Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

36-08-phẩm Phàm Phu Tướng

01 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7873)
36-08-phẩm Phàm Phu Tướng

KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XXXVI
PHÁP HỘI

THiỆN TRỤ Ý THiÊN TỬ

THỨ BA MƯƠi SÁU

Hán dịch :Tùy PhápĐạt Ma cấp Đa
Việt dịch: Việt Nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

PHẨM PHÁ PHÀM PHU TƯỚNG
THỨ TÁM

 
Bấy giờ Thiện Trụ Ý Thiên Tử lại bạch Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : “Bạch Đại Sĩ ! Nay Ngài có hứa cho tôi tu phạm hạnh chăng ?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “ Phải , nầy Thiên Tử ! Nếu nay Ngài có thể chẳng nghĩ tác cầu chẳng suy tiến xu thì tôi sẽ hứa cho Ngài tu phạm hạnh.

- Bạch Đại Sĩ ! Ngài nói như vậy là có nghĩa gì ?

Nầy Thiên Tử ! Nếu có vi tác có thể gọi phạm hạnh, nếu không vi tác thì có gì gọi là phạm hạnh. Lại nếu có thấy được có thể gọi là phạm hạnh, nếu không thấy được thì có gì gọi là phạm hạnh.

- Bạch Đại Sĩ ! Nay lẽ nào Ngài không phạm hạnh ư !

- Này Thiên Tử ! Đúng như vậy, tôi không phạm hạnh. Tại sao ? Vì xét về phạm hạnh thì chẳng phải phạm hạnh , vì chẳng phải phạm hạnh nên tôi gọi phạm hạnh ”.

- Thiện Trụ Ý Thiên Tử khen rằng : “ Lành thay, lành thay, bạch Đại Sĩ ! Ngài có đầy đủ lạc thuyết biện tài hay tuyên thuyết vô ngại như vậy.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “ Nầy Thiên Tử ! Nếu tôi có đủ vô ngại biện thì thành chướng ngại. Tại sao ? Vì phàm thủ trước ngã và ngã sở đều do phân biệt, vì tất cả phân biệt không gì chẳng phải là chưóng ngại vậy. Nầy Thiên Tử ! Nay nếu Ngài có thể giết chết tất cả chúng sanh mà chẳng cầm dao chẳng cầm gậy chẳng nấm tảng chẳng nấm khối để hành sự thì tôi sẽ đồng cùng với Ngài tu phạm hạnh.
- Bạch Đại Sĩ ! Lại do nghĩa gì mà Ngài nói như vậy ?
- Nầy Thiên Tử ! Nói là chúng sanh ấy, nơi ý Ngài thế nào ?

Bạch Đại Sĩ ! Theo tôi thì chúng sanh ấy và nhẫn đến tất cả chỉ có danh tự vì đều là tưởng chấp thôi.
- Nầy Thiên Tử ! Vì thế nên tôi nói nay Ngài phải cần giết hại ngã tưởng, giết hại nhân tưởng, giết chúng sanh tưởng, giết thọ mạng tưởng, nhẫn đến diệt trừ tưởng danh tự v.v... phải giết hại như vậy.
- Bạch Đại Sĩ ! nơi dùng sát cụ gì để giết hại ?
- Nầy Thiên Tử ! Tôi thường dùng dao bèn trí huệ ấy để hành sát. Lúc hành sát nên cầm dao trí huệ như vậy, nên giết như vậy, nhưng cũng không có ý tưởng cầm nắm và giết nại. Do nghĩa nầy nên Ngài phải khéo biết giết hại ngã tưởngchúng sanh tưởng, đây gọi là chơn thiệt sát hại tất cả chúng sanh. Được như vậy tôi sẽ hứa cho Ngài phạm hạnh

Nầy Thiên Tử ! Nay tôi lại bảo Ngài rằng : Nếu Ngài tu hành mười ác nghiệp đạo, Ngài lại hay thành tựu pháp đen trược cấu uế, bỏ mười thiện nghiệp đạo phá hoại ly tán pháp trong trắng thanh bạch thì tôi sẽ cùng Ngài tu phạm hạnh.

- Bạch Đại Sĩ ! Do nghĩa gì mà Ngài nói như vậy ?
- Nầy Thiên Tử ! Tất cả những nhiễm trược thanh bạch đều bình đẳng. Với bình đẳng ấy tôi được đồng với phạm hạnh của Ngài.
- Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào ? Ngài lấy pháp gì làm nhiễm trược bình đẳng ?
- Bạch Đại Sĩ ! Do chẳng tham chẳng làm chẳng thối chẳng đọa, đây gọi là nhiễm trược bình đẳng.
- Nầy Thiên Tử ! Lại do pháp gì làm thanh bạch bình đẳng ?
- Bạch Đại Sĩ ! Do như pháp tánh và cùng thiệt tế ba môn giải thoát, đây là thanh bạch bình đẳng.
- Nầy Thiên Tử ! Như tôi khiến Ngài ở trong cơn pháp giới đầy đủ tu hành xoay vòng qua lại, sự ấy có được chăng ?
- Bạch Đại Sĩ ! Chẳng được.
- Vì lẽ ấy nên, nầy Thiên Tử, tôi nói nhiễm trược thanh bạch tất cả bình đẳng rồi sau mới có thể cùng tu phạm hạnh.
- Nầy Thiên Tử ! Nay nếu Ngài có thể tay nắm người đáng chết rồi Ngài cầm dao bén chém đầu người ấy, tôi sẽ hứa cho Ngài phạm hạnh như vậy.
- Bạch Đại Sĩ ! Do nghĩa gì mà Ngài lại nói như vậy ?
- Nầy Thiên Tử ! Kẻ đáng chết là ai ? Cái gì là đầu ? Ai hay hành sát ?
Nầy Thiên Tử cần phải giết tham dục sân khuể ngu si, nhẫn đến cần phải giết những ngã mạn tật đố khi đối siểm khúc chấp trước thủ tướng và thọ tưởng v.v... đâylà những kẻ đáng giết.
Nầy Thiên Tử ! Nếu người nhứt tâm chuyên tinh tự thủ,lúc tâm tham dục phát khởi liền phải hay biết phương tiện trừ tan nó khiến trở ngại tịch tĩnh.
Trừ tan nó thế nào ?
Nên suy nghĩ như vầy : đây là không là bất tịnh, tìm tâm dục ấy chỗ sanh chỗ diệt, từ đâu đến, đi đến đâu, trong đây ai nhiễm, ai thọ nhiễm, gì là pháp nhiễm.
Quan sát như vậy chẳng thấy năng nhiễm chẳng thấy sở nhiễm chẳng thấy sự nhiễm. Vì chẳng thấy nên không có thủ. Vì không có thủ nên không có xả. Vì không có xả nên không có thọ. Chẳng xả chẳng thọ thì gọi là ly dục tịch diệt Niết bàn.
Nhẫn đến tất cả tâm cũng đều quan sát như vậy.
Nầy Thiên Tử ! Phải biết pháp giết hại như vậy liền giết liền sanh , nên được gọi là lúc hành sát ấy trước hết chặt đầu nó. Đây là chơn thiệt sát vậy.
Lại nầy Thiên Tử ! Nay nếu Ngài có thể chống trái chư Phật hủy báng Pháp và Tăng tôi sẽ đồng phạm hạnh với Ngài.
- Bạch Đại Sĩ ! Nay sao Ngài lại nói như vậy ?
- Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào, lấy gì làm Phật ?
- Bạch Đại Sĩ ! Như như pháp giới, tôi nói là Phật vậy.
- Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào, như như pháp giới có thể nhiễm trước chăng ?
- Bạch Đại Sĩ ! không được.
- Nầy Thiên Tử ! Vì nghĩa ấy mà tôi nói nếu Ngài có thể chống trái chư Phật thì tôi sẽ đồng phạm hạnh với Ngài.
Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào, lấy gì lám pháp?
- Bạch Đại Sĩ ! Ly dục tịch tĩnh tôi gọi là pháp.
- Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào , pháp tịch tĩnh ấy có thể nhiễm trước được chăng ?
- Bạch Đại Sĩ ! không được.
- Nầy Thiên Tử ! Vì nghĩa ấy mà tôi nói nếu nay Ngài có thể hủy báng chánh pháp thì tôi sẽ đồng phạm hạnh như vậy.
- Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào, lấy gì làm Tăng ?
- Bạch Đại Sĩ ! Pháp vô vi ấy gọi là Thánh Tăng, như đức Thế Tôn dạy rằng tất cả thánh nhơn do vô vi mà được tên, nên pháp vô vi gọi là Thanh Văn Tăng.
- Nầy Thiên Tử ! Pháp vô vi ấy có thể chấp trước được chăng?
- Bạch Đại Sĩ ! không được.
- Nầy Thiên Tử !Vì nghĩa ấy nên tôi nói nếu nay Ngài có thể phá hoại Thánh Tăng thì tôi sẽ đồng phạm hạnh với Ngài như vậy.

 Nầy Thiên Tử ! Nếu người thấy Phật là họ trước Phật, thấy Pháp là trước Pháp, thấy Tăng là trước Tăng. Tại sao ? Vì Phật Pháp Tăng chẳng phải có thể được. Nếu người chẳng thấy Phật chẳng nghe Pháp chẳng biết Tăng, người ấy là chẳng trái Phật cẳng báng Pháp chẳng phá Tăng vậy. Tại sao ? Vì người ấy chẳng có được Phật Pháp Tăng vậy.
Nầy Thiên Tử ! Nếu người ái Phật ái Pháp ái Tăng, người ấy có nhiễm trước Phật Pháp Tăng. Phải biết nếu người chẳng nhiễm trước Phật, Pháp, Tăng, thì gọi là ly dục tịch diệt. Do nghĩa nầy mà tôi nói nếu Ngài chẳng nhiễm trước Phật Pháp Tăng thì tôi sẽ đồng phạm hạnh cùng Ngài”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : “ Hy hữu, hy hữu, Đại Sĩ hay tuyên nói nghĩa xứ thậm thâm như vậy. Đối với Đại Sĩ tôi lấy gì để báo ơn”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói :
- Nầy thiên Tử ! Ngài chớ báo ơn. Tại sao ? Vì Ngài có thể chẳng báo ơn như vậy tức là chơn báo ơn.
- Bạch Đại Sĩ ! Nay Ngài chừng có thể không báo ơn chăng ?

- Đúng như vậy , nầy Thiên Tử, tôi chẳng báo ơn cũng chẳng phải là chẳng báo ơn.
- Bạch Đại Sĩ ! Do nghĩa gì mà Ngài nói như vậy ?
- Nầy Thiên Tử ! Kẻ phàm phu tạo nhiều sự khởi nhiều kiến chấp làm nhiều hạnh. Bởi họ làm những kiến những hạnh như vậy nên họ nghĩ rằng tôi sẽ báo ơn. Đây chẳng phải là những chánh hạnh. Người có chánh hạnh thì chẳng có chút gì để làm hoặc làm hay chẳng làm, người nầy trọn chẳng hề nói tôi nhớ báo ơn.
Lại nầy Thiên Tử ! Người chẳng báo ơn như đức Phật Thế Tôn tuyên nói bình đẳng. Nghĩa là tất cả pháp khôngsở tác không có chỗ làm đều nhập vào bình đẳng không có thối chuyển cũng không siêu việt chẳng phải tự chẳng phải tha không có tác bất tác. Vì thế nên tôi không báo ơn vậy.
- Bạch Đại Sĩ ! Ngài trụ chỗ nào mà nói như vậy ? Ngài trụ nhẫn mà nói hay trụ pháp mà nói ?
- Nầy Thiên Tử ! Chỗ tôi trụ chẳng phải nhẫn chẳng phải pháp.

 - Bạch Đại Sĩ ! Ngài thiệt trụ chỗ nào mà nói như vậy ?
- Nầy Thiên Tử ! Tôi không chỗ trụ, như thân hóa nhơn tôi trụ như vậy.
- Bạch Đại Sĩ ! Hóa nhơn ấy lại y cứ nơi đâu để trụ ?
- Nầy Thiên Tử ! Như như như trụ, hóa nhơn trụ như vậy. Nầy Thiên Tử ! Nếu là như vậy sao Ngài lại hỏi an trụ tại chỗ nào, là tại nhẫn hay tại pháp. Nầy Thiên Tử ! Vì thế nên tôi nói nhẫn chỉ có danh tự. Danh tự không có chỗ trụ. Pháp cũng như vậy, không có chỗ trụ không có động chuyển cũng không có phân biệt. Thiên Tử nên biết tất cả các pháp đều không có chỗ trụ, mà nói chỗ trụ ấy là đức Phật vì các chúng sanh mà nói. Như đức Phật nói. Như Lai trụ trong pháp như như ấy tất cả chúng sanh cũng như vậytrụ trong như như chẳng hề di động. Như chúng sanh như là Như Lai như, Như Lai như là chúng sanh n, chúng sanhNhư Lai không hai không khác.
- Bạch Đại Sĩ ! Nói rằng “Sa Môn na ». Sa Môn na ấy có nghĩa gì ?

 - Nầy Thiên Tử ! Nếu chẳng phải Sa Môn chẳng phải Bà La Môn thì gọi là chơn Sa Môn vậy. Tại sao ? Vì họ chẳng trước Dục giới Sắc giới Vô sắc giới nên gọi chơn Sa môn.
Lại nầy Thiên Tử ! Nếu nhãn chẳng lộ nhĩ tỉ thiệt thân và ý chẳng lậu, tôi gọi là chơn Sa Môn.
Nầy Thiên Tử ! Nếu chẳng y chỉ thuyết chẳng y chỉ chúng chẳng y chỉ xứ, tôi lại gọi là chơn Sa Môn vậy.
Nầy Thiên Tử ! Nếu không chỗ đi không chỗ đến không tổn không hại không tổn không hại, tôi lại nói là chơn Sa Môn vậy.
Nầy Thiên Tử ! Vì thế nên câu nói trên kia : chẳng pha”i Sa Môn chẳng phải Bà La Môn tôi mới nói là chơn Sa Môn vậy”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát “Lành thay, lành thay, thiệt chưa từng có, chí Ngài dường kim cương, lời Ngài tuyên nói không có chương cú cũng không có xứ sở, tâm đều liễu đạt không có sót thừa”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Nầy Thiên Tử ! Tâm tôi chẳng cương , tại sao, vì tôi tự phóng ý lòng an nhu nhẫn nên chẳng cương vậy.

- Bạch Đại Sĩ ! Nghĩa ấy thế nào ?
- Nầy Thiên Tử ! Tôi thả lỏng tâm nhập Thanh Văn địa ở duyên giác cảnh nên gọi là phóng ý. Tôi lại thả lỏng tâm vào trong các trần lao sanh tử mà cũng chẳng chán ghét họa hại phiền não tham sân si nên gọi là phóng ý”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử lại khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: “ Lành thay, lành thay, hi hữu Đại Sĩ ! Do Ngài từ quá khứ đã lâu cúng dường chư Phật trồng các cội đức lành nên Ngài hay tuyên nói vi diệu dường ấy”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Nầy Thiên Tử ! Tôi không cúng Phật, không trồng cội lành. Tại sao ? Vì tôi không hề thấy thuở xưa đã qua, cũng chẳng biết đương lai sẽ làm. Dầu có làm cũng không có làm. Nơi cácPhật pháp tôi chưa hề kiến lập thì sao lại hay trồng các cội đức lành !”

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14728)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11799)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12741)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10315)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12040)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15258)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11050)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10490)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12441)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16408)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14279)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11748)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14773)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12002)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16794)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11550)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12711)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11322)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12033)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52057)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15445)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13949)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11415)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13143)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12757)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13194)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17881)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12426)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12632)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54177)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14408)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9908)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13806)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57924)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14471)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20105)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13754)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15376)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17475)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13298)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11902)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13469)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14638)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12461)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12141)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12048)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13269)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12518)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13651)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13308)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25543)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12167)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14519)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11827)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42039)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28287)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38761)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14705)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12681)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16230)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant