dầu có biến hóa như các người 
Thân hình xinh đẹp đầy thế gian 
Ta trọn không sanh một niệm nhiễm 
Thường tưởng như mộng như oán thù ".

Các phu nhơn Xá chi v.v…dầu dùng hết cách quyến rũBồ Tát ấy không hề tham nhiễm nên cùng trở về thiên cung thưa với Thiên Đế rằng: Chúng tôi thấy Thiện thuận chí nguyện vững chắc sẽ thành Chánh giác không nghi. Tại sao? Vì Bồ Tát ấy đối với chúng tôi không có chút niệm tham ái chỉ có tâm yểm ly. Dầu nghe nói như vậy nhưng Thiên Đế vẫn lo buồn như bị trúng tên độc sợ người ấy sẽ đoạt ngôi vị của mình, ta nên đến thử lại coi, ông ấy thiệt nguyện cầu sự gì? Nghĩ xong Thiên Đế đến trước Bồ Tát ấy bỏ kiêu mạn đảnh lễ nơi chưn rồi nói kệ hỏi rằng: 

"Nay Ngài siêng tu hạnh thanh tịnh 
Trong các ước nguyện cầu những gì 
Là cầu Thích Phạm các Thiên Vương 
Hay cầu các ngôi vua ba cõi "

Thiện Thuận Bồ Tát nói kệ đáp Thiên Đế

« Tôi xem Thích Phạm các Thiên Vương 
Ngôi vua loài người báo ba cõi 
Tất cả vô thường không vững chắc
Nào có người trí cầu như vậy ».

Thiên đế lại hỏi « Như lời Ngài nói thì Ngài cầu sự gì? "..

Thiện Thuận Bồ Tát nói kệ đáp Thiên Đế

« Tôi vốn chẳng tham vui thế gian 
Chỉ cầu được thân bất sanh diệt 
Siêng tu phương tiện cứu quần sanh 
Nguyện cầu lên kia đường Bồ Đề «.

Nghe kệ xong lòng Thiên Đế an vui biết chắc Bồ Tát chẳng cầu ngôi Thiên Đế, vui mừng hớn hở nói kệ rằng: 

«Ngài nói tế độ các chúng sanh 
Tâm ấy rộng lớn không gì bằng 
Nguyện phá ma quân chứng cam lộ 
Do đó hằng chuyễn diệu pháp luân «

Nói kệ tán thán xong, Thiên Đế cung kính đi nhiễu vòng quanh lạy chưn Bồ Tát rồi bỗng ẩn mất. 

Sáng sớm Thiện Thuận Bồ Tát vào Thành Xá Vệ du hóa qua lại được cái linh bằng vàng Diêm phù thưở kiếp sơ. Cái linh vàng ấy giá trị hơn cõi Diêm Phù. Bồ Tát cầm linh vàng ất đứng tại ngã tư đường to tiếng xướng rằng: « Ai là người nghèo cùng nhất nơi thành Xá Vệ tôi sẽ thí cho cái linh vàng nầy «.

Bấy giờ có vị tối thắng lão cựu trưởng giả vội chạy đến nói trong thành nầy tôi là kẻ nghèo cùng nhứt xin thí cho tôi cái linh ấy. Bồ Tát nói ông chẳng phải người nghèo cùng, vì trong thành nầy còn có một thiện nam nghèo nhứt trong các người nghèo sẽ được thí cho cái linh nầy. Trưởng giả hỏi người đó là ai vậy. Bồ Tát đáp chính là vua Ba Tư Nặc. Trưởng giả nói « Vua Ba Tư Nặc giàu sang nhứt kho tàng đầy dẫy dùng không cùng tận sao ông lại bão là nghèo nhứt trong các kẻ nghèo «.
Ở giữa đại chúng Thiện Thuận Bồ Tát nói kệ đáp rằng: 

« Dầu có phục tàng ngoài ngàn ức
Do lòng tham ái không chán đủ 
Dường như biển cả nuốt trăm sông 
Người ngu như vậy nghèo cùng nhứt 
Do đó lại khiến thêm lòng tham 
Xoay vần lan tràn nối nhau sanh 
Trong đời hiện tạivị lai 
Người vô trí ấy thường nghèo thiếu «.

Nói kệ xong Thiện Thuận Bồ Tát cùng đại chúng đi Đến chỗ vua Ba Tư Nặc. Nhằm lúc nhà vua ấy với năm trăm trưởng giả đại thần tính lường các kho tàng của báu. Bồ Tát liền đến trước nhà vua tâu rằng: « Vừa rồi tôi qua lại du hóa trong thành nầy được cái linh vàng Diêm Phù từ kiếp sơ giá trị hơn cả châu Diêm Phù. Tôi muốn đem linh nầy thí cho ngừời nghèo nhứt trong thành đây. Tôi lại nghĩ rằng người nghèo cùng không ai hơn nhà vua, nên tôi đem cái linh vàng nầy đến dâng . Nhà vua đã là người nghèo cùng nhứt xin nhận lấy cái linh vàng nầy «.

Tâu xong Thiện Thuận Bồ Tát lại nói kệ rằng:

« Nếu người nhiều tham cầu 
chứa của không chán đủ 
Người cuồng loạn như vậy 
Gọi là nghèo cùng nhất 
Vua luôn thâu thuế nhiều 
Phạt ngang kẻ vô tội 
Tham mến nơi quốc thành 
Chẳng thấy nghiệp đời sau 
Ở đời được tự tại 
Chẳng giúp đỡ chúng sanh 
Thấy các người nghèo khổ 
Không hề biết thương xót 
Say mê các nữ nhơn 
Chẳng sợ đọa ác đạo 
Tà loạn chưa từng tỉnh 
Há chẳng phải nghèo cùng 
Nếu người biết tịnh tín 
Quy y Phật Pháp Tăng 
Nơi thân mạng của cải 
Thường nghĩ là chẳng bền 
Biết là chẳng bền rồi 
Chẳng mê hoặc thân của 
Nên được thân mạng tài 
Vĩnh viễn thường vững chắc 
Nếu siêng tu niệm xứ
Ưa thích bất phóng dật 
Người nầy gọi là giàu 
Của nhiều thường an vui 
Như lúc lửa cháy hừng 
Chẳng chê nhàm rừng cây 
Nay vua cũng như vậy 
Tham ái không chán đủ 
Nước chẳng chán mây mù 
Biển chẳng chán nhiều nước 
Nhà vua cũng như vậy 
Có lúc nào chán đủ 
Nhựt nguyệt thường luân chuyển 
Chẳng chán đi bốn phương 
Nhà vua cũng như vậy 
Đến chết không thôi dứt 
Như lúc lửa cháy lên 
Chẳng chán bỏ cỏ cây 
Người trí cũng như vậy 
Luôn luôn làm điều lành 
Như nuớc chẳng chán mây 
Như biển chẳng chán nước 
Người trí cũng như vậy 
Chẳng chán tăng trưởng lành
Ngôi vua dù tự tại 
Rốt ráo về vô thường 
Tất cả đều bất tịnh 
Người trí nên xả ly».

Nghe xong nhà vua hổ thẹn bảo Bồ Tát rằng: «Lành thay, thưa Ngài, dầu Ngài khuyên điều lành mà tôi còn chưa tin. Theo những điều Ngài vừa nói đó là Ngài tự nói hay có người chứng minh «.

Thiện Thuận Bồ Tát nói: «Nhà vua chẳng nghe ư? Đức Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác Nhứt thiết trí nay hiện ở ngoài thành Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng vô lượng Thiên Nhơn Bát Bộ sẽ chứng minh Đại Vương là người nghèo cùng «.

Vua Ba Tư Nặc nói: «Tôi xin cùng Ngài đến chỗ đức Phật để được nghe lời răn dạy và quy y cúng dường «.

Thiện Thuận Bồ Tát nói với vua rằng: « Đại Vương nên biết cảnh giới Phật chẳng phải hàng phàm ngu lường biết được. Đức Phật đã phá phiền não mạn thương xót chúng sanh thành tựu thánh trí hay biết rõ đời nay và đời sau. Nếu người có ý nguyện thiện căn thù thắng thì dù ở rất xa đức Phật cũng thường gia hộ.Nếu đức Phật biết lòng tôi muốn được Đại Vương tin nơi lời tôi, đức Phật sẽ đến đây tác chứng cho tôi. «.

Bồ Tát liền trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay cung kính nói kệ thỉnh Phật

Như Lai chơn thiệt trí 
Thương yêu các quần sanh 
Nguyện biết thâm tâm tôi 
Đoái thương đến tác chứng «.

Lúc Bồ Tát tuyên kệ thỉnh xong đại địa bỗng rung động nứt ra, năm trăm Thanh Văn mười ngàn Bồ Tát Thiên Long Bát Bộ đoanh vây đức Như Lai từ đất vọt lên. Thiện Thuận Bồ Tát đến trước đức Phật chấp tai cung kính bạch rằng: «Bạch đức Thế Tôn! Vừa rồi tôi đi du hóa trong thành Xá Vệ nầy được cái linh vàng Diêm Phù từ kiếp sơ giá trị hơn cả châu Diêm Phù. Tôi muốn đem linh nầy thí cho người nghèo cùng nhứt trong thành Xá Vệ. Tôi lại nghĩ rằng vua Ba Tư Nặc là người nghèo cùng nhứt trong thành nầy. Tại sao? Vì cậy ngôi vua nên đối với các chúng sanh chưa từng thương xót, tàn hại bóc lột cướp đoạt xâm tổn ngang của người, bị tham ái che lấp chẳng biết chán đủ. Tôi cho nhà vua là người nghèo cùng nhứt nên đem linh vàng dâng lên vua. Nhà vua ấy hỏi tôi ông bảo tôi nghèo có ai chứng minh chăng? Tôi đáp rằng đức Như Lai Đại Sư Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác dứt bỏ phiền não không còn sót thừa bình đẳng thương yêu chúng sanh sẽ chứng minh lời của tôi. Ngưỡng mong đức Thế Tôn dạy bảo cho được lợi ích vui mừng «.

Vì muốn điều phục nên đức Phật nói với vua Ba Tư Nặc rằng: «Hoặc có ở nơi pháp Thiện Thuận nghèo cùng còn vua thì giàu sang, hoặc có ở nơi pháp vua nghèo cùng mà Thiện Thuận thì giàu sang. Như thân lên ngôi vua tự tại vàng bạc châu báu kho tàng đầy dẫy, bấy giờ vua giàu sang mà Thiện Thuận thì nghèo cùng. Như siêng tu phạm hạnh thích tịnh giới xuất gia đa văn lìa phóng dật đem ngũ giới bát trai cứu tế không mỏi thì vua thiệt nghèo cùng mà Thiện Thuận thì giàu sang

Đại Vương nên biết rằng tất cả tài vật của tất cả chúng sanh trong nước Kiều Tát La đem so với ngũ giới bát trai của Thiện Thuận thọ trì kiên cố thanh tịnh không bằng một phần trăm ngàn. 

Vua Ba Tư Nặc nghe lời dạy chơn thiệt của Đức Như Lai liền bỏ kiêu mạng chắp tay ân cần chiêm ngưỡng Thiện Thuận mà kệ rằng: 

Lành thay xô dẹp ngã mạn tôi 
Sẽ được thân Phập rất tối thắng 
Tôi đem ngôi vua xả cho ngài 
Nguyện hằng làm chúng Bồ Đề ngài 
Thiệt tôi nghèo cùng Ngài thì giàu 
Nay biết lời nầy chẳng phải dối 
Ngôi vua luống làm nhơn gây khổ 
Trái với pháp lành sanh ác đạo «.

Nói kệ xong vua Ba Tư Nặc bạch Phật rằng: «Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm Vô thượng đại Bồ đề nguyện cho chúng sanh an lạc giải thoát sanh tử trói buộc. Nay tôi nguyện đem kho tàng vàng bạc tài vật chia làm ba phần: Một phần cúng dướng đức Như Lai và chúng Tỳ Kheo, một phần thí cho người nghèo cùng khổ não không nơi nương tựa trong thành Xá Vệ, một phần tài vật lưu dụng việc nước. Tất cả vườn ao hoa quả của tôi đều nguyện dâng lên Đức Như Lai và chùng Tỳ Kheo. Mong đức Như Lai đoái thương nạp thọ «.

Bấy giờ năm trăm trưởng giả nước Kiều Tát La thấy sự việc như vậy đều phát tâm Vô thượng Bồ Đề

Thiện Thuận Bồ Tát bạch Phật: «Ngửa mong đức Thế Tôn vì hàng đại chúng nói pháp yếu, khiến các chúng sanh những người được gặp Phật không luống uổng «.
Đức Phật phán dạy: «Các thiện nam tử! Có ba tư lương vô lượng công đức dầu chư Như Lai có tuyên nói cũng chẳng hết được, huống là hàng Thanh Văn Duyên Giác. Những gì là ba tư lương? Một là hộ trì chánh pháp, hai là phát tâm Bồ Đề, ba là khuyên các chúng sanh khởi nguyện vô thượng

Lại còn có ba mươi hai pháp, nếu các thiện nam tử thiện nữ nhơn có thể siêng tu tập thì là chẳng luống uổng thấy đức Như Lai. Những gì là ba mươi hai pháp? Một là ở nơi chư Phật sanh lòng tin bất hoại, hai là hộ trì chánh pháp cho còn lâu, ba là đối với Tăng tôn trọng thì chẳng khinh mạn,bốn là đối với người ứng cúng thì cung kính thân cận, năm là nơi thương nơi ghét tâm thường bình đẳng, sáu là hằng đối với chánh pháp thích nghe cung kính, bảy là an trụ vắng vẻ rời lìa ồn ào, tám là ở nơi Phật thừa diễn nói không mỏi, chín là lúc thuyết pháp chẳng vì danh lợi, mười là chí cầu chơn thiệt đúng lý siêng tu, mười một là xả thí, mười hai là trì giới, mười ba là nhẫn nhục, mười bốn là tinh tiến, mười lăm là chánh định, mười sáu là chánh huệ, mười bảy là đối với chúng sanh tùy hỉ hộ niệm, mười tám là thành thục chúng sanh chẳng quên mất chánh pháp, mười chín là ở nơi tự thân khéo tự điều phục, hai mươi là dùng pháp yếu lành điều phục mọi người hai mươi mốt là chẳng nhiễm phiền não, hai mươi hai là thường thích xuất gia, hai mươi ba là ở a lan nhã, hai mươi bốn là biết đủ đối với bốn thánh chủng, hai mươi lăm là siêng tu đầu đà, hai mươi sáu là bỏ pháp bất thiện, hai mươi bảy là hoằng thệ vững chắc, hai mươi tám là vắng vẻ không giải đãi, hai mươi chín là trồng các gốc lành, ba mươi là thường chẳng phóng dật, ba mươi mốt là xa rời kiến chấp Nhị thừa, ba mươi hai là tán thán đại thừa «.

 Nghe pháp nầy năm trăm Tỳ Kheo xa trần lìa cấu được pháp nhãn tịnh và một vạn hai ngàn chúng sanh đồng phát tâm vô thượng Bồ Đề

Đem pháp giáo hóa khiến các chúng sanh được thiện lợi xong, đức Thế Tôn cùng chư Tỳ Kheo và chúng Bồ Tát bỗng ẩn mất. Vua Ba Tư Nặc thấy sự ấy rồi vui mừng hớn hở liền đem hai cái y giá trị trăm ngàn lượng vàng thí cho Thiện Thuận Bồ Tát mà thưa rằng: «Lành thay thưa Ngài xin thương tôi mà nạp thọ «.Thiện Thuận Bồ Tát nói với vua rằng: «Tâu Đại Vương! Tôi chẳng nên nhận hai cái y nầy. Tại sao? Vì tôi đã có y bá nạp hằng máng trên nhánh cây như là đựng trong rương tủ, tất cả mọi người không có ý tưởng trộm lấy. Tôi đã tự không lòng tham lẫn cũng làm cho người chẳng sanh lòng ái trước, có ai bố thí thì gọi là thanh tịnh bố thí «.

Vua Ba Tư Nặc lại nói nếu Ngài chẳng nhận thì xin vì tôi mà đạp lên hai y nầy, khiến tôi mãi mãi an lạc lợi ích

Bồ Tát liền vì vua nên hai chưn đạp lên hai cái y ấy. 

Vua Ba Tư Nặc lại bão Bồ Tát rằng:»Nay hai cái y ấy đã được chính thân Ngài vì tôi mà nhận rồi, tôi nên dùng nó làm việc gì?».

Thiện Thuận Bồ Tát nói với vua rằng: « Đại Vương đem hai cái y nầy thí cho kẻ nghèo cùng không chỗ nương tựa trong thành «.

Vua Ba Tư Nặc y lời Bồ Tát hội hộp chúng người nghèo lại rồi đem hai cái y ấy thí cho họ. Các người nghèo chạm đến hai cái y ấy, người cuồng được tỉnh, người điếc được nghe, người mù được thấy, người thiếu căn được đủ căn, đó là do sức oai thần của Bồ Tát vậy. Mọi người đồng lên tiếng rằng: «Chúng tôi lấy gì báo ơn Bồ Tát! «.Trên hư không có tiếng bảo rằng: Chúng nhơn nên biết đối với Thiện Thuận Bồ Tát chẳng thể dùng hoa hương ăn uống báo ơn được, chỉ phải mau phát tâm Bồ đề thôi. 

Năm trăm người nghèo nghe tiếng nói trên không, họ liền nói kệ rằng: 

Nay đây chúng tôi 
Phát tâm Bồ Đề 
Sẽ thành chánh giác 
Tuyên thuyết thắng pháp 
Ở nơi chúng sanh 
Ban cho an lạc
Tôi thích Bồ Đề 
Vì được Phật Pháp «.

Vua Ba Tư Nặc nói với Bồ Tát rằng: «Lành thay thưa Ngài, nếu lúc nào Ngài muốn đến gặp đức Phật xin báo cho tôi biết tôi sẽ xin tùy tùng «.

Thiện Thuận Bồ Tát nói: « Đại Vương nên biết chư Phật khó gặp chánh pháp khó nghe, há có riêng mình nhà vua đi đến chỗ đức Phật! Đại Vương nên cùng chúng sanh làm thiện hữuĐại Vương nên truyền lịnh cho tất cả người thành Xá Vệ đều tùy tùng, người nào trái lệnh thì dùng pháp luật trị phạt. Tại sao? Vì chư Bồ Tát còn có quyến thuộc đoanh vây huống là đại vương «.

Vua Ba Tư Nặc hỏi: «Ai là quyến thuộc của Bồ Tát? «.

Thiện Thuận Bồ Tát đáp: «khuyên phát tâm Bồ Đềquyến thuộc của Bồ Tát vì là cho giác ngộ vậy khuyên thấy đức Như Laiquyến thuộc của Bồ Tát vì chẳng hư vọng vậy. Khuyên nghe chánh phápquyến thuộc cuả Bồ Tát vì được đa văn vậy. Khuyên thấy Thánh chúngquyến thuộc của Bồ Tát vì được thiện hữu vậy. Tứ nhiếp là quyến thuộc cuả Bồ Tát vì nhiếp chúng sanh vậy. Sáu Ba La mậtquyến thuộc của Bồ Táttăng trưởng Bồ đề vậy. Ba mươi bảy phẩm trợ đạoquyến thuộc của Bồ Tát vì hướng đạo tràng vậy. Bồ Tát có ngần ấy quyến thuộc trang nghiêm thị vệ hay dẹp quân ma đến sư tử hống lên tọa tối thắng vậy «.

Vua Ba Tư Nặc cùng đại chúng vui mừng hớn hở, chín ngàn chúng sanh lìa cấu phiền não được thanh tịnh nhãn. 

Đức Phật nói kinh nầy rồi, Thiện Thuận Bồ Tát, vua Ba Tư Nặc cùng hàng trời Người Thiên Long Bát Bộ nghe lời Phật nói hoan hỉ phụng hành

PHÁP HỘI THIỆN THUẬN BỒ TÁT
THỨ HAI MƯƠI BẢY
HẾT

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11962)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11114)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11347)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12065)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12561)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10767)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17984)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11728)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9949)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12350)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15342)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12096)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12002)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12406)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11185)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12086)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10616)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12556)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13173)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14841)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12686)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16578)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19666)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13110)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12670)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12265)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11851)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10903)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13524)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11951)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11843)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11636)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12768)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14517)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13626)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12895)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9876)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18017)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11165)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12175)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10311)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12199)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15314)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12217)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11482)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14271)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant