Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

28-pháp Hội Dũng Mãnh Thọ Trưởng Gỉa

01 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7689)
28-pháp Hội Dũng Mãnh Thọ Trưởng Gỉa

KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XXVIII
Pháp hội

DŨNG MÃNH THỌ TRƯỞNG GỈA

Thứ hai mươi tám

Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt Dịch: Việt Nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội, đều là A La Hán các lậu đã hết không còn phiền não, được thượng điều phục như đại long, chỗ làm đã xong bỏ những gánh nặng đã được lợi mình hết kiết sử các cõi, chánh trí giải thoát tâm được tự tại, tối thượng ứng cúng mọi người được quen biết, chỉ có Ngài A Nan còn ở tại bực hữu học. Tên của các Ngài ấy là:A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Ca Thấp Ba, Xá Lợi PhấtĐại Mục Kiền Liên
Ma Ha Kiếp Tân Na, Ma Ha Câu Si La, Ma Ha Phạm Phả, La Hầu La, Nan Đà v.v…làm bực thượng thủ

Lại có năm trăm đại Bồ Tát câu hội đều được tam muộiđà la ni

Bấy giờ trong thành Xá Vệtrưởng giả tên Dũng Mãnh Thọ giàu có nhiều của báu kho đụn đầy tràn, những vàng bạc lưu ly xa cừ mã não san hô hổ phách ma ni chơn châu voi ngựa bò dê kẻ hầu người hạ các loại buôn bán tất cả đều nhiều. Trưởng giả Dũng mãnh Thọ cùng năm trăm trưởng giả yến hội nghị rằng: «Nầy các Ngài! Phật xuất thế khó, được thân người khó, gặp Phật cũng khó, ở trong Phật pháp do lòng tinh xuất gia cũng khó, thành tánh Tỳ kheo lại càng khó, đúng phép tu hành cũng khó, biết ơn báo ơn mang chút ơn chẳng quên người nầy khó có, ở nơi Phật pháp có thể sanh lòng tin ưa người nầy khó được, tin ưa thành tựu việc nầy lại khó, trang nghiêm Phật pháp sự nầy cũng khó, giải thoát sanh tử càng khó gấp bội. Chúng taThanh Văn thừa Bích Chi Phật thừa mà cầu diệt độ hay sẽ phát xu tối thượng Phật thừa».

Mọi người đều xướng lên rằng: «Chúng ta phải ở nơi vô thượng Phật đạo mà chứng Niết Bàn ».

Chúng trưởng giả quyết nghị xong cùng xuất thành đến rừng Kỳ Đà đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu ba vòng ngồi qua một bên. 

Đức Thế Tôn biết mà cố ý hỏi: «Chư trưởng giả có duyên gì nay đến chỗ Phật? ».

Trưởng giả Dũng Mãnh Thọ cùng năm trăm trưởng giả đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chấp tay cung kính bạch Phật rằng: «Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đồng tập hội nghị rằng: Phật xuất thế khó, thân người khó được nhẫn đến giải thoát sanh tử càng khó gấp bội, nay chúng ta sẽ ở nơi Thanh Văn Thừa, Bích Chi Phật thừa mà cầu diệt độ hay sẽ phát xu vô thượng Phật thừa! Chúng tôi đồng xướng lên rằng: chúng ta phải ở nơi vô thượng Phật đạo mà chứng Niết bàn. Do quyết nghị ấy mà chúng tôi đến chỗ đức Như Lai Đẳng Chánh Giác

Bạch đức ThếTôn! Đại Bồ Tát chí cầu vô thượng Bồ đề, phải học thế nào? Trụ thế nào? Tu thế nào? .

Đức Phật nói: «Lành thay lành thay! Các ông phát xu Vô thượng Bồ đề đến chỗ Phật phải lắng nghe kỹ khéo nghĩ nhớ lấy. Như chư đại Bồ Tát nên học nên trụ nên tu sẽ vì các ông mà nói ».

Chúng trưởng giả vâng lời dạy lắng nghe. 

Đức Phật phán dạy: «Nầy chư trưởng giả! Đại Bồ Tát ở nơi vô thượng Bố đề có chí nguyện thù thắng phải đối với tất cả chúng sanh khởi tâm đại bi, phải rộng tu hành phải siêng huân tập. Vì thế nên Bồ Tát ở nơi thân thể sanh mạng tài sản vợ con kho tàng nhà cửa uống ăn y phục xe cộ mền nệm hoa hương tất cả đồ dùng phải là không ái trước. Tại sao?Vì chúng sanh chấp trước nơi thân mà tạo nghiệp ác, do nghiệp ác mà đọa trong địa ngục. Nếu đối với chúng sanh khởi tâm đại bi thì chẳng chấp trước thân mạng tài và sẽ sanh thiện đạo. Đại Bồ Tát ở nơi vô thượng Bồ đềchí nguyện thù thắng đối với chúng sanh khởi từ bi rồi phải tu đại xả mà chẳng cầu báo, người chẳng cầu báo phải an trụ giới luật, ba giới thanh tịnh rồi phải đủ nhẫn nhục hay nhẫn các điều ác hại rồi nên phát khởi tinh tiến chẳng tiếc thân mạng, nên tu nhứt tâm an trụ thiền định, nên tu trí huệ thiện xảo phương tiện, phải ở nơi ngã nhơn chúng sanh thọ mạng đều xả ly. Vì chúng sanh nên hành bố thí thọ trì cấm giới, vì chúng sanh nên tu nhẫn nhục phát khởi tinh tiến, vì chúng sanh nên nhập thiền định tu tập trí huệ thiện xảo phương tiện ».

Chúng trưởng giả bạch Phật: «Bạch đức Thế Tôn! Ở nơi thân mạngvợ con tất cả tài vật lòng chúng tôi thường mến tiếc. Đại Bồ Tát quan sát thế nào ở nơi thân mạng tài có thể không tham lẫn? ».

Đức Phật phán dạy: «Nầy thiện nam tử! Đại Bồ Tátchí nguyện thù thắng nơi Vô thượng Bồ Đề phải quan sát thân nầy có vô lượng lỗi họa, các vi trần tích tập sanh trụ dị diệt niệm niệm dời đổi, chín cửa chảy dơ như hang rắn độc, trong ấy không chủ như xóm hoang vắng, rốt ráo phá hoại như ngói bình chưa nung, nước dơ đầy tràn như chậu phẩn dãi, chứa những bất tịnh như hầm tiêu, chẳng động chạm đến được như nhọt dữ, tham ngon bị họa như món ăn lộn chất độc, chẳng biết ơn đức như Vị Sanh Oán, khi dối mọi người như ác tri thức, bị si ái hại như làm bạn khỉ vượn, dứt mạng trí huệ như sát nhơn, đoạt các pháp lành như trộm cướp, thường tìm dịp hại như oán thù, không có từ tâm như người hàng thịt, khó hầu gần như kẽ bạo ác, như tên cắm vào thân động tới thì đau như nhà hư mục phải luôn sửa sang, như xe cũ hư khó dùng, như hộp rắn độc khó gần, như quán trọ chỗ họp của kẻ mệt mõi, như nhà cô độc không bị nhiếp thuộc, như lính ngục chuyên hai,như vua lo nước, như thành trì biên giới phải phong sợ, như ác quốc nhiều tai họa, như chén bể khó cầm, như thờ lửa không chán, như dương diệm hư dối, như huyễn hóa mê hoặc người như lột dây chuối không lõi cứng, như khối bọt nước chẳng nắm cầm được, như bong bóng nước mau sanh mau diệt, như cây bờ sông lâm nguy lai động, như giòng sông chảy xiết trọn đến biển chết. 

Bồ Tát lại quan sát thân nầy nhơn duyên trước sau của nó, ban đầu do dục ái hòa hiệp mà sanh, vì nuôi lớn lên nuốt đồ ăn vào đến sanh tạng đàm ấm tiêu hóa, kế vào đến huỳnh tạng lúc sắp thục thì biến làm chất chua, kế vào đến phong tạng do phong lực chia ra nước và cặn bã lưu hành riêng thành đại tiểu tiện. Nước biến ra máu máu biến thành thịt, trong thịt sanh mỡ, nơi mỡ sanh xương sanh tủy. Nhơn duyên của thân thể trước sau đều bất tịnh như vậy.

Khi quan sát như trên Bồ Tát lại nên suy nghĩ: Thân nầy do ba trăm sáu mươi khối xương ráp thành như nhà mục hư, các lóng đốt chi trì dùng bốn lưới mạch giăng bủa giáp vòng, năm trăm phần thịt như bùn tô trét, sáu mạch cột nhau, năm trăm gân ràng rịt, bảy trăm mạch nhỏ dùng làm lạc bện, mười sáu mạch to câu mang liền nhau, có hai sợi dây thịt dài ba tầm rưỡi vấn gút nơi trong, mười sáu trường vị vây quanh sanh tạng thục tạng, hai mươi lăm mạch hơi như kẻ song, ,một trăm lẻ bảy cửa huyệt như bình bể nát, tám vạn lỗ lông như cỏ loạn trùm, năm căn bảy khiếu đầy tràng chất dơ, bảy lớp da gói ghém, lục vị nuôi lớn như thờ lửa nuốt thâu chẳng chán. 

Thân thể như vậy tất cả hôi dơ tánh chất thúi rã. Có ai nên ái trọng nó mà sanh kiêu mạn.Chỉ nên quan sát nó như giữ cái bình, như gìn chiếc xe, nuôi dưỡng nó để được đến Bồ Đề vậy ».

Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 
«Thân nầy là chậu dơ 
Dường như bình đựng phẩn 
Phàm phu không trí huệ 
Cậy sắc sanh kiêu mạn
Trong mũi hằng chảy mũi 
Hơi miệng luôn hôi hám 
Mắt ghèn thân đầy trùng
Ai nên tưởng lạc sạch 
Như người cầm hòn than 
Mài dồi muốn trắng bóng 
Dầu mài đến mòn hết 
Thể sắt than không đổi 
Dầu muốn thân mình sạch 
Rửa hết cả nước sông 
Thân trọn không sạnh được 
thể chất vốn dơ.

Nầy các thiện nam tử! Nếu Bồ Tát phát chí nguyện thù thắng hướng đến vô thượng Bồ đề thì nên quan sát thân thể nầy bốn mươi bốn thứ: 

Một là thân nầy đáng chán vì tánh không hòa hiệp vậy. Hai là thân nầy hôi dơ vì máu mủ thường chảy vậy. Ba là thân nầy chẳng bền vì cứu cánh bại hoại vậy. Bốn là thân nầy yếu đuốichi tiết trì nhau vậy. Năm là thân nầy chẳng sạch vì chất dơ dáy đầy tràn vậy. Sáu là thân nầy như ảo thuật vì phỉnh gạt phàm phu vậy. Bảy là thân nầy như miệng nhọt vì cửu khiếu thường chảy vậy. Tám là thân nầy lửa cháy vì lửa dục thạnh vậy. Chín là thân nầy là lửa vì lửa giận mạnh vậy. Mười là cháy khắp vì lửa si cháy khắp vậy. Mười một là thân nầy tối tămtham sân si vậy. Mười hai là thân nầy sa lưới vì bị lưới ái trùm vậy.Mười ba là thân nầy là khối ung nhọt vì đầy ung nhọt vậy. Mười bốn là thân nầy chẳng an vì bốn trăm lẻ bốn bệnh vậy. Mười lăm là chỗ ở của côn trùng vậy. Mười sáu là thân nầy vô thườngcứu cánh phải chết vậy. Mười bảy là thân nầy ngoan si vì không rõ các pháp vậy. Mười tám là như đồ sành vì sanh trụ hoại vậy. Mười chín là bức bách vì nhiều lo sầu vậy. Hai mươi là không được cứu hộ vì chắc hoại diệt vậy. Hai mươi mốt là hiểm ác vì siễm cuống khó biết vậy. Hai mươi hai là như hố không đáytham muốn không chán vậy. Hai mươi ba là như lửa nhận củi vì tham sắc chẳng nhàm vậy. Hai mươi bốn là không nhàm đủ vì tham thọ ngũ dục vậy. Hai mươi lăm là như bị đập đánh vì bị tổn hại vậy. Hai mươi sáu là bất định vì thạnh suy tăng giảm vậy. Hai mươi bảy là thân chuyển theo tâm vì chẳng chánh tư duy vậy. Hai mươi tám là chẳng biết ơn vì chắc bỏ gò mả vậy. Hai mươi chín là bị kẻ khác ăn vì chồn sói kiến mối ăn vậy. Ba mươi là như bộ máy vì gân xương chi trì vậy.Ba mươi mốt là chẳng khả quanmáu mủ phẩn dơ vậy. Ba mươi hai là chẳng tự do vì phải nương uống ăn vậy Ba mươi ba là hư vọng gói cột vì trọn bại hoại vậy. Ba mươi bốn là ác hữu vì nhiều nghịch hại vậy. Ba mươi lăm là kẻ giết hại vì nó tự tàn hại vậy. Ba mươi sáu là đồ khổ họa vì nhiều khổ bức bách vậy. Ba mươi bảy là khối khổ vì năm uẩn sanh vậy. Ba mươi tám là không có chủ vì các duyên sanh vậy. Ba mươi chính là không có mạng vì rời lìa tướng nam nữ vậy.Bốn mươi là rỗng không vì phải quán uẩn giới xứ vậy. Bốn mươi mốt là hư vọng vì như chiêm bao vậy. Bốn mươi hai là chẳng thiệt vì như huyễn hóa vậy. Bốn mươi ba là huyễn hoặc vì như dương diệm vậy. Bốn mươi bốn là thân nầy khi dối vì như bóng tượng trong gương vậy. 

Lúc quan sát thân thể như vậy, đối với thân mạng vợ con tài vật Bồ Tát đều lìa chán không còn ái luyến mau thành tựu sáu Ba la mật sớm được vô thượng Bồ đề ».

Đức Thế Tôn nói kệ rằng: 

« Được thân người tốt rất là khó 
Chớ vì thân nầy tạo nghiệp ác 
Cứu cánh gò hoanh nuôi chồn sói 
Chớ vì ác kíến sanh tham ái 
Phàm ngu mê hoặc vì cuồng si 
Do ái thân nầy tạo ác nghiệp 
Thân nầy cũng lại chẳng biết ơn
Ngày đêm chỉ thêm duyên khổ họa 
Cơ quan động chuyển thường mỏi nhọc 
Mũi qiải tiên lợi hằng tràn đầy 
Đói khát nóng rét luôn bức ngặt
Nào có người trí lại ái thân 
Thân nầy không nhàm như hố sâu 
Luống hay nuôi lớn những oán hại 
Do nơi thân nầy thường làm ác 
Phải thọ khổ báo vô lượng kiếp 
Nên nhớ gìa chết siêng tu phước 
Chánh tín sanh vào trong Phật pháp 
Uống ăn y phục các hương thoa 
Dưỡng nuôi thân nầy đã từ lâu 
Ai hay nắm giữ cho chẳng hoại
Phải biết vô ích chớ đam mê 
Đức Phật Như Lai rất khó gặp 
Trong vô lượng kiếp một lần hiện 
Đối với Phật pháp nên tin sâu 
Ác đạo đáng sợ chớ theo nó 
Dầu cho sống lâu ngàn kiếp năm 
Còn sợ vô thường sanh lòng chán 
Huống là giây lát chẳng bảo đảm
Phải bị trầm luân trong ác đạo
Hoặc có ác hữu đến khuyên bảo 
Thân người khó được nay đã được 
Cầu nhiều của báu hưởng dục lạc 
Kịp thuở khỏe mạnh vui chơi thỏa 
Có ai cầu của mà sung sướng 
Dầu được giữ gìn vẫn khổ nhọc 
Người ngu như vậy luống vọng ngôn 
Thế nên người trí phải quan sát 
Tài vật như ảo cũng như mộng 
Chúng sanh ngu si bị phỉnh lầm 
Trong sát na được sát na mất 
Đâu có người trí lại mến luyến 
Như nhà ảo thuật hóa ảo sự 
Thành càn Thát Bà nhiều hình sắc 
Của báu cũng vậy gạt phàm ngu 
Ở trong hư vọng nào có thiệt 
Chiu nhiều khổ não cầu tài lợi 
Nước lửa vua giặc thường xâm đoạt 
Do đây hay làm nhơn duyên khổ
Đâu có người trí sanh mến luyến 
Có những kẻ thường hoài tham ái 
chạy theo tài lợi không biết chán 
Đối với cha mẹ không từ tâm 
Cho đến thân thuộc sanh oán hại 
.Lời nói thuận hành lòng sâu độc 
Gây tạo nhiều nghiệp duyên khi dối 
Hoặc học tà luận tà chú thuật 
Dối khoe tài nghệ như dâm nữ 
Hoặc lại siểm cuống hiện nhu hòa 
Hoặc lại cang cường hiện oai mãnh 
Vô lượng ác nghiệp nhiều như vậy 
Không gì chẳng do tài lợi sanh 
San hô vàng ngọc châu ma ni
Vật ấy bổn lai như bọt bóng 
Chẳng biết được nó như ảo hóa 
Vì vật hư giả đọa tham đồ 
Thời kỳ Di Lạc Phật xuất thế 
Bổ xứ thành Phật nối Thích Ca 
Cõi nước hoàng kim lót mặt đất 
Thất bửu hiện ra từ đâu đến 
Kiếp tận thế gian bị thiêu hoại 
Tu Di sông biển khô cháy hết
Cứu cánh hư mất hoàn hư không 
Những của báo nầy đi về đâu 
Gây tạo nghiệp báo ác cầu tài vật 
Nuôi nấng vợ con cho rằng vui 
Đến lúc lăm chung khổ bức thân 
Hoặc vợ hoặc con không cứu được 
Ở trong tam đồ kinh sợ kia
Chẳng thấy vợ con cùng thân thuộc 
Ngựa xe của báu thuộc người khác
Thọ khổ có ai chia sớt được 
Cha mẹ anh em cùng vợ con 
Bằng hữu bè bạn và của cải 
Chết đi không một cùng gần kề 
Chỉ có ác nghiệp thường theo sát 
Người trí trọn chẳng vì thân ái 
Mà tạo nghiệp mãn mời ra khỏi 
Thân thuộc không ai thay thế được 
Diêm La sứ giả chỉ khảo nghiệp 
Chẳng hỏi thân quyến và bằng hữu 
Người được thân người chẳng bỏ ác 
Khổ sở nay phải cam nhận chiu 
Diêm La thường bảo người tội ấy 
Ta không gia được một chút tội 
Người tự tạo tội nay tự đến 
Nghiệp báo tự chiệu không ai thế 
Cha mẹ vợ con không cứu được 
Chỉ nên siêng tu nhơn xuất thế 
Thế nê phải bỏ nghiệp xích xiềng 
Khéo biết xa lìa cầu an lạc 
Với vợ con nhà nên biết sợ 
Hằng nương Phật giáo chánh tu hành 
Tại gia phùng thạnh là gốc khổ 
Dường như lò lữa rất đáng sợ 
Thân tâm nóng bức bị đốt cháy 
Đâu có người trí sanh tham ái 
Ưa thích tu hành các Phật pháp 
Không hề doanh cầu là khoái lạc 
Phàm phu ngu tối chẳng biết hay 
Nhà là gốc khổ lại tham ái 
Nơi khối da xương gân thịt kia 
Mê lầm vọng tưởng là chồng vợ 
Chẳng biết thân thể như ảo hóa 
Phàm phu ngu tối sanh tham ái 
Người trí biết thân là lỗi họa 
Dục lạc trong đời đều vất bỏ
Cầu pháp phải như cầu lương dược 
Phải mau bỏ lìa dây tại gia ».

Nghe pháp xong năm trăm trưởng giả được vô sanh nhẫn vui mừng hớn hở nói kệ rằng: 

«Mừng thay được lợi lớn 
Tối thượng trong lợi ích
Chúng tôi đối Phật pháp 
Đều sanh lòng vui thích 
Phát xu đại Bồ đề
Lợi lạc cho chúng sanh 
Pháp lành dùng nuôi mạng
Giác huệ tự an tâm
Thương xót các chúng sanh 
Nguyện sẽ thành Phật đạo 
Chúng tôi đều đã phát 
Tâm Bồ đề vô thượng 
Thân vàng tướng trang nghiêm 
Chiếu sáng khắp thế giới 
Người thích tâm Bồ đề 
Sẽ được tâm Như Lai 
Đại tâm Bồ đề tâm 
Tối thượng trong các tâm 
Giải thoát tất cả phược 
Đầy đủ các công đức 
Các chúng sanh ít phước 
Nơi đây không ưa thích 
Chẳng nhìn lỗi sanh tử
Chẳng thích tâm Bồ đề 
Tâm Bồ đề công đức 
Nếu có sắc phương phần 
Rộng khắp cõi hư không 
Không gì dung chứa được
Trong sát độ chư Phật 
Nhiều như các sông Hằng 
Giả sử trải trân bửu 
Dùng cúng dường chư Phật 
Có người hay chấp tay 
Hồi hướng tâm Bồ đề 
Phước đây hơn phước trên 
Chẳng thể suy tính được 
Nào riêng phước cúng dường 
Phước khác cũng như vậy 
Tâm Bồ đề như vậy
Đấng Tối Thắng tuyên nói 
Tâm Bồ đề tối thắng 
Như thuốc a già đà
Trừ được tất cả bịnh 
Cho tất cả an vui
Tôi thấy các chúng sanh 
Bị ba độc nhiệt não
Trí giả vô lượng kiếp 
Cần khổ thường tu tập 
Như Y Vương dũng mãnh 
Đầy đủ hạnh Bồ đề
Cứu vớt chúng sanh khổ 
Lìa hẳn các ưu não 
Tất cả chỗ thọ sanh 
Trọn chẳng bỏ thân nầy 
Siêng tu các hạnh nguyện 
Dũng mãnh cầu Phật pháp
Chúng tôi được lợi lành 
Chúng tôi lòng vui thích 
Nay gặp Phật Thích Ca 
Sẽ được thân Như Lai ».

Bấy giờ đức Thế Tôn liền mỉm cười, từ diện môn của đức Phật phóng ra những thứ tia sáng sanh vàng đỏ trắng hồng tía pha lê chiếu đến vô lượng vô biên thế giới cho đến trời Phạm Thế, oai quang cùa nhựt nguyệt đều bị ẩn khuất, trở về nhiễu ba vòng rồi nhập vào đảnh Phật. 

Tôn giả An Nan đứng vậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay bạch đức Phật rằng: «Bạch thế Tôn! Có nhân duyên gì mà đức Phật mỉm cười ».

Tôn giả liền nói kệ rằng: 

«Chư Phật là đạo sư tối thượng 
Chẳng không duyên cớ hiện mỉm cười 
Đấng thương xót lợi ích thế gian 
Xin nói nhơn duyên của sự ấy 
Chúng sanh nghèo thiếu không pháp tài
Nên ban nói thừa lớn tối thượng 
Hay làm mắt sáng cho thế gian 
Xin nói nhơn duyên Phật cười mỉm».

Đức Phật phán dạy: «Nầy A Nan! Ông có thấy năm trăm trưởng giả nay ở trước Phật phát tâm vô thượng Bồ đề chăng?

-Vâng tôi đã thấy, bạch đức Thế Tôn! 

-Nầy A Nan! Năm trăm trưởng giả nầy thuở xưa đã ở nơi trăm ngàn ức na do tha chư Phật thừa sự cúng dường, trồng các thiện căn, nay nghe ta nói pháp đều được vô sanh nhẫn. Các trưởng giả nầy về sau chẳng còn sanh ác đạo thường thọ khoái lạc trong Nhơn Thiên. Đời sau ở chỗ Phật Di Lạc, các trưởng giả nầy thân cận cúng dường cung kính tôn trọng tán thán, với tất cả chư Phật trong Hiền kiếp cũng như vậy, ở chỗ chư Phật nghe chánh pháp thọ trì đọc tụng vì người mà giảng nói. Quá hai mươi lăm kiếp, các trưởng giả nầy sẽ ở trong các Phật độ thành Vô thượng Bồ đề đều thành một danh hiệu Thắng Liên Hoa Tạng Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác».

Tôn Giả An Nan bạch đức Phật: «Hi hữu Thế Tôn! Hi hữu Thiện Thệ! Nên đặt tên pháp môn quảng đại nầy là gì, chúng tôi phải thọ trì thế nào? ».

Đức Phật phán dạy: «Nầy A Nan! Pháp môn nầy tên là Du Già Sư Địa, cũng gọi là Dũng Mãnh Thọ Trưởng Giả Sở Vấn, ông nên thọ trì».

Đức Phật nói kinh nầy rồi, Tôn Giả A Nan và các Tỳ Kheo năm trăm trưởng giả các chúng Bồ Tát, Trời Người Thiên Long Bát Bộ nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành

PHÁP HỘI DŨNG MÃNH THỌ TRƯỞNG GIẢ 
THỨ HAI MƯƠI TÁM
HẾT

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11618)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11924)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11096)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12056)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10750)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9935)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10161)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12339)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15325)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14316)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12084)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15324)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10596)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12545)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13148)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14778)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12648)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16529)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19627)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13099)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12645)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12239)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11823)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10882)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13477)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11933)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11832)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11620)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12751)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15652)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13597)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12878)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9853)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17997)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11148)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9059)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12157)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10285)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12174)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15286)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16578)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12192)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11455)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14256)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19664)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24572)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10670)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant