Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

32-pháp Hội Vô Uý Đức Bồ Tát

01 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7863)
32-pháp Hội Vô Uý Đức Bồ Tát

KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XXXII
Pháp hội

VÔ ÚY ĐỨC BỒ TÁT

Thứ ba mươi hai

Hán Dịch: Nguyên Ngụy, Pháp Sư Phật Đà Phiến Đa
Việt Dịch: Việt Nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Như vậy tôi nghe một lúc đức Bà Già Bà ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật cùng năm trăm Tý Kheo câu hội chư đại Bồ Tát vô lượng vô biên có tám đại Bồ Tát làm thượng thủ, đều được tam muộiđà la ni, khéo nhập ba môn giải thoát không vô tướng vô nguyện, thiện xảo các thần thông, được vô sanh pháp nhẫn, danh hiệu các ngài là : Di Lâu Bồ Tát, Đại Di Lâu Bồ Tát, Thường Nhập Định Bồ Tát, Thường Tinh Tiến Bồ Tát, Bửu Thủ Bồ Tát, Thường Hỉ Căn Bồ Tát, Bạt Đà Bà La Bồ Tát, Bửu Tướng Bồ Tát, La Hầu Bồ Tát, Thích Thiên Bồ Tát, Thủy Thiên Bồ Tát, Thượng Ý Bồ Tát, Thắng Ý Bố Tát, Tăng Thượng Ý Bồ Tát, có tám ngàn đại Bồ Tát như vậy làm thượng thủ

Đức Thế TônVương xá thành được nhà Vua các Vương Tử, Bà La Môn, Trưởng giả, Cư sĩ tôn trọng tán thán cúng dường. Đức Thế

 Tôn có đủ vô lượng trăm ngàn vạn chúng cung kính vây quanh mà vì họ thuyết pháp

Bấy giờ chư Tôn giả Xá Lợi PhấtĐại Mục Kiền LiênĐại Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Ly Bà Đa, A Thấp BàƯu Ba LyLa Hầu La, A Nan, vô lượng chư đại Thanh Văn như vậy buổi sáng chỉnh y cầm bát vào thành Vương Xá đến từng nhà đúng như phápkhất thực không có duyên gì khác, lần lần đi đến trước cung điện cuả vau A Xà Thế, đồng đứng yên lặng chẳng nói khất thực hay chẳng khất thực

Vua A Xà Thế có người con gái tên Vô Úy Đức đoan chánh xinh đẹp vô song thành tựu công đức tối thắng thù diệu mới mười hai tuổi mang guốc vàng bửu đang ngồi trên cung lầu thấy chư Thanh Văn mà chẳng đứng dậy vẩn yên lặng ngồi tại chỗ. Vua A Xà Thế thấy vậy mới bảo rằng : «Con chẳng thấy chư vị ấy là đệ tử thượng túc của đức Thích Ca Như Lai đã thành tựu đại pháp làm phước điền cho thế gian vì thương chúng sanh mà các Ngài đi khất thực. Nay con được thấy các Ngài sao con chẳng dậy chẳng nghinh chẳng lễ chẳng hỏi han lại chẳng nhường chỗ ngồi. Con thấy sự gì mà chẳng đứng dậy tiếp nghinh? ».

Vô Úy Đức tâu Phụ Vương : «Chẳng hay phụ vương có thấy có nghe Chuyển Luân Thánh Vương thấy các Tiểu Vươngđứng dậy tiếp nghinh chăng? ».

A Xà Thế Vương nói : «Không dậy tiếp nghinh».

Vô Úy Đức lại tâu : Phụ Vương có thấy có nghe lúc sư tử chúa muông thú thấy các dã can liền đứng dậy tiếp nghinh chăng? ».

A Xà Thế Vương nói: «Không có sự ấy ».

Vô Úy Đức lại tâu «Phụ Vương có thấy có nghe Đế Thích Thiên Vương tiếp nghinh Chư Thiên Tử, đại Phạm Thiên Vương lễ kính Thiên chúng chăng? ».

A Xà Thế Vương nói : «Không có sự ấy ».

Vô Úy Đức lại tâu : « Phụ Vương có thấy có nghe thần biển lớn lễ kính các thần sông thần ao chăng? ».

A Xà Thế Vương nói : «Không có sự ấy ».

Vô Úy Đức lại tâu : «Phụ Vương có thấy có nghe Tu Di Sơn Vương lễ kính các Sơn Vương khác chăng? ».

A Xa Thế Vương nói : «Không có sự ấy».

Vô Úy Đức lại tâu : «Phụ Vương có thấy có nghe thần nhựt nguyệt lễ kính trùng đom đóm chăng? ».

A Xà Thế Vương nói : «Không có sự ấy ».

Vô Úy Đức tâu : «Phụ Vương nên biết Bồ Tát phát tâm xu hướng Vô thượng Bồ đề dùng đại từ bi sao lại lễ kính hàng Thanh Văn rời lìa tâm đại bi ! Đâu có sư tử vương Bồ Tát cầu đạo Vô thượng, Chánh chơn Chánh giác lại lễ các dã can Tiểu thừa ! Đâu có Bồ Tát đã cầu đạo đại phạm thanh tịnh tiến lên Vô thượng Bồ đề lại nên thân cận hàng Thanh Văn thiện căn kém ít ! Đâu có người muốn đến biển lớn đại trí muốn cầu khéo biết khối đại pháp mà lại còn cầu dấu chưn trâu, vì hàng Thanh Văn nghe âm thanh từ nơi người khác vậy. Đâu có người muốn đến núi Phật Tu Di để cầu sắc thân vô biên của Như Lai mà lại cầu sức không tam muội trong hột cải của hàng Thanh Văn mà đi lễ họ. Đâu có người đã được nghe công đức trí huệ của chư Phật như nhựt nguyệt quang lại lễ kính hàng Thanh Văn để cầu lửa sáng đom đóm, vì hàng Thanh Văn chỉ có thể tự lợi tự soi từ người khác nghe âm thanh mà được hiểu vậy.

Tâu Phụ Vương ! Sau khi các đức Phật nhập Niết Bàn còn chẳng kễ kính hàng Thanh Văn huống là nay đức Thế Tôn còn tại thế gian. Tại sao ? Vì nếu người nào thân cận hàng Thanh Văn tất phát tâm Thanh Văn, người nào thân cận hàng Duyên Giác tất phát tâm Duyên Giác, có ai gần gũi đấng Chánh chơn Chánh giác tất phát tâm Vô thượng Bồ Đề ».

Nói xong, Vô Úy Đức liền dùng kệ báo cáo Phụ Vương A Xà Thế:

« Ví như người đến biển 
Mà lấy một văn tiền 
Tôi thấy chư Thanh Văn 
Tu hành cũng như vậy
Đến biển đại pháp rồi 
Bỏ khối báu Đại thừa
khởi tâm hẹp kém 
Tu hành đạo Tiểu thừa 
Như người thân cận vua 
Xuất nhập không chướng ngaị
Theo vua xin một tiền 
Người nầy uổng gần vua 
Cung kính gần Luân Vương 
Xin của vật trăm ngàn 

Giúp vô lượng kẻ nghèo
Đây là khéo gần vua
Như người xin một tiền
Thanh Văn cũng như vậy
Chẳng cầu chơn giäi thoát
Mà lấy tiểu Niết bàn
Nếu khởi tâm hẹp kém
Tự lợi chẳng tự tha
Dường như tiểu y sư
ChÌ hay trị thân mình
Ví như đại y vương
Trị bịnh rất nhiều người
Khéo sanh lòng từ bi
Được cung kính danh tiếng
Y sư được thế lợi
Vì được biết y phương
Tự độ chẳng độ tha
Người trí chẳng cung kính
Như y vương thiện xäo
Thông đạt các y phương
Cứu vô lượng ngàn ức
Các chúng sanh bịnh khổ
Y vương được thế gian

Cung kínhdanh tiếng
Người phát tâm Bồ đề
Khắp trị bịnh phiền não
Như rừng tì ma kia
Hoa hương bóng chẳng tốt
Thanh Văn như tì ma
Chẳng phát tâm cứu thế 
Như chỗ thọ vương lớn
Nhiều người được lợi ích
Chư Bồ Tát cũng vậy
Hay lợi ích mọi người
Chẳng dùng nắng mùa thu
Hay cạn dòng nước nhỏ
Đến cạn biển cả rồi
Hay chứa vô lượng chúng
Đạo Thanh Văn kém hẹp
Dường như dấu chưn trâu
Chẳng dứt được tất cả 
Phiền não của chúng sanh
Chẳng phải lên núi nhỏ
Mà hiện kim sắc thân
Chỉ lên núi Tu Di
Đều thấy thân kim sắc

Nên biết chư Bồ Tát
Cũng như núi Tu Di
Do Bồ Tát trụ thế
Thế gian được giải thoát
Đều là một sắc thân
Đầy đủ Nhứt thiết trí
Trí Thanh Văn chẳng vậy
Dường như sương buổi sáng
Chẳng lợi được cho đời
Vì họ chẳng chứng pháp
Như mưa lớn tăng trưởng
Lợi ích vô lượng loài
Thanh Văn như sương mai
Bồ Tát như mưa lớn
Thân cận được đại pháp
Như sức biển nhận nhiều
Như hoa héo ném bỏ
Không còn hương thơm đẹp
Mọi người chẳng thích nó
Chỉ ưa hoa chiêm bặc
Như cầu thanh liên hoa
Đẹp thơm rất kỳ diệu
Hoa bỏ như Thanh Văn

Trì hẹp chẳng lợi người
Như hoa chiêm bặc kia
Bồ Tát cũng như vậy
thương mến chúng sanh
Hay hóa độ chúng sanh
Phụ Vương có từng biết
Gì là đại kỳ đặc
Một người tại đồng hoang
Lợi ích nhiều người vậy
Nếu muốn an ổn tốt
Độ vô lượng chúng sanh
Phải phát tâm Bồ đề
Chó theo đạo Tiểu thừa
Trong thế gian đồng hoang
Hay cứu chúng lạc đường
Như nhà hướng đạo kia
Bồ Tát cũng như vậy
Phụ Vương có từng thấy
Bè nhỏ qua biển lớn
Chỉ ngồi thuyền tơ kia
Hay đưa vô lượng chúng
Thanh Văn là bè nhỏ
Bồ Tát như thuyền to

Tu pháp đạo xong rồi
Khiến vượt biển đói khát
Phụ Vương có từng thấy
Cỡi lừa hay nhập trận
Chỉ thầy ngồi voi ngựa
Chiến đấu mà đắc thắng
Thanh Văn như xe lừa
Bồ Tát như long tượng
Hàng ma ngồi đạo thọ
Độ vô lượng chúng sanh
Như hư không giữa đêm
Chẳng thấy tinh tú hiện
Ví trăng tròn sáng rỡ
Chiếu khắp châu Diêm Phù
Thanh Văn như tinh
Bồ Tát như trăng tròn
thương mến chúng sanh 
Thị hiện đạo Niết bàn
Lửa sáng đom đóm kia
Không thể dùng làm việc 
Nhựt nguyệt chiếu Diêm Phù
Làm được mọi sự việc
Thanh Văn như lửa đóm

Chẳng được lợi ích nhiều
Phật có sáng giải thoát
Thương xót các chúng sanh
Tiếng dã can kêu la
Chẳng làm muông thú sợ
Chỉ có sư tử chúa
Gầm lên chim bay rớt
Nên biết hàng Thanh Văn
Chẳng phát tâm Bồ đề
Chẳng vì lợi ích chúng sanh
Trừ tất cả phiền não 
Vì thấy biết như vậy
Chẳng phát tâm Thanh Văn
Đã đại phát tâm rồi
Sao lại còn phát tiểu
Đã được thân người tốt
Nên phát tâm vô thượng
Cứu độ tất cả chúng
Vứt bỏ đạo Tiểu thừa
Được thân thế gian tốt
Lại được lợi thế gian
Khéo đến tại thế gian
phát tâm vô thượng

Mong cầu đạo vô thượng
Cứu độ các chúng sanh
Hay tự lợi lợi tha
Người nầy đang được khen
Cũng được đời tôn trọng
Và được đạo cứu cánh
Vì thế hôm nay tôi 
Chẳng lễ kính Thanh Văn ».

Vua A Xà Thế bảo Vô Ý Đức : « Con đại ngã mạn, sao thấy chư đại Thanh Văn lại chẳng phụng nghinh ? »

Vô Úy Dức tâu : Phụ Vương chớ bảo như vậy. Phụ Vương cũng ngã mạn, sao Phụ Vương chẳng phụng nghinh những người nghèo cùng trong thành Vương Xá nầy ? »
Vua nói : « Họ chẳng đồng hàng với ta, sao ta lại phụng nghinh ? ».

Vô Úy Đức tâu : « Sơ tâm Bồ Tát cũng như vậy, tất cả Thanh VănDuyên Giác chẳng đồng hàng ».

Vua nói : « Con há chẳng thấy chư Bồ Tát lễ kính tất cả chúng sanh ư ? ».

Vô Úy Đức nói : « Bồ Tát vì độ các chúng sanh kiêu mạn sân não khiến họ phát khởi tâm hồi hướng đại đạo nên lễ kính tất cả chúng sanh, vì tăng trưởng gốc thiện căn cho các chúng sanhBồ Tát lễ kính. Nhưng nay chư Thanh Văn không tâm sân hận lại cũng chẳng tăng trưởng thiện căn được. Dầu trăm ngàn chư Phật vì họ mà nói diệu pháp nhưng nơi giới định huệ họ đã được vẫn không tăng thêm. Thanh Văn như khối lưu ly, Bồ Tát như chiếc bình báu lớn. Bình nếu đã đầy lúc trời mưa không chứa thêm được một giọt. Cũng vậy, dầu trăm ngàn chư Phật vì hàng Thanh Văn nói diệu pháp họ cũng chẳng được lợi ích chẳng tăng thêm giói định huệ, họ chẳng thể làm cho chúng sanh phát tâm đến Nhứt thiết trí. Ví như đại hải có thể nhận nước của tất cả sông và mưa mây, tại sao, vì đại hải là cái bình vô lượng vậy. Chư Bồ Tát lúc diễn thuyết pháp tùy chỗ người được nghe được phước lợi lớn tăng trưởng tất cả gốc các thiện căn, tại sao, vì chư Bồ Tát là chiếc bình ngôn thuyết vô biên vậy ».

Vua A Xà Thế nghe Vô Úy Đức nói những lời trên thì nín lặng ngồi yên.

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất tự nghĩ rằng : Vô Úy Đức nầy được đại biện tài có thể ngôn thuyết vô tận như vậy, nay ta đến hỏi nàng ít lời xem nàng có đắc nhẫn chăng. Tôn giả lièn đến hỏi Vô Úy Đức rằng : « Nay cô an trụ Thanh Văn thừa ư ? ».

Đáp : « không ạ ».
Hỏi : « Nay cô an trụ Duyên Giác thừa ư ? ».
Đáp : « Không ạ ».
Hỏi : « Nếu như vậy thì cô an trụ thừa nào mà có thể sư tử hống như vậy ? ».
Đáp : « Giả sử nay tôi có thể an trụ thì tất chẳng thể làm sư tử hống, do tôi không chỗ trụ nên tôi có thể làm sư tử hống. Nhưng Xá Lợi Phất nói an trụ thừa nào, như pháp được Ngài chứng đắc, pháp ấy há lại có thừa sai khác ư, là Thanh Văn thừa, là Duyên Giác thừa, là Đại thừa ư ».
Tôn giả Xá Lợi Phất nói : « Cô nghe tôi nói, pháp tôi được chứng không có tướng thừa chẳng phải thừa sai khác, vì là nhứt tướng, nghĩa là vô tướng vậy ».
Vô Úy Đức nói : « Nếu pháp vô tướng thì thế nào cầu được ? ».

Tôn giả Xá Lợi Phất nói : « Pháp chư Phật cùng pháp phàm phu có tướng thắng phụ sai biệt gì ? ».
Vô Úy Đức nói : « Không và tịch tĩnhsai biệt gì ? ».

Tôn giả Xá Lợi Phất nói : « Không có sai biệt ».

Vô Úy Đức nói : « Như khôngtịch tĩnh không có tướng sai biệt, pháp chư Phật cùng pháp phàm phu không có tướng thắng phụ sai biệt. Lại như hư không hay thọ các sắc mà không có sai biệt, pháp chư Phật cùng pháp phàm phu không có tướng sai biệt cũng không có dị tướng ».

Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói với Vô Úy Đức rằng : « Cô thấy Phật pháp cùng Thanh Văn pháp có sai khác gì mà nay cô thấy hàng đại Thanh Văn cô chẳng dậy tiếp đón chẳng nhường giường ghế ? ».

Vô Úy Đức nói : « Giả sử tinh tú đầy trời cũng chẳng chiếu sáng thế gian. Hàng Thanh Văn cũng vậy , vì lúc nhập định mới có trí thấy biết, lúc chẳng nhập định thì không hay biết ».

Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói : « Nếu chẳng nhập định thì chẳng biết được tâm chúng sanh ».

Vô Úy Đức nói : « Đức Phật chẳng nhập định mà có thể ở trong hằng hà sa thế giới tùy chỗ nên mà thuyết pháp độ các chúng sanh,vì khéo biết tâm họ vậy. Đây là thắng sự của chư Phật Như Lai. Hàng Thanh Văn như tinh tú ánh sáng kém yếu làm sao so sánh được.

Lại nầy Đại Mục Kiền Liên Tất cả Thanh Văn có ai biết được bao nhiêu thế giới thành bao nhiêu thế giới họa chăng ? ».

Đáp : « Chẳng biết được ».

Hỏi : « Hàng Thanh Văn có ai biết được bao nhiêu chư Phật đã nhập Niết bàn, bao nhiêu chư Phật vị lai sẽ nhập và bao nhiêu chư Phật hiện tại nay nhập Niết bàn chăng ? ».

Đáp : « Chẳng biết dược ».

Hỏi : « Hàng Thanh Văn có ai biết được có bao nhiêu chúng sanh nhiều tham dục, bao nhiêu chúng sanh nhiều sân hận, bao nhiêu chúng sanh nhiều ngu si và bao nhiêu chúng sanh nhiều đẳng phần chăng ? ».

Đáp : « Chẳng biết được ».

Hỏi : « Hàng Thanh Văn có ai biết được bao nhiêu chúng sanh thọ Thanh Văn thừa, bao nhiêu chúng sanh thọ Duyên Giác thừa và bao nhiêu chúng sanh thọ Phật thừa chăng ? ».

Đáp : « Chẳng biết được ».

Hỏi : « Hàng Thanh Văn thừa có ai biết được bao nhiêu chúng sanh Thanh Văn độ, bao nhiêu chúng sanh Duyên Giác độ và bao nhiêu chúng sanh chư Phật độ được chăng ? ».

Đáp : « Chẳng biết được ».

Hỏi : « Hàng thanh Văn có ai biết được bao nhiêu chúng sanh tại chánh định tụ chánh kiến và bao nhiêu chúng sanh tại tà định tụ chăng ? ».
Đáp : « Chẳng biết được ».

Vô Úy Đức nói : « Nầy Đại Mục kiền Liên ! Duy có đức Như Lai Chánh Chơn Chánh Giác khéo biết như thiệt chúng sanh giới mà vì họ thuyết pháp. Sự việc như vậy chẳng phải cảnh giới Thanh Văn Duyên Giác huống là các chúng sanh khác. Nên biết đây là sự việc thù thắng của đức Như Lai, vì đức Như Lai có đủ Nhứt thiết trí vậy. Tất cả Thanh VănDuyên Giác không có được.

Thưa Đại Mục Kiền Liên ! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là thần thông đệ nhứt, thần thông của Ngài có thể đến thế giới Hương Tượng biết trong thế giới ấy tất cả các cây đều sản xuất hương chiên đàn thượng diệu chăng ? ».

Tôn giả đáp : « Nay tôi mới nghe tên thế giới ấy thì làm sao có thể đến đó được. Đức Phật tại đó hiệu là gì ? ».

Vô Úy Đức nói : « Đức Phật hiệu Phóng Hương Quang Minh Như Lai Ứng Cúng đẳng Chánh Giác trụ tại thế giới ấy thuyết pháp ».

Tôn giả hỏi : « Làm thế nào được thấy đức Phật ấy ? ».

Vô Úy Đức chẳng rời chỗ ngồi chẳng động oai nghithệ nguyện rằng : « Nếu Bồ Tát lúc sơ phát tâm có thể hơn hàng Thanh VănDuyên Giác, nguyện đức Phóng Hương Quang Minh Như Lai hiện thân nơi đây, cũng khiến hàng Thanh Văn Duyên Giác thấy thế giới Hương Tượng và ngửi mùi cây hương chiên đàn thượng diệu ».

Vô Úy Đức phát thệ nguyện xong, đức Phóng Hương Quang Minh Như Lai từ nơi thân phóng quang. Do đức Phật ấy phóng quang nên chư Thanh Văn đây đều được thấy thế giới Hương Tượngđức Phật có chúng Bồ Tát vây quanh, lưới báu che giăng, đức Phật ấy vì chúng mà thuyết pháp. Tại đây đại chúng đều được nghe tiếng thuyết pháp. Do thần lực của đức Phật ấy nên đại chúng đây còn được ngửi hơi hương chiên đàn thượng diệu của cây thế giới ấy.

Bấy giờ đức Phật Phóng Hương Quang Minh nói rằng : « Đúng như vậy, như lời nói của Vô Úy Đức : Bồ Tát lúc sơ phát tâm đã hơn hàng Thanh VănDuyên Giác cảnh giớỉ ».

Lúc ấy tại núi Kỳ Xà Quật, Di Lặc Bồ Tát bạch Phật rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Hơi thơm vi diệu nầy từ đâu đến ? ».

Đức Phật nói : « Nầy Di Lặc !Vô Úy Đức cùng chư Thanh Văn luận nghị như pháp và phát thệ nguyện. Đức Phóng Hương Quang Minh dùng thần lực hiện thânthế giới Hương Tượng cùng hơi hương cây chiên đàn, nên hơi hương thượng diệu ấy khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên nầy ».

Vô Úy Đức bảo Tôn giả Đại Mục Kiền Liên : « Nếu đã thấy các công đức thù thắng bất tư nghị như vậy mà còn có thể phát tâm Thanh Văn Tiểu thừa hẹp kém chỉ tự độ, thì nên biết là thiện căn rất nhỏ ít. Ai là người đã thấy sự việc Bồ Tát thành tựu vô lượng công đức mà chẳng phát tâm Vô thượng Bồ đề. Ngài có biết thế giới Hương Tượng ấy cách đây bao nhiêu chăng ? ».

Tôn giả đáp : « Chẳng biết ».

Vô Úy Đức nói : « Ngài thừa thần thông trải qua trăm ngàn kiếp cũng không thể biết không thể thấy thế giới ấy. Như tất cả tre lau lùm rừng cõi nầy làm con số không thể tính đếm, qua khỏi các Phật thế giới như số trên đây mới có thế giới Hương Tượng ấy ».

Bấy giờ đức Phật ấy thâu nhiếp quang minh, thế giới Hương Tượng cùng đức Phật ấy và chúng Bồ Tát bỗng chẳng còn hiện.

Tôn giả Đại Ca Diếp nói với Vô Úy Đức rằng : « Cô đã từng thấy thế giới Hương Tượng và dức Phóng Hương Quang Minh Như Lai rồi phải chăng ? ».

Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Ca Diếp ! Như Lai có thể thấy được chăng ? Như lời Phật dạy : Nếu dùng sắc thấy ta và dùng âm thanh cầu ta, người ấy đều hành đạo tà chẳng thấy được Như Lai. Vì thân chư Như Laipháp thân, pháp chẳng thấy nghe thì làm sao thấy nghe được. Tùy phương tiện nào mà chúng sanh hạp thích thì Phật vì họ mà thị hiện, thân Phật không chướng ngại vì an trụ phương tiện vậy. Nhưng Ngài Đại Ca Diếp hỏi tôi có thấy đức Phậtthế giới ấy chăng ? 

Thưa Ngài Đại Ca Diếp Tôi thấy đức Phật ấy chẳng phải là nhục nhãn thấy vì chẳng phải là sắc được thấy bởi nhục nhãn ; chẳng phải thiên nhãn thấy vì không có thọ, chẳng pải huệ nhãn thấy vì rời lìa tưởng tướng, chẳng phải pháp nhãn thấy vì rời lìa các hành, chẳng phải Phật nhãn thấy vì rời lìa thức thấy vậy.

Tôi thấy Như Lai cũng như chỗ thấy của Đại Ca Diếp vì đã diệt trừ tâm vô minh ái kiến vậy.

Thưa Ngài Đại Ca Diếp ! Tôi thấy đức Phật ấy cũng như chỗ thấy của Đại Ca Diếp Tôn giả. Lại cũng còn thấy ngã ngã sở v.v… ».

Tôn giả hỏi : « Nếu pháp không hẳn tại sao phát khởi vô minh ái và tướng ngã ngã sở, vì rất cả chúng sanh chẳng thấy được vậy ? ».

Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Đại Ca Diếp, tất cả pháp không có hẳn thì nó thế nào được thấy ? ».

Tôn giả nói : « Nếu tất cả Phật pháp cứu cánh là không có thì thế nào thấy được ».

Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Đại Ca Diếp ! Ngài có thấy Phật pháp tăng trưởng nghĩa chăng ? ».

Tôn giả nói : « Tôi còn chẳng biết phàm phu pháp hà huống Phật pháp ».

Vô Úy Đức nói : « Vì thế nên, thưa Ngài Đại Ca Diếp, pháp ấy chẳng thành tựu thì thế nào có đứt nối mà người chẳng chứng kia thấy. Thưa Ngài Đại Ca Diếp

Các pháp không có hẳn chẳng hiện bày được, vì thế nên tất cả pháp đều không. Nếu bổn pháp không có thì thế nào thấy được pháp giới thanh tịnh ấy. Thưa Ngài Đại Ca Diếp, nếu ai muốn thấy tịnh Như Lai thì thiện nam thiện nữ ấy phải tịnh tự tâm ».

Tôn giả hỏi Vô Úy Đức : « Thế nào khéo tịnh tự tâm ? ».

Vô Úy Đức nói : « Như tự thân chơn như và tất cả pháp chơn như, nếu tin nơi ấy chẳng tạo tác chẳng vong thất, thấy như vậy thì tự tâm thanh tịnh ».

Tôn giả hỏi : « Tự tâm lấy gì làm thể ? ».

Vô Úy Đức nói : « Lấy không làm thể. Nếu chứng không ấy thì tin tự thân không, vì tin tự thân không nên tin chơn như không, vì tất cả các pháp tịch tĩnh vậy ».

Tôn giả nói : « Cô theo đức Phật nào nghe pháp như vậy mà được chánh kiến. Như Phật từng dạy : người phát chánh kiến có hai nhơn duyên, một là nghe pháp nơi người, hai là tự nội tư duy.

Vô Úy Đức nói : « Nhờ âm thanh ngoài mà có nghe, vì nghe âm thanh ngoài nên sau đó nội tư duy. Thưa Ngài Đại Ca Diếp Bồ Tát Đại Sĩ chẳng nhờ người nói chẳng mượn âm thanh sao lại bảo là an trụ nội tư duy ».

Tôn giả nói : « Vì cô theo pháp được nghe mà quan sát nên gọi là quán hạnh ».

Tôn giả lại hỏi Vô Úy Đức : « Thế nào là Bồ Tát nội tự tư duy ? ».

Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Đại Ca Diếp ! Nếu cùng chư Bồ Tát thuyết pháp đồng sự mà chẳng phát khởi tướng chúng sanh. Bồ Tát nội quán như vậy thì gọi là thành tựu nội quán. Thưa Ngài Đại Ca Diếp ! Tất cả các pháp đầy đủ bổn tế trung tếhậu tế, vì tất cả pháp lấy chơn như làm thể vậy. Vì tất cả pháp hiện tại chơn như thế vậy. Nếu quán như vậy, Bồ Tát nầy gọi là thành tựu nội quán.

Tôn giả nói : « Cô an trụ pháp ấy thế nào ? ».

Vô Úy Đức nói : « Phải làm như vầy : như chơn như ấy thấy không phược không giải ».

Tôn giả hỏi : « Thấy thế nào thì gọi là chánh kiến ? ».

Vô Úy Đức nói : « Nếu rời lìa sự thấy hai bên, chẳng làm chẳng phải chẳng làm, thấy mà chẳng thấy như vậy thì gọi là chánh kiến. Thưa Ngài Đại Ca Diếp ! Pháp ấy chỉ có danh tự, mà vì ly danh tự, vì vĩnh viễn chẳng chứng vậy ».

Tôn giả lại hỏi : « Thế nào được tự thấy ? ».

Vô Úy Đức nói : « Như chỗ thấy của Đại Ca Diếp ».

Tôn giả nói : « Tôi chẳng thấy tự thân và ngã sở ? ».

Vô Úy Đức nói : « Phải nên thấy tất cả pháp như vậy, vì không có ngã và ngã sở vậy ».

Lúc Vô Úy Đức nói pháp ấy, Tôn giả Tu Bồ Đề lòng rất vui mừng mà nói với Vô Úy

Đức rằng : « Cô khéo được lợi lành mà hay thành tựu biện tài ấy ».

Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Pháp có được có chẳng được mà có thể cầu ư, sao Ngài bảo tôi khéo được biện tài. Tôi có biện thuyết nầy : Nếu tôi nói không có chỗ giác tri hoặc nội hoặc ngoại thì là có biện tài ».

Tôn giả hỏi : « Cô chứng được gì đắc pháp gì mà có diệu biện như vậy ? ».

Vô Úy Đức nói : « Vì chẳng tự biết vì chẳng từ người mà biết, chẳng thấy có tướng pháp thiện pháp bất thiện sai biệt, biết pháp như vầy : chẳng thấy nhiễm tịnh hữu lậu vô lậu hữu vi vô vi thế gian xuất thế gian và pháp phàm phu, vì pháp thể ấy chẳng thể thấy vậy, là chư Phật pháp, mà đắc Phật pháp chẳng thấy Phật pháp. Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Nếu không chỗ biết thấy như vậy thìbiện tài nầy ».

Tôn giả hỏi : « Thế nào là biện tài ? ».

Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Như chỗ sở đắc tịch diệt của Ngài vậy ».

Vô Úy Đức nói với Tôn giả Xá Lợi Phất : « Như pháp thể ấy không nghe không được mà có chỗ nói ».

Vô Úy Đức hỏi Tôn giả Tu Bồ Đề : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Pháp thể trụ được chăng, lại có thể tăng giảm chăng mà có biện tài như vậy ? ».

Tôn giả nói : « Nếu chứng vô lậupháp khôngsai biệt không có biện thuyết, vì pháp thể ấy chẳng thể nói được vậy ».

Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Ở nơi tất cả pháp sao Ngài lại sanh niệm rằng được lợi lành được biện tài như vậy ? ».

Tôn giả Tu Bồ Đề nói : « Cô do được biện tài mà nói hay chẳng được biện tài mà nói ? ».

Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Ngài có tin lời đức Phật dạy tất cả các pháp như hưởng chăng ? ».

Tôn giả nói : Tôi tin sự ấy.

Vô Úy Đức nói : « Hưởng ấy là có hay không có biện tài ? ».

Tôn giả nói : « Do nơi nội thanh mà có ngoại hưởng ».

Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Do vì có thanh mà có hưởng ấy, hưởng ấy mà có thì là tánh tướng gì ? Nhưng hưởng ấy không có tánh tướng. Tại sao ?Vì nếu do duyên sanh thì hưởng ấy không có nghĩa sanh ».

Tôn giả nói : « Tất cả pháp duyên sanh ».

Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Tất cả pháp thể tánh chẳng sanh ».

Tôn giả nói : « Nếu tất cả pháp thể tánh cứu cánh không có như vậy, sao đức Như Lai dạy rằng hằng hà sa chư Phật sẽ thành Chánh Giác ? ».

Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Pháp giới là có thể sanh được chăng ? ».

Tôn giả nói : « Chẳng thể sanh được ».

Vô Úy Đức nói : « Tất cả chư Phật Như Lai đều là pháp giới tánh tướng ».

Tôn giả nói : « Chẳng thấy tất cả pháp giới vậy ».

Vô Úy Đức nói : « Bao nhiêu lời được nói, ngôn ngữ vô tánh, mà nói hằng hà sa chư Phật sẽ thành Chánh Giác, lời nói nầy có nghĩa gì. Tại sao ? Vì pháp giới bất sanh bất diệt nên tất cả thuyết chẳng phải thuyết vì cứu cánh thanh tịnh vậy. Vì kia chẳng phải sự chẳng thể ngôn thuyết được, rời lìa nơi thiệt tể ».

Tôn giả Tu Bồ Đề nói : « Rất lạ, Vô Úy Đức là cô gái tại gia mà hay thiện xảo thuyết pháp như vậy, lại có biện tài vô tận như vậy ».

Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Chư Bồ Tát không có giữ lấy hay chẳng giữ lấy, nghe hay chẳng nghe hoặc tại gia hoặc xuất gia mà có biện tài. Tại sao ? Vì tâm thanh tịnh vậy. Do tâm tịnh nên trí hiển, do trí hiển nên hiển biện tàỉ ».

Vô Úy Đức bảo Tôn giả Tu Bồ Đề rằng : « Nay nên khéo nói hạnh của Bồ Tát ».

Tôn giả nói : « Cô nói đi, tôi lắng nghe ».

Vô Úy Đức nói : « Bồ Tát thành tựu tám thứ pháp hạnh nên chẳng được nói là tại gia, xuất gia ; một là Bồ Tát được tâm thanh tịnh quyết định tin Bồ đề, hai là Bồ Tát thành tựu đại từ đại bi nên chẳng bỏ chúng sanh, ba là vì thành tựu đại từ bi nên thiện xảo tất cả sự thế gian, bốn là hay xả bỏ thân mạng chi phầnthành tựu phương tiện thiện xảo, năm là thiện xảo vô lượng phát nguyện, sáu là thành tựu Bát Nhã Ba la mật hạnh vì rời lìa tất cả chấp kiến, bảy là đại dũng mãnh tinh tiến vì tu các thiện nghiệp mà không chán đủ vậy, tám là được vô ngại trí vì được vô sanh pháp nhẫn vậy.

Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Chư Bồ Tát do thành tựu tám pháp như vậy nên chẳng được gọi là tại gia hay xuất gia, tùy theo oai nghi nào cũng an trụ trong Bồ đề không hề chướng ngạỉ ».

Bấy giờ Tôn giả La Hầu La bảo Vô Úy Đức rằng : « Lời nói ấy là ngôn thuyết bất tịnh. Cô mang guốc báu ngồi tòa cao mà luận nghị qua lại cùng chư đại Thanh Văn. Cô há chẳng nghe đức Phật dạy rằng : là người bất tịnh thì chẳng được thuyết pháp và cũng chẳng được thuyết pháp cho người ngồi tòa cao ư ? ».

Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài La Hầu La ! Ngài có thiệt biết tịnh và bất tịnh chăng ? Thưa Ngài La Hầu La ! Thế gian nầy là tịnh chăng ? ».

Tôn giả nói : « Không tịnh chẳng tịnh vậy ».

Vô Úy Đức nói : « Như Lai chế giới theo đó mà thọ hành rồi phạm giới đó là tịnh và bất tịnh. Nếu lại có người chẳng phạm giới đó là chẳng phải tịnh và bất tịnh.
Thưa Ngài La Hầu La ! Thôi đi chớ có nói như vậy. Nếu người y như thuyết pháp y như chế giớitu hành, thì người ấy nói bất tịnh. Nhưng vì người ấy chứng được pháp vô lậu, thì người ấy không có phạm và chẳng phạm nên cũng không có tịnh và bất tịnh. Tại sao ?Vì chư đại Thanh Văn đã quá các thuyết pháp đã quá các chế giới. Đức Như Lai vì chư Thanh Văn hữu học đến trong tam giới nên vì họ thuyết pháp vì họ chế giới. Như chư đại Thanh Văn ấy đã quá tam giới. Do đây nên nói quá hay chẳng quá tam giới như vậy.

Do vì họ chẳng biết được giới nên nói tịnh và bất tịnh. Như hư không chỉ có ngôn thuyết duy trì lực thấy biết, thế nên được nói tịnh và bất tịnh vậy ».

Tôn giả La Hầu La hỏi: « Tịnh và bất tịnhsai biệt gì ? ».

Vô Úy Đức nói : « Ví như chơn kim rời lìa hẳn cấu uế làm những đồ trang sức và chẳng làm, màu sắc chơn kim có sai biệt gì ? ».

Tôn giả nói : « Không có sai biệt ».

Vô Úy Đức nói : « Tịnh cùng bất tịnh chỉ có ngôn thuyết danh tự để làm sai biệt mà không có sai biệt gì khác. Tại sao ? Vì tất cả pháp tánh rời lìa tất cả cấu uế không nhiễm không trước vậy.

Thưa Ngài La Hầu La ! Người ngồi tòa cao rộng chẳng nên thuyết pháp. Bồ Tát ngồi tòa trải cỏ hơn người ngồi tòa cao hơn cả đại Thanh Văn ngồi tại Phạm Thiên ».
Tôn giả nói : « Cô nói vậy là có nghĩa gì ? »
.
Vô Úy Đức nói : « Thưa Ngài La Vân ! Ngài có thấy Bồ Tát ngồi trên tòa gì mà thành Vô thượng Bồ đề chăng ? ».

Tôn giả nói : « Ngồi trên tòa cỏ ».

Vô Úy Đức nói : « Bồ Tát ngồi tòa cỏ mà trong Đại Thiên thế giới tất cả Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Thiên Vương cùng chư Thiên Tử cho đến trời Sắc Cứu Cánh đều đền lễ lạy chắp tay lạy chưn Bồ Tát ».

Tôn giả nói : « Đúng như vậy ».

Vô Úy Đức nói : « Do thành tựu pháp như vậy mà Bồ Tát ngồi tòa cỏ hơn người ngồi tòa cao rộng lớn, hơn đại Thanh Văn ở tại Phạm Thiên ».

Vua A Xà Thế bảo Vô Úy Đức rằng : « Con há chẳng biết Tôn giả La Hầu La đây là con trai của Thích Ca Như Lai ở trong hàng học giới là tối đệ nhứt ư ? ».

Vô Úy Đức nói : « Thôi đi Phụ Vương chớ nói như vậy. Phụ Vương có thấy nghe sư tử chúa sanh con dã can chăng ? ».

Vua nói : « Không hề thấy ».

Vô Úy Đức nói : « Phụ Vương có thấy có nghe Chuyển Luân Thánh Vương lễ kính chư Tiểu Vương chăng ? ».

Vua nói : « Không có ».

Vô Úy Đức nói : « Đúng vậy. Như Lai Sư Tử Vương chuyển đại pháp luân chư Thanh Văn cung kính vây quanh.

Nếu y chánh pháp thì ai là chơn tử của đức Như Lai. Thì nên đáp rằng chính là chư Bồ Tát vậy. Vì thế chẳng nên nói đức Như Lai có con hay đức Như Lai không con.

Nếu nói đức Như Lai có chơn tử thì nên nói ai phát tâm Vô thượng Bồ đề là chơn tử của đức Như Laỉ ».

Lúc nói pháp trên đây, trong cung vua A Xà Thế có hai vạn nữ nhơn phát tâm Bồ đề, hai vạn Thiên Tử đầy đủ pháp ấy nghe Vô Úy Đức sư tử hống rồi đều phát tâm Bồ đề.

Vua A Xà Thế lại nói : « Đây là con trai của chư Phật quá khứ vị lai hiện tại lìa hẳn phiền não học giới Thanh Văn thế nào chẳng phải chơn tử ! ».

Chư Thiêncúng dường Vô Úy Đức nên rải hoa lên đức Phật khắp thành Vương Xá.

Bấy giờ Vô Úy Đức rời tòa ngồi đến lễ kính chư đại Thanh Văn rồi dưng cúng các thực phẩm đúng như pháp. Cúng dường xong, Vô Úy Đức bạch rằng : « Chẳng biết chư Tôn giả đại Thanh Văn có chi sáng sớm rời xa đức Phật mà đến chốn nầy, phải nên nghe đức Phật thuyết pháp rồi sẽ đi khất thực. Chư Tôn giả về đi, trong giây lát đây tôi sẽ đến chỗ đức Phật ».

Vô Úy Đức cùng Phụ Vương A Xà Thế và Vương Mẫu vô lượng nhơn chúng doanh vây xuất thành đến chỗ đức Phật đồng đảnh lễ chưn Phật rồi ngồi một phía.
Chư Thanh Văn ấy cũng đến lễ chưn Phật rồi ngồi qua một bên. Tôn giả Xá Lợi Phất tác lễ bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Vô Úy Đức, cô gái nhỏ đây rất kỳ lạ, được phước lợi rất lớn ».

Đức Phật phán : « Nầy Xá Lợi Phất ! Vô Úy Đức đây đã ở nơi chín mươi ức Phật quá khứ phát tâm Bồ đề vun trồng căn lành để cầu Vô thượng Phật đạo ».
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Vô Úy Đức dây có thể chuyển thân nữ ấy chăng ? ».

Đức Phật phán : « Nầy Xá Lợi Phất ! Ông thấy Vô Úy Đức là nữ nhơn ư ? Ông chớ có thấy như vậy. Tại sao ? Vì Bồ Tát nầy phát nguyện lực mà thị hiện thân nữ nhơn để độ chúng sanh ».

Vô Úy Đức phát thệ rằng : « Nếu tất cả pháp chơn thiệt phi nam phi nữ thì khiến nay tôi hiện thân trượng phu cho tất cả đại chúng được thấy ».

Thệ xong liền diệt tướng nữ hiện thân trượng phu thăng lên hư không cao bằng bảy cây đa la rồi dừng ở tại đó không xuống.

Đức Phật phán : « Nầy Xá Lợi Phất ! Ông có thấy Bồ Tát Vô Úy Đức trụ tại hư không chẳng xuống ấy chăng ? ».

Tôn giả bạch : « Tôi đã thấy, bạch đức Thế Tôn ! ».

Đức Phật phán : « Nầy Xá Lợi Phất ! Vô Úy Đức Bồ Tát nầy lại quá bảy ngàn a tăng kỳ kiếp được thành Chánh giác hiệu Ly Cấu Như

Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, thế giới tên Quang Minh, đức Phật ấy thọ trăm kiếp, chánh pháp trụ thế mười kiếp, thuần Bồ Tát Tăng ba vạn bất thối chuyển Bồ Tát, thế giới ấy đất bằng lưu ly thanh tịnh , đường sá tám hướng trang nghiêm phủ với hoa sen báu, không có tên các ác đạo, trời, người đông đầy thọ diệu lạcthắng pháp vị như trời Đâu Suất » .

Mẹ của Vô Úy Đức là Nguyệt Quang phu nhơn cùng vua A Xà Thế đồng chắp tay hướng Phật bạch rằng : » Bạch đức Thế Tôn ! Tôi được đại lợi, chin tháng hoài thai người con nầy, nay đại sư tử hống như vậy. Nay tôi đem căn lành ấy hồi hướng Vô thượng Bồ đề, sau nầy tại thế giới Quang Minh của Phật Ly Cấu tôi sẽ thành đạo Vô thượng Chánh Chơn Chánh giác.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất : « Nầy Xá Lợi Phất !Nguyệt Quang phu nhơn đây sau khi xả thân người sẽ sanh làm thiên tử trời Đao Lợi hiệu là Quang Minh Tăng Thượng. Lúc Phật Di Lặc xuất thế sẽ là con trai lớn của Đại Vương thời ấy, cúng dường Phật Di Lặc rồi xuất gia, hay ghi nhớ thọ trì tất cả pháp của Phật Di Lặc tuyên thuyết. Từ đó thứ đệ gặp chư Phật Hiền kiếp và đều cúng dường. Đến thời kỳ Phật Ly Cấu xuất thế, sẽ hiện thân làm Đại Vương hiệu Trì Địa có đủ bảy báu cúng dường đức Ly Cấu Như Lai, sau đó thành Phật hiệu Biến Quang Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thành tựu thế giới trang nghiêm như thế giới Quang Minh của Phật Ly Cấu ».

Nghe đức Phật thọ ký, Nguyệt Quang phu nhơn vui mừng hớn hở liền cởi chuổi báu anh lạc giá trị trăm ngàn lượng vàng dâng lên cúng dường đức Phật, xin phép vua A Xà Thế rồi xuất gia thọ đủ năm trăm chánh giới tu tập phạm hạnh.

Vô Úy Đức Bồ Tát ở trước đức Phật bạch rằng : « Do sức nhơn duyên thệ nguyện nầy khiến thuở vị lai lúc tôi thành Phật chúng Bồ Tát đều mặc pháp phục tất cả hóa sanh. Nếu thệ nguyện trên đây không hư thì khiến nay tôi sẽ hiện thân như niên thiếu Tỳ kheo tám lạp ».

Phát nguyện xong, Bồ Tát Vô Úy Đức liền hiện thân mặc pháp phục thành Tỳ Kheo đầy đủ oai nghi.

Vô Úy Đức Bồ Tát nói với Phụ Vương A Xà Thế rằng : « Tâu Phụ Vương ! Tất cả các pháp đều như vậy, tức thì bỗng hóa sanh tướng rời các tướng được phân biệt sanh khởi, không các điên đảo. Tâu Phụ Vương ! Lại liền bây giờ hiện trở lại thân nữ nhơn, Phụ Vương có thấy chăng ? ».

Vua nói : « Đã thấy. Nhưng ta chẳng phải do tướng sắc thân để thấy. Nay ta thấy hiện thân Tỳ Kheo rồi lại thấy thân nữ nhơn trở lạỉ ».

Đức Phật hỏi vua : « Nầy Đại Vương !Thân nào là thiệt ? Đại Vương phải nên học như vậy an trụ chánh kiến đối với tất cả pháp. Các chúng sanh vì bị phiển não thiêu đốt nên chẳng đạt pháp lực. Vì chẳng đạt nên chẳng phải chỗ nghi mà sanh lòng nghi hối. Phải nên thường thường thân cận Như LaiVăn Thù Sư Lợi Đồng Tử Bồ Tát, vì do sức oai đức của Bồ Tát ấy mà khiến cho Đại Vương được thọ hối quá ».

Đức Phật bảo Tôn giả A Nan : « Nầy A Nan ! Ông thọ trì pháp môn Vô Úy Đức Bồ Tát thọ ký nầy đọc tụng chớ quên.

Nầy A Nan ! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn đầy đủ thất bửu đem cúng thí chư Phật Như Lai chật khắp Đại Thiên thế giới được công đức không bằng có người hay thọ trì một câu một kệ pháp môn nầy, huống là người thọ trì đủ hoặc đọc hoặc tụng rộng vì người giảng nói và như pháp tu hành ».

Đức Phật Thế Tôn nói kinh nầy rồi. Nguyệt Quang phu nhơn mẹ của Vô Úy Đức tất cả đại chúng Thiên Long Bát Bộ nghe đức Phật dạy xong đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
 
PHÁP HỘI VÔ ÚY ĐỨC BỒ TÁT 
THỨ BA MƯƠI HAI
HẾT

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11620)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11928)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11097)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12057)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12548)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10755)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17966)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9937)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10164)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12340)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15327)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11226)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14318)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12087)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15334)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11153)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10596)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13153)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14790)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12659)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16535)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19629)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13099)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12648)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12245)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11829)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10886)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13484)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11936)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11833)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11621)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12753)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15652)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13601)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12882)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9854)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18001)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11148)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9062)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12160)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13032)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10287)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12176)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15287)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16580)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12198)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11458)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14257)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19677)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24580)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10674)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant