Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

42. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Sở Vấn

01 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7980)
42. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Sở Vấn

KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XLII
PHÁP HỘI DI LẶC BỒ TÁT SỞ VẤN

THỨ BỐN MƯƠI HAI

Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Như vầy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Ba La Nại trong rừng Thí Lộc cùng chúng đại Tỳ kheo năm trăm người câu hội, tất cả đều là tri thức của đại chúng, danh hiệu các Ngài là:

A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Gia Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, A Nan, La Hầu La v.v... làm thượng thủ.

Còn có một vạn đại Bồ tát câu hội. Danh hiệu các Ngài là:

Thiện Ý Bồ tát, Tăng Thượng Ý Bồ tát, Kiên Cố Ý Bồ tát, Sư Tử Ý Bồ tát, Quan Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Biện Tích Bồ tát, Mỹ Âm Bồ tát, Thắng Tràng Bồ tát, Tín Huệ Bồ tát, Thủy Thiên Bồ tát, Đế Thắng Bồ tát, Đế Thiên Bồ tát, Vô Phan Duyên Bồ tát, Cụ Biện Tài Bồ tát, Thần Thông Diệu Hoa Bồ tát, Di Lặc Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử v.v... làm thượng thủ.

Đức Thế Tônvô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh cúng dường cung kính mà vì họ thuyết pháp.

Bấy giờ Di Lặc Bồ tát ở trong chúng đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất đảnh lễ chắp taybạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi có chút nghi nay muốn thỉnh hỏi Như Lai, ngưỡng mong cho phép”.

Đức Phật dậy: “Nầy Di Lặc! Nếu có chỗ nghi cho phép ông hỏi, ta sẽ giải nói cho ông vui mừng”.
Được Phật hứa cho, Di Lặc Bồ tát vui mừng hớn hở bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Bồ tát thành tựu mấy pháp được lìa ác đạoác tri thức mà mau chứng Vô thượng Bồ đề?”.

Đức Phật dạy: “Lành thay, lành thay, nầy Di Lặc! Nay ông thương xót tất cả muốn lợi ích an vui cho Trời Người mà hỏi nơi Như Lai về thâm nghĩa ấy. Ông nên lắng nghe khéo suy nghĩ, ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.

- Vâng bạch đức Thế Tôn! Tôi xin ưa thích được nghe.

- Nầy Di Lặc! Có một pháp mà Bồ tát thành tựu thì lìa các ác đạoác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Đó là phát tâm Bồ đề ý nguyện thù thắng.

Còn có hai pháp lìa các ác đạoác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là với xa ma tha thường siêng tu tập, hai là với tỳ bát xá na thì được thiện xảo.

Còn có ba pháp lìa các ác đạoác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là thành tựu đại bi, hai là tu tập pháp không, ba là nơi tất cả pháp chẳng sanh phân biệt.

Còn có bốn pháp lìa các ác đạoác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là an trụ tịnh giới, hai là lìa các lưới nghi, ba là thích a lan nhã, bốn là khởi tâm chánh kiến.

Còn có năm pháp lìa các ác đạoác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là an trụ pháp không, hai là chẳng cầu tìm lỗi người, ba là thường tự quan sát, bốn là yêu thích chánh pháp, năm là nhiếp hộ người.

Còn có sáu pháp lìa các ác đạoác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là không có tham dục, hai là chẳng sanh sân khuể, ba là chẳng khởi ngu si, bốn là thường lìa thô ngữ, năm là an trụ tánh không, sáu là tâm như hư không.

Còn có bảy pháp lìa các ác đạoác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là an trụ chánh niệm, hai là thành tựu trạch pháp, ba là phát khởi tinh tiến, bốn là thường sanh hoan hỷ, năm là thân được khinh an, sáu là trụ các thiền định, bảy là có đủ hành xả.

Còn có tám pháp lìa các ác đạoác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là chánh kiến, hai là chánh tư duy, ba là chánh ngữ, bốn là chánh nghiệp, năm là chánh mạng, sáu là chánh tinh tiến, bảy là chánh niệm và tám là chánh định.

Còn có chín pháp lìa các ác đạoác tri thức mau có thể chứng Vô thượng Bồ đề. Một là xa lìa các pháp tham dục, ác bất thiện mà an trụ sơ thiền tầm từ hỉ lạc tâm nhứt cảnh tánh. Hai là xa lìa tầm từ an trụ nhị thiền nội tịnh hỉ lạc tâm nhứt cảnh tánh. Ba là xa lìa hỉ an trụ tam thiền xả niệm huệ lạc tâm nhứt cảnh tánh. Bốn là xa lìa ưu khổ và hỉ lạc an trụ tứ thiền xả niệm thanh tịnh vô khổ vô lạc tâm nhứt cảnh tánh. Năm là vượt quá sắc tưởng không phan duyên dị biệt an trụ vô biên hư không xứ định. Sáu là vượt qua vô biên hư không xứ định rồi có thể an trụ vô biên thức xứ định. Bảy là vượt qua vô biên thức xứ định rồi có thể an trụ vô sở hữu xứ định. Tám là vượt qua vô sở hữu xứ định rồi có thể an trụ phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Chín là vượt qua phi tưởng phi phi tưởng xứ định rồi có thể an trụ diệt thọ tưởng định.

Còn có mười pháp xa lìa ác đạoác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là khéo có thể thành tựu kim cương tam muội. Hai là thành tựu xứ phi xứ tương ưng tam muội. Ba là thành tựu phương tiện hành tam muội. Bốn là thành tựu biến chiếu minh tam muội. Năm là thành tựu phổ quang minh tam muội. Sáu là thành tựu phổ biến chiếu minh tam muội. Bảy là thành tựu bửu nguyệt tam muội. Tám là thành tựu nguyệt đăng tam muội. Chín là thành tựu xuất ly tam muội. Mười là thành tựu thắng tràng tý ấn tam muội.

Nầy Di Lặc! Thành tựu các pháp như vậy rồi, Bồ tát lìa các ác đạoác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề”.

Được nghe pháp rồi, Di Lặc Bồ tát rất vui mừng trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay cung kính ở trước Phật nói kệ tán thán:

“Phật ở kiếp quá khứ
Bỏ vợ con yêu thương
Đầu mắt và xương tủy
Đến bờ kia bố thí
Phật thường hộ cấm giới
Như trâu mao mến đuôi
Tối thắng không ngang sánh
Đến bờ kia trì giới 
Phật dùng sức nhẫn nhục
Bỏ lìa các đấu tranh
Chẳng cầu tìm lỗi người
Đến bờ kia nhẫn nhục
Phật dùng sức tinh tiến
Được vô thượng tịch tĩnh
Cứu cánh thường an vui
Đến bờ kia tinh tiến
Phật dùng sức thiền định
Hay diệt trừ tội nhơ
Làm Đạo Sư Trời Người
Đến bờ kia thiền định
Phật dùng sức trí huệ
Khéo biết rõ các pháp
Tự tánh vô sở hữu
Đến bờ kia Bát nhã
Phật tại Bồ đề thọ
Hàng phục các quân ma
Đầy đủ trí tối thắng
Thành tựu đạo vô thượng
Đạo Sư sức vô úy
Nơi nước Ba La Nại
Chuyển pháp luân thanh tịnh
Dẹp phá các ngoại đạo
Trí huệ lớn vô thượng
Ra khỏi các thế gian
Hay phóng tịnh quang minh
Khéo nói các pháp yếu
Như Lai sắc thanh tịnh
Trí huệcông đức
Vượt quá các thế gian
Hay đến nơi bờ kia”.

Trưởng lão A Nan bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Di Lặc Bồ tát nầy rất hi hữu hay thành tựu vô lượng biện tài tùy theo tâm niệm của chúng sanhbình đẳng thuyết pháp, nhưng đối với văn tự không có chỗ buộc dính”.

Đức Phật dạy: “Đúng như vậy, đúng như lời ông nói. Nầy A Nan! Di Lặc Bồ tát đâu phải chỉ có hôm nay ở trước ta nói kệ tán thán đức Phật, mà từ quá khứ mười vô số kiếp, thuở ấy có Phật xuất thế hiệu Diệm Quang Du Hí Diệu Âm Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Bấy giờ có một Bà La Môn tên Hiền Thọ thân tướng đầy đủ ai thấy cũng đều vui mừng, từ trong vườn đi ra thấy đức Như Lai đoan chánh thù diệu các căn tịch tĩnh được xa ma tha như ao nước trong sạch không bợn nhơ, có ba mươi hai tướng và tám mươi tùy hảo để tự trang nghiêm, như cây ta la nở hoa, như núi Tu Di cao vọt hơn cả, vẻ mặt tươi vui như trăng tròn, chiếu sáng rực rỡ như mặt nhựt tỏ rạng, thân hình tròn trịa như cây ni câu đà.

Thấy tướng thù thắng của Phật Như Lai, Hiền Thọ sanh lòng tịnh tín suy nghĩ rằng: Hi hữu Thế Tôn hay thành tựu vô lượng công đức trang nghiêm như vậy. Tôi cũng nguyện tương lai cũng thành tựu thân công đức như vậy.

Phát nguyện xong, Hiền Thọ reo mình xuống đất lại tự nghĩ rằng: Nếu đời đương lai tôi sẽ được thân Phật nguyện chưn Như Lai đạp lên mình tôi.

Biết ý nghĩ ấy, đức Phật Như Lai liền lấy chưn mình dẫm lên thân Hiền Thọ. Lúc đức Phật Như Lai hạ chưn xuống, Hiền Thọ được vô sanh pháp nhẫn. Đức Phật Như Lai ngó ngoái lại bảo chúng Tỳ kheo rằng các ông chớ đạp lên mình Hiền Thọ, tại sao, vì đây là đại Bồ tát nay đã chứng vô sanh pháp nhẫn, lại hay thành tựu thiên nhãn thiên nhĩ tha tâm túc thần cảnh trí thông.

Hiền Thọ liền ở trước đức Phật Diệm Quang nói kệ tán thán rằng:

Phật ở mười phương cõi
Tối tôn tối vô thượng
Siêu quá các thế gian
Nay tôi cúi đầu lạy
Như Lai đại quang minh
Chói che cả nhựt nguyệt
Siêu quá các thế gian
Nay tôi cúi đầu lạy
Ví như sư tử hống
Muôn thú điều kinh sợ
Thế Tôn đại oai đức 
Xô dẹp các ngoại đạo
Tướng lông trắng giữa mày
Trong sáng như pha lê
Chiếu khắp các thế gian
Siêu quá hơn tất cả
Thế Tôn không ai bằng
Lòng chưn thiên bức luân
Thanh tịnh hóa thế gian
Hay chấn động trời đất 
Thành tựu đạo xuất ly 
Siêu quá biển phiền não
Đem các của công đức
Tùy ý ban tất cả
Như Lai giới thanh tịnh
Xuất sanh các công đức
Không có lòng thương ghét
Dường như cõi đại địa
Do nơi sức trí huệ 
Biết rõ các pháp không
Chúng sanh và tghọ giả
Phân biệt bất khả đắc
Khéo rành tánh chúng sanh
Tâm hànhsở nguyện
Làm đèn sáng cho đời
Lợi ích tất cả loài
Thế gian khổ bức bách
Trôi chìm trong dòng sâu
Phật thường vì chúng sanh
Phát sức tinh tiến lớn
Thế Tôn lìa phiền não
Sanh lão và bịnh tử
Ở đời như hư không
Tất cả không nhiễm ô
Trí huệ oai quang lớn
Hay phá tất cả tối
Lìa hẳn tham sân si
Nay tôi cúi đầu lạy.

Hiền Thọ Bồ tát được thần thông đến nay chẳng còn thối thất. Nầy A Nan! Hiền Thọ thuở ấy chính là Di Lặc đại Bồ tát nay ở trong hội nầy vậy.

- Bạch đức Thế tôn! Di Lặc đại Bồ tát từ lâu đã chứng vô sanh pháp nhẫn cớ sao chẳng được Vô thượng Bồ đề?

- Nầy A Nan! Bồ tát có hai thứ trang nghiêm và hai thứ nhiếp thủ. Đó là nhiếp thủ chúng sanhtrang nghiêm chúng sanh, nhiếp thủ Phật quốctrang nghiêm Phật quốc.

Thuở quá khứ lúc tu Bồ tát hạnh, Di Lặc Bồ tát thường thích nhiếp thủtrang nghiêm Phật quốc, còn ta thì thường ưa nhiếp thủtrang nghiêm chúng sanh. Di Lặc Bồ tát tu Bồ tát hạnh trải qua bốn mươi kiếp bấy giờ ta mới phát tâm Vô thượng Bồ đề, do vì ta có sức dũng mãnh tinh tiến nên siêu việt chín kiếp, ở trong Hiền kiếp nầy thành Vô thượng Bồ đề.

Nầy A Nan! Ta do mười pháp mà chứng Bồ đề: Một là hay xả thí vật sở ái, hai là hay thí vợ sở ái, ba là hay thí con sở ái, bốn là hay thí đầu sở ái, năm la hay thí mắt sở ái, sáu là hay thí ngôi vua sở ái, bảy là hay thí trân bửu sở ái, tám là hay thí máu thịt sở ái, chín là hay thí xương tủy sở ái, mười là hay thí thân phần sở ái. Ta thật hành mười pháp nầy mà được Vô thượng Bồ đề.

Nầy A Nan! Còn có mười pháp hay chứng Bồ đề: Một là hộ giới công đức, hai là thành tựu nhẫn nhục, ba là phát khởi tinh tiến, bốn là được các thiền định, năm là có đại trí huệ, sáu là thường chẳng bỏ lìa các chúng sanh, bảy là khởi tâm bình đẳng đối với chúng sanh, tám là thường tu tập pháp không, chín là khéo hay thành tựu tánh không chơn thiệt, mười là khéo hay thành tựu vô tướng vô nguyện. Ta thật hành mười pháp nầy mà được Vô thượng Bồ đề.

Nầy A Nan! Thuở quá khứ lúc hành đạo Bồ tát, Di Lặc Bồ tát chẳng có thể xả thí tay chưn đầu mắt, chỉ dùng thiện xảo phương tiện đạo hạnh an lạc mà tích tập Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Di Lặc Bồ tát thuở quá khứ lúc hành đạo Bồ tát chỉ dùng thiện xảo phương tiện đạo hạnh an lạc mà tích tập Vô thượng Bồ đề?

- Nầy A nan! Thuở quá khứ lúc hành đạo Bồ tát, Di Lặc ngày đêm sáu thời trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay đảnh lễ ở trước chư Phật mà nói kệ rằng:

Nay tôi quy mạng lễ
Tất cả Phật mười phương 
Bồ tát chúngThanh văn 
Đấng đại tiên thiên nhãn
Cùng lễ tâm Bồ đề
Lìa xa các ác đạo
Hay được sanh lên trời
Nhẫn đến chứng Niết bàn
Nếu tôi phạm chút tội
Theo tâm mà sanh ra
Nay tôi ở trước Phật 
Sám hối cho tiêu diệt
Nay thân khẩu ý tôi
Chứa họp các công đức
Nguyện làm nhơn Bồ đề
Sẽ thành đạo Vô thượng
Trong quốc độ mười phương
Những người cúng dường Phật
Và Phật vô thượng trí
Nay tôi đều tùy hỉ
Có tội đều sám hối
Phước đức đều tùy hỉ 
Nay tôi lễ chư Phật
Nguyện thành trí vô thượng
Chư Bồ tát mười phương
Chứng được bực thập địa
Nay tôi cúi đầu lạy
Nguyện mau chứng Bồ đề
Được chứng Bồ đề rồi
Xô dẹp các quân ma
Chuyển pháp luân thanh tịnh
Lợi ích loài chúng sanh
Thường nguyện ở thế gian
Vô lượng câu chi kiếp
Gióng trống pháp lớn lên
Độ thoát khổ chúng sanh
Tôi bị ngập bùn dục
Bị dây tham trói buộc
Nhiều các thứ triền phược
Nguyện Phật thương xem xét
Chúng sanh dầu tội nặng
Chư Phật chẳng chán bỏ
Nguyện dùng đại từ bi 
Độ thoát biển sanh tử
Hiện tại chư Thế tôn
Quá khứ vị lai Phật
Bồ tát đạo đã làm
Nay tôi nguyện tu học
Đầy đủ Ba la mật
Thành tựu sáu thần thông
Độ thoát các chúng sanh
Chứng được đạo vô thượng
Biết rõ các pháp không
Không trụ không biểu thị
Chẳng sanh cũng chẳng diệt
Lại như đấng Đại Tiên
Khéo rõ pháp vô ngã
Không bổ đặc già la
Nhẫn đến không thọ giả
Nơi các sự bố thí
Chẳng chấp ngã ngã sở
an lạc chúng sanh
Thí cho không bỏn xẻn
Nguyệt vật tôi bố thí
Chẳng cần công dụng sanh
Quan sát biết rõ không
Đủ Thí ba la mật 
Trì giới không khuyết giảm
Được Phật tịnh thi la
Do vì vô sở trụ
Đủ giới Ba la mật
Nhẫn nhục như tứ đại
Chẳng sanh tâm phân biệt
Do vì không sân khuể
Đủ Nhẫn ba la mật
Nguyện dùng sức thân tâm
Phát khởi đại tinh tiến
Kiên cố không giải đãi
Đủ Cần ba la mật
Do như huyễn như hóa
dũng mãnh tinh tiến
Kim cương các tam muội
Đủ Thiển ba la mật
Nguyện chứng tam muội trí
Nhập vào tam giải thoát
tam thế bình đẳng
Đủ Huệ Ba la mật
Chư Phật diệu sắc thân
Quang minh oai đức lớn
Bồ tát tinh tiến hạnh
Nguyện tôi đều tròn đầy
Di Lặc Bồ tát ấy
Siêng tu hạnh như vậy
Đủ sáu Ba la mật
An trụ bực thập địa.

Nầy A Nan! Di Lặc Bồ tát an trụ thiện xảo phương tiện như vậy tích tập Vô thượng bồ đề.

Nầy A Nan! Thuở xưa ta cầu đạo nhận lấy vô lượng khổ mới có thể tích tập Vô thượng Bồ đề.

Thuở xa xưa có Thái tử tên Kiên Nhứt Thiết Nghĩa đoan chánh đẹp lạ có đủ các tướng tốt ai thấy cũng đều vui mừng. Một hôm Thái tử du ngoạn thấy một bịnh nhơn đau khổ nặng, Thái tử xót thương hỏi thăm: Nay bịnh nầy của ngươi há lại không có thuốc để chữa lành sao? Bịnh nhơn nói kệ đáp Thái tử:

Bịnh tôi khó tìm thuốc
Thế gian chẳng có được
Huống là kẻ mắc bịnh
Người giỏi nói y phương
Thông đạt các sách vở
Dầu muốn trị bịnh nầy
Thuốc ấy khó có được.

Thái tử nói kệ bảo bịnh nhơn:

Vàng bạc châu ma ni
Nhẫn đến các voi ngựa
Cần gì xin người nói
Để trừ khổ cho người.

Bịnh nhơn lại nói kệ bạch Thái tử:

Nếu uống huyết Thái tử
Chắc tôi được an vui
Xin Thái tử vui lòng
Cho tôi hết đau khổ.

Thái tử liền nói kệ bảo bịnh nhơn:

Nếu tôi vì chúng sanh
Mà phải đọa địa ngục
Nhiều kiếp còn chịu được
Huống là thân huyết nầy.

Lúc Thái tử lấy dao bén đâm vào thân chảy máu bảo bịnh nhơn tùy ý uống chẳng hề có một niệm hối hận.

Nầy A Nan! Thái tử Kiến Nhứt Thiết Nghĩa thuở xưa kia chính là thân ta vậy. Nước bốn đại hải còn có thể đong lường, lúc hành đạo Bồ tát ta xả thí máu nơi thân mình chẳng tính kể được.

Nầy A Nan! Thuở xa xưa có Thái tử tên Diệu Hoa đoan chánh đẹp lạ đủ các tướng tốt người thấy vui mừng. Một hôm Thái tử du ngoạn thấy một bịnh nhơn ốm gầy sanh lòng thương hỏi thăm: Nay bịnh của ngươi há lại không có thuốc chữa lành sao?

Bịnh nhơn nói kệ bạch Thái tử:

Thế gianlương y
Chẳng chữa được bịnh tôi 
Xin Ngài rủ lòng thương 
Trừ đau khổ cho tôi 

Thái tử nói kệ bảo bịnh nhơn:

Tất cả đều bố thí
Thân phần và trân bửu
Cần gì xin người nói.

Bịnh nhơn nói kệ bạch Thái tử:

Ví như đại dược vương
Tùy ý chữa lành bịnh
Cũng như nhựt nguyệt sáng
Chiếu khắp các thế gian
Nếu được tủy thân Ngài
Thoa khắp thân thể tôi
Bịnh nầy sẽ tiêu trừ
Mãi mãi được an vui. 
Thái tử liền nói kệ bảo bịnh nhơn;

Nếu có các chúng sanh
Đập thân tôi lấy tủy
Vì lợi ích thế gian
Lòng tôi chẳng ưu não.

Thái tử liền tự đập nát thân lấy tủy cho bịnh nhơn tùy ý dùng không có chút niệm hối hận.

Nầy A Nan! Nên biết thuở xưa Thái tử Diệu Hoa kia chính là thân ta. Nước bốn đại hải có thể đong lường, thuở xưa ta hành đạo Bồ tát xả thí xương tủy nơi thân mình không thể tính kể được.

Nầy A Nan! Thuở xa xưa có Quốc vương tên Nguyệt Quang đoan chánh đẹp lạ đủ tướng tốt người thấy vui mừng, du ngoạn thấy một người mù ăn xin, chạnh lòng thương nhà vua hỏi: Người cần dùng gì ta sẽ cấp cho, hoặc đồ ăn uống y phục đồ trang sức châu ngọc trân bửu, tùy ý người muốn đều sẽ được ban. 

Người mù nói kệ bạch Quốc vương:

Đại vương như nhựt nguyệt
Quang minh soi thế gian
Đầy đủ thắng công đức
Chẳng lâu sanh lên trời
Tất cả màu sắc đẹp
Nay tôi đều chẳng thấy
Xin vua đại từ bi
Ban tôi mắt của vua.

Quốc vương nói kệ đáp người mù:

Người mau đến lấy mắt
Cho người được an vui
Người tôi đến đời sau
Được mắt Phật thanh tịnh
Tôi hành đạo Bồ tát
Tất cả đều xả thí
Nếu tôi chẳng cho người
Thì trái với bổn nguyện.

Vua Nguyệt Quang liền tự móc tròng mắt mình thí cho người mù tùy ý dùng chẳng có một niệm hối hận. Nầy A Nan! Nên biết thuở xưa vua Nguyệt Quang kia chính là thân ta. Núi Tu Di còn có thể đo lường, lúc ta hành đạo Bồ tát bố thí con mắt của mình chẳng thể kể đếm được.

Nầy A Nan! Di Lặc Bồ tát lúc hành đạo Bồ tátphát nguyện rằng: Nếu các chúng sanh tham sân si mỏng thành tựu thập thiện bấy giờ tôi sẽ thành Vô thượng Bồ đề.

Nầy A Nan! Đời đương lai có thuở các chúng sanh tham sân si mỏng thành tựu thập thiện, bấy giờ Di Lặc Bồ tát sẽ thành Vô thượng Bồ đề. Tại sao, vì do nơi bổn nguyện lực của Bồ tát vậy.

Nầy A Nan! Thuở xưa lúc hành đạo Bồ tát, ta phát lời rằng: Tôi nguyện sẽ ở nơi đời ác ngũ trược các chúng sanh ác tham sân si nặng, họ chẳng hiếu với cha mẹ chẳng kính bực tôn trưởng, nhẫn đến quyến thuộc chẳng hòa thuận nhau, bấy giờ tôi sẽ thành Vô thượng Bồ đề. Do bổn nguyện như vậy nên nay ta vào thành ấp tụ lạc, có nhiều chúng sanh khi mắng ta, họ dùng pháp đoạn pháp thường tụ chúng hội họp. Hoặc lúc ta đi khất thực, họ rải đất bụi, họ trộn thuốc độc cho ta ăn. Hoặc họ dùng nữ nhơn hủy báng ta. 

Nầy A Nan! Nay ta do sức bổn nguyện khởi tâm đại bi vì các chúng sanh ấy thuyết pháp”.

Trưởng lão A Nan bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác hay làm việc khó hay nhẫn việc khó, người chẳng điều phục đều khiến điều phục, mang gánh những chúng sanh tội cấu như vậy mà thuyết pháp cho họ”. 

Đức Phật dạy: “Đúng như lời ông nói. Tại sao, vì do đại bi của Như Lai nhiếp lấy vậy.

- Bạch đức Thế Tôn! Tôi nghe thệ nguyện vững chắc của đức Như Laitoàn thân lông dựng đứng. Bạch đức Thế Tôn! Kinh nầy tên là gì, chúng tôi phải phụng trì thế nào?

- Nầy A Nan! Kinh nầy tên là Di Lặc Sở Vấn, cũng tên là Vãng Tích Bổn Nguyện Nhơn Duyên, ông nên phụng trì như vậy”.

Đức Phật nói kinh nầy rồi, Di Lặc Bồ tát, Tôn giả A Nan, tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La v.v... nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.

PHÁP HỘI DI LẶC BỒ TÁT SỞ VẤN
THỨ BỐN MƯƠI HAI 
HẾT

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12496)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11642)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28808)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12051)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11444)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12379)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17444)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53054)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35489)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21396)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12406)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26046)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13319)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14381)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16088)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16840)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17585)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13130)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12532)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11609)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11617)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14510)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20485)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18994)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19565)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18654)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12185)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12315)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13860)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15515)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11404)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17194)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20196)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13840)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11709)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15063)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14556)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13170)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18343)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11941)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11501)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15851)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12884)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18908)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18422)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant