Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

01. Quyển Thứ Nhất

16 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6446)
01. Quyển Thứ Nhất

KINH NHẬP LĂNG GIÀ
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy 
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

 

Quyển thứ nhất

PHẨM THỨ NHẤT: THỈNH PHẬT

 

Quy mạng Đại Trí Hải Tỳ Lô Giá Na Phật!

Tôi nghe như vầy, một thuở đức Thế Tôn trụ trong thành Lăng Già trên đỉnh núi Ma La Gia bên bờ biển lớn, núi đó tạo thành bằng đủ thứ tính báu, các báu xen lẫn, ánh sáng rực rỡ như trăm ngàn mặt trời soi sáng núi vàng. Lại có vô lượng vườn hoa, cây thơm đều là rừng hương báu, gió nhẹ thổi qua, lay cành động lá làm trăm ngàn diệu hương nhất thời lan tỏa, trăm ngàn diệu âm nhất thời phát ra. Núi cao lớp lớp quanh co, nơi nơi đều có tiên đường, linh thất, khám thờ, hang động do vô số những báu tạo thành, trong ngoài sáng trưng mà ánh sáng mặt trời mặt trăng đều phải mờ nhạt. Nơi đây chính là chỗ thuở xưa chư tiên, thánh hiền tư duy pháp như thật đắc đạo. Đức Phật đã cùng với đại Tỳkheo tăng và chúng Đại Bồ tát mà các vị đều từ đủ thứ cõi Phật phương khác đều đến tập hội nơi đây. Các vị Bồ tát này đầy đủ vô lượng lực tự tại tam muội thần thông, phấn tấn du hóa, năm pháp tự tính, hai thứ vô ngã rốt ráo thông đạtĐại Bồ tát Đại Tuệ làm thượng thủ. Tay của tất cả chư Phật đều quán đỉnh Bồ tát ấy mà trao ngôi vị Phật, tự tâm là cảnh, giỏi giải ý nghĩa ấy, đủ thứ chúng sinh, đủ thứ tâm sắc, tùy theo đủ thứ tâm, đủ thứ niệm khác với vô lượng pháp môn độ nên tùy việc ứng độ, tùy việc ứng thấy mà vì họ thị hiện khắp.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói pháp ở cung vua rồng trong biển lớn đã mãn bảy ngày, rồi đi đến bờ phía Nam. Có vô lượng na do tha Đế Thích, Phạm Vương, Thiên Vương, các vua rồng.v.v... vô biên đại chúng đều tùy tùng hướng về bờ Nam của biển. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn từ xa quan sát thành Lăng Già trên núi Ma La Gia mà quang nhan thư thái như lay động núi vàng, vui vẻ mĩm cười mà nói rằng:

- Chư Phật Ứng Chánh Biến Tri đời quá khứ đã ở trong thành Lăng Già trên đỉnh núi Ma La Gia kia, nói lên “Tự nội thân thánh trí chứng pháp”, lìa khỏi tất cả tà kiến giác quán, chẳng phải cảnh giới tu hành của các ngoại đạo, Thanh Văn, Bích Chi Phật.v.v... Ta cũng nên ở trong thành Lăng Già trên núi Ma La Gia kia mà vì vua dạ xoa La Bà Na thượng thủ nói lên pháp này.

Lúc bấy giờ, vua dạ xoa La Ba Na nhờ thần lực của đức Phật nên nghe tiếng của đức Như Lai. Đức Thế Tôn rời khỏi cung vua rồng biển qua khỏi biển lớn rồi cùng với những na do tha vô lượng Phạm Vương, Đế Thích, Thiên Vương, các long vương.v.v... vây quanh cung kính. Bấy giờ, đức Như Lai quan sát sóng nước biển cả A Lê Gia Thức của chúng sinh bị các cảnh giới gió mạnh thổi động nên làn sóng chuyển thức theo duyên mà khởi. Bấy giờ, vua dạ xoa La Bà Na tự than rằng: “Ta nên thỉnh đức Như Lai vào thành Lăng Già để khiến cho ta mãi mãi ở trong trời, người, cùng với những trời, người được lợi ích lớn, mau được an lạc”. Bấy giờ, vua dạ xoa La Bà Na, chủ của thành Lăng Già cùng với các quyến thuộc cưỡi cung điện hoa đi đến chỗ đức Như Lai. Rồi ông cùng các quyến thuộc từ cung điện xuống, nhiễu quanh đức Phật ba vòng, dùng đủ thứ kỹ nhạc làm vui cho đức Như Lai. Những nhạc khí họ mang theo đều làm bằng báu Nhân đà la xanh lớn và khảm xen vào các thứ báu khác như đại tỳ lưu ly, mã não...., bao bọc nhạc khí bằng lớp áo mà màu sắc vô giá. Họ dùng tiếng Phạm... vô lượng những thứ âm thanh ca tụng khen ngợi tất cả công đức của đức Như Lai mà nói kệ rằng:

Tâm đủ ở Pháp tạng

Thấy cấu, vô ngã rời

Thế Tôn nói các hạnh

Nội tâm biết pháp rồi

Bạch pháp được thân Phật 

Nội thân pháp chứng được

Hóa thân bày hóa thân 

Vào Lăng Già, phải lúc

Nay đây Lăng Già thành

Vô lượng Phật quá khứ

Các Phật tử vân vân... 

Vô lượng thân thọ dùng

Thế Tôn nếu nói pháp

Thì dạ xoa không lường

Hay hiện thân vô lượng 

Muốn nghe thuyết pháp thanh.

Lúc bấy giờ, vua thành Lăng Già La Bà Na dùng đủ thứ diệu Đô đà ca ca tụng khen ngợi những công đức của đức Như Lai rồi, lại liền dùng diệu thanh kệ tụng ca thán đức Như Lai mà nói kệ rằng:

Như Lai ở bảy ngày

Trong biển lớn ác thú

Qua biển đến bờ kia

Ra khỏi rồi liền trụ.

Đức vua La Bà Na

Cùng vợ con dạ xoa

quyến thuộc vô kể

Các đại thần đại trí

Thúc Ca Bà La Na

Những thiên chúng như vậy

Mỗi mỗi đều hiện ra

Những thần thông vô lượng

Cưỡi cung điện diệu hoa 

Đi đến chỗ đức Phật.

Đến rồi, xuống điện hoa

Lễ bái cúng dường Phật.

Nương Phật trụ trì lực

Liền ở trước Như Lai 

Tự nói lên danh tự:

Con, la sát mười đầu

Nguyện thương xót con với

Những chúng sinh thành này

Nhận thành Lăng Già ở 

Núi báu Ma La Gia.

Vô lượng Phật quá khứ 

Ở trong thành Lăng Già

Trên núi đủ thứ báu

Thân chứng pháp nói ra.

Như Lai cũng nên vậy

Ở trong núi báu này

Đồng chư Phật quá khứ

Pháp như vậy nói thay

Nguyện chung các Phật tử

Nói pháp thanh tịnh này

Con và Lăng Già chúng 

Đều muốn nghe lắm thay!

Nhập Lăng Già Kinh điển

Phật quá khứ tán thán:

Cảnh giới trí nội thân

Lìa lời nói, gọi tên.

Con nghĩ đời quá khứ 

Các Như Lai không lường

Với Phật tử vi nhiễu

Kinh này được nói lên

Ngày hôm nay đức Phật

Cũng nên vì chúng con 

Và tất cả những chúng 

Thâm pháp này nói lên!

Các Thế Tôn lai thế

Phật tử vân vân...

Ở đây, trên núi báu

Thâm pháp này nói lên!

Nay tại Lăng Già thành 

Hơn cung trời vi diệu

Đất, đá không làm tường 

Lưới những báu che phủ.

Những dạ xoa này từng

Ở chỗ Phật quá khứ

Lìa các lỗi, tu hành 

Trụ Đại Thừa rốt ráo

Giỏi tư duy nội tâm

Như thật nghĩ tương ứng.

Nguyện Phật rũ lòng thương

Vì các Dạ xoa nói!

Nguyện Phật, thầy nhân thiên,

Vào Ma La Gia sơn!

Dạ xoa và thê tử 

Muốn được Đại Thừa tôn.

Những La sát úng nhĩ (tai vò)

Cũng đã trụ trong thành

Từng cúng dường quá khứ

Vô lượng ức Thế Tôn 

Nay lại muốn dâng cúng

Hiện tại Đại Pháp Vương

Muốn nghe nội tâm hạnh

Muốn được Đại Thừa tôn!

Nguyện Phật thương xót con

Và những Dạ xoa chúng

Cùng Phật tử vân vân... 

Vào thành Lăng Già ấy!

Những sở hữu của con:

Như cung điện, thê tử...

Mũ báu, chuỗi ngọc cùng 

Đồ trang nghiêm đủ thứ

A Thư Ca lâm viên... 

Đủ thứ đều đáng thích (ưa)

Và những xe hoa cung (hoa cung điện) 

 Dâng lên Phật, đại chúng!

Con ở chỗ Thế Tôn 

Không vật gì chẳng xả

Nguyện Đại Mâu Ni Tôn 

Thương xót con thọ dụng!

Các Phật tử và con

Thọ lời pháp của Phật 

Nguyện Phật rũ lòng thương

Vì con thọ dụng, nói!

Bấy giờ (đấng) Tam Giới Tôn

Nghe lời Dạ xoa thỉnh

Dạ xoa nói lên

Quá khứ, vị lai Phật:

Dạ xoa! Quá khứ Phật 

Ở trong Thắng bảo sơn (này)

Thương xót Dạ xoa nên

Nói “Nội thân chứng pháp”.

Các vị lai Thế Tôn 

Cũng trong núi báu ấy

Dạ xoa vân vân...

Cũng nói thâm pháp đó!

Dạ xoa! Ở bảo sơn

Như người tu hành thật

Hiện thấy pháp hành nhân

Chỗ này mới thể trụ!

Dạ xoa! Nay bảo ông 

Ta và các Phật tử 

Thương xót các ông nên

Thọ ông thí, thỉnh nói!

Như Lai lược đáp xong

Tịch tịnh trụ mặc nhiên

La Bà Na La sát

Dâng Phật hoa điện cung.

Như LaiPhật tử

Nhận rồi đều cưỡi lên

La Bà Na La sát

Cũng cưỡi hoa điện mình

Dùng các thể nữ nhạc

Tấu đưa Phật đến thành.

Đã đến thành diệu đó 

La Bà Na dược xoa

Và vợ dược xoa ấy

Cùng con trai con gái...

Mang đồ cúng tốt hơn

Đủ thứ đều vi diệu

Cúng dường lên Thế Tôn 

Và cả những Phật tử...

Bồ tátThế Tôn 

Đều thọ cúng dường đó.

La Bà Na vân vân...

Cúng dường người nói pháp

Quan sát lời nói pháp 

Cảnh giới chứng nội thân

Cúng dường Đại Tuệ sĩ 

Lâu lâu mà thỉnh rằng:

Đại sĩ! Ngài hỏi Phật 

Cảnh giới hành nội thân

Con cùng Dạ xoa chúng

Các Phật tử vân vân

Tất cả những thính giả

Đều thỉnh ngài hỏi han!

Đại sĩ nói pháp thắng

Tu hành cũng thắng hơn

Con tôn trọng Đại sĩ

Thỉnh hỏi Phật thắng hành!

Lìa các ngoại đạo biên 

Nhị thừa cũng rời khỏi

Nói nội pháp sạch trong

Cứu cánh Như Lai địa!

Bấy giờ, sức Thế Tôn 

Lại hóa làm thành, núi

Tướng cao ngất trăm ngàn

Đối Tu Di nghiêm sức

Vô lượng ức hoa viên

Đều là những rừng báu

Mùi hương tỏa lan tràn 

Chưa từng nghe, sực nức

Trong mỗi một bảo sơn 

Đều thị hiện thân Phật 

Cũng có Dạ xoa vương 

La Bà Na và chúng

Đất nước Phật mười phương 

Và với những thân Phật 

Phật tử, Dạ xoa vương 

Đến tập họp núi đó

Mà những chúng sẵn có

Ở trong Lăng Già thành

Đều thấy bản thân mình

Trong Lăng Già thành hóa.

Thần lực Như Lai làm

Cũng đồng Lăng Già đó

Các núi và vườn rừng

Báu trang nghiêm cũng vậy.

Phật trong mỗi bảo sơn 

Đều có Đại Tuệ hỏi

Như Lai đều nói lên

Sự chứng pháp nội thân.

Phát trăm ngàn tiếng diệu

Nói Kinh pháp này xong

Phật và các Phật tử

Tất cả biến mất luôn

Dạ xoa La Ba Ná

Bỗng nhiên thấy tự thân

Ở tại cung điện cũ

Vật khác chẳng thấy còn

Mà khởi lên suy nghĩ:

Cái nhìn thấy ai làm?

Ai là người nói pháp?

Là những ai: thính văn?

Pháp gì ta đã thấy

Mà có những việc ấy?

Đất nước các Thế Tôn 

Và những thân Phật đó

Những diệu sự như thế 

Nay đều đi về đâu?

Là điều nhớ trong mộng?

Hay việc làm của huyễn?

Hay thành ấp thật chân?

Hay Càn thát bà thành?

Hay bị che thấy dối? 

Hay là ngọn lửa khởi?

Là mơ thạch nữ sinh?

Là ta thấy vừng lửa?

Hay thấy khói hỏa luân?

Ta thấy cái gì vậy?

Lại tự suy nghĩ rằng:

Thể các pháp như vậy 

Cảnh giới chỉ tự tâm

Nội tâm hay chứng biết 

Mà các phàm phu nhân...

Bị vô minh che ngăn

Tâm hư vọng phân biệt 

Mà chẳng thể biết thông.

Năng kiến và sở kiến 

Tất cả chẳng vẹn toàn

Người nói và điều nói 

Như vậy... cũng là không.

Thể Phật pháp chân thật 

Chẳng có cũng chẳng không

Pháp tướng hằng như vậy

Chỉ phân biệt tự lòng

Nay thấy vật là thật

Người đó chẳng thấy Phật!

Chẳng trụ phân biệt tâm

Cũng chẳng thể thấy Phật!

Chẳng thấy có các hành

Như vậy gọi là Phật!

Nếu thấy như vậy được

Thì người đó thấy Phật.

Kẻ trí quán như trên

Tất cả các cảnh giới

Chuyển thân được diệu thân

Tức là Bồ Đề Phật.

Lúc bấy giờ, vua thành Lăng Già, La sát mười đầu La bà Na thấy lỗi của tâm phân biệt mà chẳng trụ ở trong tâm phân biệt, do lực căn lành đời quá khứ nên giác tri như thật tất cả các luận, có thể thấy như thật các pháp thật tướng, chẳng theo lời dạy của kẻ khác, giỏi tự suy nghĩ giác tri các pháp, có thể lìa khỏi tất cả sự giác tri của tà kiến, giỏi có thể tu hành như thật hành pháp, ở trong tự thân có thể hiện tất cả đủ thứ sắc tượng mà được cứu cánh Đại phương tiện giải, giỏi biết tướng mạo cụ thể trên tất cả các địa thượng, ưa quan sát tự thể ý thức của tâm ý, thấy thân tương tụcba cõi, đoạn lìa thường kiến của các ngoại đạo, nhân trí như thật giỏi biết Như Lai Tạng, giỏi trụ ở thật trí nội tâm của Phật địa, nghe trong hư không và trong tự thân phát ra âm thanh vi diệu mà nói lên rằng: “Hay thay! Hay thay! Này Lăng Già Vương! Những người tu hành đều nên tu học như ngươi!”. Lại nói rằng: “Hay thay! Này Lăng Già Vương! Pháp Như Lai chư Phật và phi pháp như ông đã thấy. Nếu chẳng đúng như điều thấy của ông thì gọi là Đoạn kiến. Này Lăng Già Vương! Ông nên lìa khỏi cái thức của tâm ý mà tu hành như thật các pháp thật tướng. Ông nay cần phải tu hành nội pháp chớ chấp trước tướng tà kiến ngoại nghĩa. Này Lăng Già Vương! Ông chớ tu hành theo cảnh giới tu hành của Thanh Văn, Duyên Giác, các ngoại đạo.v.v... Ông chẳng nên trụ ở các tam muội khác của tất cả ngoại đạo! Ông chẳng nên ưa thích đủ thứ hí luận của tất cả ngoại đạo! Ông chẳng nên trụ ở vi đà tà kiến của tất cả ngoại đạo! Ông chẳng nên đắm trước trong lực tự tại phóng dật của vương vị! Ông chẳng nên đắm trước trong lực tự tại thần thông của thiền định! Này Lăng Già Vương! Những việc như trên đây đều là hành động của người tu hành như thật, có thể hàng phục tà luận của tất cả ngoại đạo, có thể phá tất cả tà kiến hư vọng, có thể chuyển lỗi ngã kiến của tất cả kiến, có thể chuyển tất cả hạnh của vi tế thức mà tu hạnh Đại thừa. Này Lăng Già Vương! Ông nên nội thân vào Như Lai địa, tu hạnh như thật! Người tu hành như vậy được chuyển lên pháp thượng thanh tịnh. Này Lăng Già Vương! Ông chớ bỏ đạo sở chứng của ông, khéo tu tam muội Tam Ma Bạt Đề! Ông chớ đắm trước cảnh giới tam muội của Thanh Văn, Duyên Giácngoại đạo mà lấy làm thắng lạc như người tu hành của mao đạo phàm phu, ngoại đạo! Ông chớ phân biệt! Này Lăng Già Vương! Ngoại đạo chấp trước ngã kiến. Có ngã tướng nên hư vọng phân biệt. Ngoại đạo thấy có tướng bốn đạichấp trước sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cho là thật có. Thanh Văn, Duyên Giác thấy có vô minh duyên hành cho là thật có. Họ khởi lòng chấp trước, lìa khỏi “như thật không”, hư vọng phân biệt chuyên chấp trước “hữu pháp” mà rơi vào trong năng kiến, sở kiến. Này Lăng Già Vương! Pháp thắng đạo này có thể khiến cho nội thân chúng sinh giác quán, có thể khiến cho chúng sinh được thắng Đại Thừa, có thể sinh ra ba hữu. Này Lăng Già Vương! Hạnh nhập Đại Thừa này có thể phá đủ thứ màn che, đủ thứ sóng thức của chúng sinh, chẳng rơi vào trong các kiến, hành của ngoại đạo. Này Lăng Già Vương! Đây chính là hạnh vào Đại Thừa, chẳng phải hạnh vào ngoại đạo. Hạnh ngoại đạo thì nương vào “nội thân hữu ngã” mà hành động, thấy hai pháp sắc, thức cho là thật nên thấy có sinh diệt. Hay thay! Này Lăng Già Vương! Tư duy nghĩa này đúng như tư duy của ông tức là thấy Phật”.

Lúc bấy giờ, vua Lăng Già La Bà Na lại nghĩ rằng: “Ta nên hỏi đức Phật pháp hành như thật rồi chuyển đến hành của tất cả các ngoại đạo, nội tâm tu hành, cảnh giới sở quán lìa khỏi ứng Phật ứng sự sở tác, lại có thắng pháp. Sở dĩ gọi là người tu hành như thật là khi chứng được pháp thì sở đắc niềm vui của tam muội cứu cánh. Nếu được niềm vui đó thì gọi là người tu hành như thật. Vậy nên ta nên hỏi đức Thế Tôn Như Lai Đại Từ Bi! Như Lai có thể đốt cháy hết củi phiền não và các Phật tử cũng có thể đốt cháy hết! Đức Như Lai có thể biết phiền não sai khiến tâm của tất cả chúng sinh! Đức Như Lai đến khắp chỗ Nhất Thiết Trí! Đức Như Lai giỏi có thể giải biết là tướng hay phi tướng như thật! Ta nay nên dùng sức thần thông vi diệu để thấy được đức Như Lai. Thấy đức Như Lai rồi thì người chưa được, người đã được đều chẳng thoái lui, được Vô Phân Biệt tam muội Tam Ma Bạt Đề, được tăng trưởng đầy đủ Như Lai hành xứ”.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn như thật soi biết vua Lăng Già đã đến lúc ứng chứng Vô Sinh Pháp Nhẫn, thương xót vua La sát mười đầu nên cho cung điện đã ẩn mất hiện trở lại như cũ và hiện thân ở trong thành trên núi với đủ thứ lưới báu trang nghiêm.

Lúc bấy giờ, La sát mười đầu, vua thành Lăng Già thấy các cung điện trở lại như cũ. Trong mỗi một núi nơi nơi đều thấy có đức Phật Thế Tôn Ứng Chánh Biến Tri với ba mươi hai diệu tướng trang nghiêm thân mà tại trong núi, ông tự thấy thân mình ở trước khắp các đức Phật. Ông lại thấy tất cả đất nước chư Phật và các quốc vương nghĩ về thân vô thường, do tham vương vị, vợ con, quyến thuộc, năm dục trói buộc nhau không hẹn kỳ giải thoát nên liền bỏ đất nước, cung điện, vợ con, voi ngựa, trân báu... dâng cúng Phật và tăng rồi vào với núi rừng xuất gia học đạo. Ông lại thấy Phật tử tại trong rừng núi dũng mãnh tinh tấn gieo thân cho hổ đói, sư tử, la sát để cầu Phật đạo. Ông lại thấy Phật tử ở dưới rừng cây đọc tụng Kinh điển vì người diễn nói để cầu Phật đạo. Ông lại thấy đức Bồ tát nghĩ về chúng sinh khổ, ngồi dưới gốc cây Bồ Đề Đạo Tràng tư duy Phật đạo. Ông lại thấy trước mỗi một đức Phật đều có Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát nói về cảnh giới tu hành nội thân và cũng thấy tất cả quyến thuộc dạ xoa vây quanh mà nói danh tự chương cú.

Bấy giờ, đức Thế Tôn dùng trí tuệ quan sát đại chúng hiện tại, chẳng phải dùng mắt thịt quan sát, như vua sư tử phấn tấn, liếc nhìn rồi cả cười ha...ha...., nhục kế trên đảnh phóng ra vô lượng ánh sáng, từ vai, hông, lưng, đùi, ngực, chỗ chữđức và những lỗ chân lông đều phóng ra tất cả ánh sáng không lường như cái cầu vòng ở không trung, như ngàn ánh sáng mặt trời, như khi hết kiếp tướng lửa mạnh bốc cháy bừng bừng... Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương.v.v... ở trong hư không, quan sát đức Như Lai, thấy đức Phật ngồi ở trên núi Tu Di tương đối với đỉnh núi Lăng Già, cả cười ha... ha... Bấy giờ, chúng Bồ tát, Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương.v.v... suy nghĩ như vầy: “Vì nhân duyênđức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri ở trong các pháp mà được tự tại, chưa từng cả cười ha...ha... như vậy, lại ở tự thân phóng ra vô lượng ánh sáng, mặc nhiên mà ngồi chuyên niệm cảnh giới trí tuệ nội thân chẳng lấy làm thắng như Sư tử nhìn xem vua Lăng Già niệm hạnh như thật?

Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát Mahatát trước đã nhận sự khải thỉnh của vua Lăng Già La Bà Na, nghĩ đến vua Lăng Già, biết những pháp tâm hành của tất cả chúng Đại Bồ tát, quan sát tất cả chúng sinh vị lai, lòng đều ưa danh tự nói pháp, lòng mê sinh ra nghi, theo đúng như lời nóichấp trước tất cả hành động của tất cả Thanh Văn, Duyên Giácngoại đạo. Còn các đức Phật Thế Tôn lìa khỏi những hành động của tất cả tâm thức, có thể cười, cười lớn. Để vì đại chúng kia đoạn dứt lòng nghi hoặcThánh giả hỏi đức Phật rằng:

- Đức Như Lai vì nhân gì? Duyên gì? Việc gì? Mà cả cười ha... ha...?

Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát rằng:

- Hay thay! Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông có thể quan sát taâm của thế gian vọng tưởng, phân biệt, tà kiến, điên đão! Ông thật có thể biết việc ba đời mà còn hỏi việc này! Như câu hỏi của ông thì câu hỏi của kẻ trí cũng lại như vậy, vì tự lợi và lợi tha! Này Đại Tuệ! Vua Lăng Già này đã từng hỏi tất cả các đức Phật Ứng Chánh Biến Tri đời quá khứ hai pháp như vậy. Nay hiện tại lại cũng muốn hỏi ta hai pháp như vậy. Hai pháp này thì tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, ngoại đạo chưa từng biết tưởng của hai pháp này. Này Đại Tuệ! La sát mười đầu này cũng hỏi tất cả chư Phật hai pháp như đây.

Lúc bấy giờ, đức Như Lai biết nên hỏi vua La Bà Na rằng:

- Này vua Lăng Già! Ông muốn hỏi ta theo lòng nghi ngờ của ông thì nay đều có thể hỏi. Ta đều có thể đáp để cắt đứt lòng nghi ngờ của ông, khiến cho ông được hoan hỷ. Này Lăng Già Vương! Ông đoạn trừ tâm phân biệt hư vọng, được địa đối trị phương tiện quan sát. Trí tuệ như thật có thể vào tam muội Nội thân như thật tướng. Ưa hành tam muội thì Phật liền nhiếp lấy thân của ông, giỏi trụ trong cảnh giớiXa ma tha, qua khỏi sự cấu bẩn của tam muội bất tịnh của các Thanh Văn, Duyên Giác thì có thể trụ ở Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa.v.v... giỏi biết như thật pháp vô ngã, ngồi lên vương tòa Đại bảo liên hoa, được vô lượng tam muội mà thọ Phật chức. Này Lăng Già Vương! Ông sẽ chẳng bao lâu tự thấy thân mình cũng ở tại trên vương tòa Liên Hoa như vậy mà ngồi. Ông trụ trì vô lượng quyến thuộc của vua hoa sen, vô lượng quyến thuộc của Bồ tát, mỗi mỗi đều ngồi tòa vua hoa sen mà tự vây quanh đắp đổi ngắm nhìn nhau, mỗi mỗi chẳng bao lâu đều được trụ ở cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn đó. Như là khởi một hạnh phương tiện trụ trong các địa, có thể thấy chẳng thể nghĩ bàn cảnh giới, thấy vô lượng vô biên đủ thứ pháp tướng của Như Lai địa mà tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, Tứ Thiên Vương, Đế Thích, Phạm Vương.v.v... chưa từng thấy.

Lúc bấy giờ, vua Lăng Già nghe đức Phật Thế Tôn nói. Nghe rồi, hỏi rồi thì ở trên núi trang nghiêm mọi thứ báu, hoa sen báu lớn với vô lượng ánh sáng vô cấu đó, có vô lượng thiên nữ vây quanh nhau, rồi hiện ra vô lượng đủ thứ hoa lạ, đủ thứ hương lạ, hương tung rải, hương bôi xoa, tràng phan, bảo cải, mũ báu, chuỗi ngọc, đồ trang nghiêm thân. Lại hiện ra đủ thứ đồ trang nghiêm thắng diệu mà thế gian chưa từng nghe thấy. Lại hiện ra vô lượng đủ thứ nhạc cụ thắng hơn nhạc cụ sở hữu của các trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, người, chẳng phải người.v.v... Lại theo nhạc cụ sở hữu của ba cõi, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc mà đều biến hóa ra. Lại theo đủ thứ nhạc cụ thắng diệu sở hữu của đất nước chư Phật mười phương mà đều biến hóa làm ra. Lại hóa làm vô lượng màn lưới đại bảo che khắp ở bên trên tất cả chư Phật, đại chúng Bồ tát... Vua La Bà Na làm những việc biến hóa như vậy rồi thì thân bay lên hư không, cao bảy cây Đa la, rồi trụ trong hư không mưa xuống đủ thứ kỹ nhạc, mưa xuống đủ thứ hoa, mưa xuống đủ thứ hương, mưa xuống đủ thứ áo... đầy trong hư không như trời tuông mưa lớn dùng để cúng dường đức PhậtPhật tử. Mưa cúng dường xong, ông ấy từ trên mà hạ xuống, đến giữa hư không, liền ngồi ở trên Đệ nhị điển quang minh đại bảo liên hoa vương chủng chủng bảo.

Lúc bấy giờ, đức Như Lai thấy ông ấy ngồi rồi thì mỉm cười, nghe vua Lăng Già hỏi hai thứ pháp. Vua Lăng Già bạch đức Phật rằng: 

- Thưa đức Thế Tôn! Hai thứ pháp này con đã từng nghe ở các đức Phật Ứng Chánh Biến Tri đời quá khứ. Các đức Phật Thế Tôn đó đã vì con nói. Thưa đức Thế Tôn! Con nay, hiện tại y vào danh tự chương cú hỏi đức Như Lai, mong đức Như Lai rốt ráo vì con nói cho! Thưa đức Thế Tôn! Hóa Phật ứng hóa nói rằng, hai pháp này chẳng phải căn bản Như Lai. Thưa đức Thế Tôn! Căn bản Như Lai tu tập cảnh giới tam muội lạc thì chẳng nói những cảnh giới ngoài tâm thức. Hay thay! Thưa đức Thế Tôn! Tự thân Như Lai đối với tất cả pháp mà được tự tại. Nguyện xin đức Thế Tôn Ứng Chánh Biến Tri nói hai pháp này! Tất cả Phật tửbản thân con cũng nguyện muốn nghe!

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn biết nên liền bảo vua Lăng Già rằng:

- Này vua Lăng Già! Ông hỏi hai pháp này!

Bấy giờ, vua Dạ xoa thay đổi đủ thứ đồ trang nghiêm, đội mũ vàng, đeo chuỗi ngọc vàng... mà tác bạch rằng:

- Đức Như Lai thường nói, pháp còn nên xả bỏ, huống gì là phi pháp? Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là hai pháp xả? Thưa đức Thế Tôn! Cái gì là pháp? Cái gì là phi pháp? Thưa đức Thế Tôn! Pháp Xả làm sao có hai? Do rơi vào trong tướng phân biệt nên hư vọng phân biệt là pháp có, không, không Đại, có Đại. Thưa đức Thế Tôn! A Lê Gia thức biết danh thức tướng. Thể tướng sở hữu của nó như trong hư không có vầng lông trụ, là cảnh giới sở tri của trí bất tịnh tận. Thưa đức Thế Tôn! Pháp nếu như vậy thì làm sao mà xả?

Đức Phật bảo rằng:

- Này vua Lăng Già! Này vua Lăng Già! Ông chẳng thấy cái bình.v.v... là pháp vô thường, biến hoại! Mao đạo phàm phu phân biệt tướng sai biệt của cảnh giới này. Này vua Lăng Già! Vì sao chẳng như vậy chọn lấy có tướng sai biệt của pháp và phi pháp? Nương theo tâm phân biệt của mao đạo phàm phu thì có, chớ chẳng phải trí Thánh chứng cho là có thể thấy! Này vua Lăng Già! Vả việc đặt cái bình.v.v... đủ thứ tướng thì lòng mao đạo phàm phu gọi là có, chẳng phải gọi thánh nhân cho là có pháp. Này vua Lăng Già! Ví như có một ngọn lửa đốt cháy cung điện, vườn rừng, cỏ cây mà nhìn thấy đủ thứ màu sắc ánh sáng của lửa mỗi mỗi đều sai biệt. Nương vào đủ thứ củi, cỏ, cây dài hay ngắn mà phân biệt thì thấy có tướng hơn, thua. Trong này vì sao chẳng biết có tướng sai biệt của pháp và phi pháp như vậy? Này vua Lăng Già! Chẳng phải chỉ ngọn lửa nương vào trong một thân nối tiếp nhau thấy có đủ thứ những tướng sai biệt. Này vua Lăng Già! Như một hạt giống là một sự nối nhau sinh ra mầm, thân, cành, lá, hoa, trái, cây, rừng... đủ thứ tướng khác. Như vậy sự sinh ra các pháp trong, ngoài như vô minh và hành, ấm, giới, nhập.v.v... tất cả các pháp, mọi cái sinh ra của ba cõi đều có sai biệt, như hiện ra niềm vui, hình tướng, ngôn ngữ, đi lại, thắng trí, dị tướng... Cảnh giới một tướng mà chọn lấy tướng cũng thấy tướng thắng, thượng, trung, hạ, tướng nhiễm, tịnh, thiện, bất thiện. Này vua Lăng Già! Chẳng phải chỉ trong đủ thứ pháp thấy tướng sai biệt mà người giác đạo như thật, trong hành động nội chứng cũng có thấy đủ thứ dị tướng, huống gì là pháp, phi pháp mà không phân biệt đủ thứ tướng sai biệt? Này vua Lăng Già! Có đủ thứ tướng sai biệt của pháp và phi pháp!

Này vua Lăng Già! Cái gì là pháp? Đó là sự thấy phân biệt của tất cả ngoại đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, mao đạo phàm phu. Từ nhân vào vật thật mà lấy làm căn bản để sinh ra đủ thứ pháp. Những pháp như vậy.v.v... nên xả, nên lìa, chớ thủ lấy tướng mà sinh ra phân biệt. Thấy pháp tự tâm kể cho là thật! Này vua Lăng Già! Kông cái bình thật pháp mà mao đạo phàm phu hư vọng phân biệt! Pháp vốn (không có tướng) vô tướng, biết như thậtquan sát thì gọi là xả các pháp.

Này vua Lăng Già! Cái gì là phi pháp? Cái gọi là không có thân tướng, chỉ tự tâm diệt vọng tưởng phân biệt mà những phàm phu thấy thật pháp chẳng phải thật pháp, Bồ tát thấy như thật. Như vậy là xả bỏ phi pháp. Lại nữa, này vua Lăng Già! Cái gì là phi pháp nữa? Cái gọi là sừng thỏ, sừng ngựa, sừng lừa, sừng lạc đà, con của người con gái bằng đá.v.v... không thân, không tướngmao đạo phàm phu lấy làm không, vì nghĩa của thế gian nói đến danh tự, chẳng phải lấy tướng như cái bình kia.v.v... là pháp có thể xả. Người trí chẳng lấy sự phân biệt hư vọng như vậy, sừng thỏ.v.v... pháp danh tự cũng là có thể xả bỏ. Vậy nên xả bỏ pháp và phi pháp. Này Lăng Già Vương! Ông nay hỏi ta về pháp và phi pháp làm sao xả bỏ, ta đã nói xong.

Này Lăng Già Vương! Ông nói rằng, con đối với đấng Ứng Chánh Biến Tri đời quá khứ đã hỏi pháp này, những đức Như Lai đó đã vì con nói”. Này Lăng Già Vương! Ông nói quá khứ thì tức là phân biệt tướng! Vị lai, hiện tại phân biệt cũng vậy. Này Lăng Già Vương! Ta nói Chân Như Pháp Thểnhư thật thì cũng là phân biệt. Như phân biệt sắc là thật tế, vì trí chứng thật nên ưa tu hành trí tuệ vô tướng. Vậy nên chớ phân biệt Như Lai là thân trí, thể trí. Trong lòng chớ phân biệt, trong ý chớ thủ lấy, ngã, nhân, thọ mạng.v.v...Sao chẳng phân biệt? Trong ý thức, thủ lấy đủ thứ cảnh giới như sắc hình tướng... Như vậy chớ thủ lấy, chớ phân biệt cái có thể phân biệt.

Lại nữa, này Lăng Già Vương! Ví như vẽ lên vách đủ thứ hình tướng, tất cả chúng sinh cũng lại như vậy. Này Lăng Già Vương! Tất cả chúng sinh giống như cỏ cây không nghiệp, không hành. Này Lăng Già Vương! Tất cả pháp, phi pháp không nghe, không nói. Này Lăng Già Vương! Tất cả pháp thế gian đều như huyễn mà các ngoại đạo, phàm phu chẳng biết. Này Lăng Già Vương! Nếu có thể như vậy thấy như thật thấy thì gọi là chánh kiến. Nếu thấy khác thì gọi là tà kiến. Nếu phân biệt thì gọi là thủ lấy cả hai. Này Lăng Già Vương! Ví như hình tượng trong gương tự thấy hình tượng! Ví như bóng dáng trong nước tự thấy bóng dáng. Như bóng ánh sáng đèn, trăng ở trong nhà tự thấy bóng dáng. Như tiếng vang trong không tự phát ra tiếng rồi thủ lấy cho là tiếng... Nếu như vậy thủ lấy pháp cùng phi pháp thì đều là vọng tưởng hư vọng phân biệt. Vậy nên chẳng biết pháp và phi pháp, tăng thêm hư vọng, chẳng được tịch diệt. Tịch diệt thì gọi là nhất tâm, nhất tâm thì gọi là Như Lai Tạng, vào cảnh giới trí tuệ nội thân, được Vô Sinh Pháp Nhẫn tam muội

PHẨM THỨ HAI: VẤN ĐÁP 

Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát cùng tất cả những Bồ tát đại tuệ đều du hành ở tất cả đất nước chư Phật, thừa thần lực đức Phật nên đứng dậy sửa lại y phục, chắp tay cung kính, dùng kệ khen đức Phật rằng:

Phật tuệ đại bi quán

Lìa sinh diệt thế gian 

Giống như hoa trống rỗng (hư không)

Chẳng thể được có, không.

Phật tuệ đại bi quán

Tất cả pháp như huyễn

Lìa xa thức ý lòng

Chẳng thể được có, không

Phật tuệ đại bi quán

Giống như mộng thế gian

Viễn ly khỏi thường, đoạn

Chẳng thể được có, không.

Phật tuệ đại bi quán

Chướng trí, chướng não phiền

Cả hai vô ngã, tịnh 

Chẳng thể được có, không.

Phật chẳng vào bất diệt 

Cũng chẳng trụ Niết Bàn

Lìa giác, pháp sở giác

Cả hai lìa có, không

Nếu như vậy quán Phật 

Tịch diệt lìa diệt, sinh

Người đó nay, hận thế 

Ly cấu, nhiễm thủ không.

Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Đại Tuệ theo đúng như nói kệ khen Phật xong, rồi tự nói tính danh:

Con tên là Đại Tuệ 

Đại thừa, nguyện đạt thông

Dùng trăm lẻ tám hỏi

Ngước hỏi Vô Thượng Tôn

Tối Thắng Thế Gian Giải!

Nghe Đại Tuệ hỏi han

Quan sát các sinh chúng

Bảo các Phật tử rằng:

- Các ông, những Phật tử 

Và Đại Tuệ hỏi han!

Ta sẽ vì ông nói

Cảnh giới giác của mình!

Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Đại Tuệ nghe đức Phật cho phép hỏi, liền đảnh lễ dưới chân đức Phật, chắp tay cung kính, dùng kệ hỏi rằng:

Làm sao tịnh các giác? 

Nhân đâu mà có giác?

Nhân đâu thấy hoặc mê?

Nhân đâu có mê hoặc?

Nhân đâu có đất nước 

Các ngoại đạo hóa nhau?

Sao gọi là Phật tử?

Tịch tịnhthứ đệ 

Giải thoát đi về đâu? 

Ai trói? Nhân đâu thoát?

Người thiền quán pháp nào?

Nhân đâu có ba nghiệp?

Nhân đâu duyên sinh pháp?

Tác, sở tác nhân đâu?

Nhân đâu nói khác nhau?

Nhân đâu Vô sắc định 

Và cùng Diệt Tận định?

Tưởng diệt định nhân đâu?

Nhân đâu từ định giác? (xuất định

Làm sao nhân quả sinh?

Nhân đâu thân đi, đứng?

Nhân đâu quán sở kiến?

Nhân đâu các địa sinh?

Ai? Người phá ba hữu?

Thân nào? Đến chỗ nào?

Trụ ở chỗ ra sao?

Làm sao các Phật tử 

Nhân đâu được thần thông?

tự tại tam muội?

Nhân đâu được định tâm?

(Xin đấng) Tối Thắng vì con nói: 

Tàng thức nhân đâu?

Nhân đâu ý và thức? 

Thấy các pháp nhân đâu?

Nhân đâu đoạn sở kiến? 

Sao là tính, phi tính?

Tâm không pháp ra sao?

Nói pháp tướng nhân đâu?

Sao gọi là vô ngã?

Nhân đâu không chúng sinh?

Nhân đâu có Thế đế? 

Nhân đâu chẳng thấy thường?

Nhân đâu chẳng thấy đoạn?

Làm sao Phật, ngoại đạo 

Hai tướng chẳng trái nhau?

Nhân đâu đời về sau (đương lai)

Đủ thứ những bộ khác? 

Làm sao gọi là không?

Nhân đâu niệm chẳng trụ?

Nhân đâu có thai tàng?

Nhân đâu niệm chẳng động?

Làm sao như huyễn mộng?

Nói như Càn thát bà

Ngọn lửa, trăng trong nước?

(Xin) Thế Tôn vì con nói:

Sao nói là Giác Chi?

Bồ Đề phận nhân gì? 

Nhân gì nước loạn động?

Tạo hữu kiến nhân gì? 

Nhân đâu chẳng sinh diệt?

Như hoa không nhân gì?

Giác thế gian nhân gì?

Nhân đâu nói không chữ?

Không phân biệt ra sao?

Như hư không nhân đâu?

Chân Như bao nhiêu thứ?

“Tâm kỷ ngạn” tên gì? (lòng bao nhiêu bờ)

Nhân đâu “địa” thứ lớp?

Chân Như không thứ lớp?

(Ca) Hậu vô ngã nhân đâu?

Nhân đâu cảnh giới tịnh?

Trí, giới có bao nhiêu?

Chúng sinh, sinh do đâu?

Ai làm tính các báu

Vàng, ngọc báu Ma ni...?

Ai sinh ra lời nói

Của đủ thứ chúng sinh?

Kỹ thuật, chỗ ngũ minh

Ai hay nói như vậy?

Kệ (Già đà) có bao nhiêu thứ?

Sao là trường đoản cú?

Pháp lại có bao nhiêu?

Có bao nhiêu nghĩa giải? 

Ẩm thực chủng nhân đâu? (những thứ đồ ăn...)

Nhân đâu sinh ái dục 

Sao gọi vua Chuyển Luân?

Sao gọi là tiểu vương? 

Nhân đâu hộ đất nước?

Bao nhiêu thứ chư thiên?

Nhân đâu mà có đất?

Nhân đâu nhật, nguyệt tinh?

Bao nhiêu thứ giải thoát?

Bao nhiêu người tu hành?

Bao nhiêu thứ Phật tử?

Bao nhiêu A Xà Lê? 

Bao nhiêu hạng Như Lai?

Bản sinh bao nhiêu loại?

Có bao nhiêu thứ ma?

Đi học bao nhiêu loại? 

Tự tính có bao nhiêu?

Tâm có bao nhiêu loại?

Thí giả danh là sao?

(Xin) Thế Tôn vì con nói:

Nhân đâu có gió mây?

Nhân đâu thông tuệ? 

Nhân đâu có rừng cây?

Thế Tôn vì con nói!

Nhân đâu voi ngựa, nai?

Vì sao người bắt lấy?

Nhân đâu bị thấp hèn?

Thế Tôn vì con nói!

Nhân đâu có sáu thời?

Nhân đâu thành xiển đề?

Trai gái và chẳng trai?

Vì con nói sính ấy!

Nhân gì tu hành thoái 

Tu hành tiến vì sao?

Dạy những người nào tu?

Khiến trụ những pháp nào?

Những chúng sinh đi lại

Nhân đâu? Tượng(hình dáng) loại nào? 

Nhân đâu giàu của cải?

Thế Tôn vì con nói!

Dòng họ Thích làm sao?

Dòng Cam Giá thế nào? 

Nhân đâu tiên trường thọ?

Tiên trường thọ gần đâu?

Làm sao tiên giáo thọ?

Thế Tôn như hư không 

Vì con phân biệt nói!

Nhân đâu Phật Thế Tôn 

Tất cả lúc xuất hiện 

Đủ thứ loại sắc, danh 

Chúng Phật tử vây quanh?

Nhân đâu chẳng ăn thịt

Chế đoạn thịt thế nào?

Những chủng loại ăn thịt

Vì sao mà ăn thịt?

Do đâu hình trời, trăng (trời:mặt trời

 Tu Dihoa sen

Sư tử là thắng tướng? 

Thế Tôn vì con nói!

Loạn lạc trùm thế giới 

Như lưới Nhân đà la 

Tất cả đất nước báu

Vì con nói: nhân đâu?

Như cầm sắt, không hầu 

Trống, hình hoa đủ thứ

Cõi lìa nhật nguyệt quang 

Nhân đâu? Vì con nói!

Những gì Phật hóa thân?

Những gì Phật báo thân?

Những gì như trí Phật? 

Vì con nói: nhân đâu?

Làm sao ở Dục giới 

Đẳng Chánh Giác chẳng thành?

Làm sao sắc rốt cùng 

Được đạo trong ly dục?

Như Lai Bát Niết Bàn 

Người nào trì chánh pháp?

Thế Tôn trụ lâu bằng 

Thời gian pháp trụ không?

Phật lập bao nhiêu pháp?

Chủng loại có bao nhiêu

Tỳkheo ni, Tỳkheo?

(Xin) Thế Tôn vì con nói!

Nhân đâu trăm biến đổi?

Trăm tịch tịnh nhân đâu?

Thanh Văn, Bích Chi Phật?

Thế Tôn nói vì con!

Nhân đâu thông thế gian?

Nhân đâu thông xuất thế?

Nhân đâu thất địa tâm? (lòng bảy địa)

Thế Tôn vì con nói!

Tăng Già bao nhiêu loại?

Nhân đâu là phá tăng?

Sao là y phương luận? 

Thế Tôn nói vì con!

Ca Diếp, Câu Lưu Tôn 

Câu Na Hàm... con đó!

Thường vì các đệ tử 

Nói như vậy, vì sao?

Vì sao nói nhân ngã? 

Vì sao nói đoạn, thường?

Vì sao chẳng chỉ nói 

Chỉ có một tấm lòng?

Nhân đâu rừng nữ nam 

Ha lê A ma lặc

Kê La và thiết vi

Cùng Kim Cương... các núi 

Thứ đến vô lượng núi 

Đủ thứ báu trang nghiêm 

Tiên vui, người sung mãn?

Thế Tôn nói vì con !

Đại thiên Phật nghe ông (Phật của đại thiên thế giới)

Những câu kệ đó xong 

Đại thừa những độ môn 

Tâm chư Phật đệ nhất: 

- Hỏi hay thay! Hay thay! 

Này Đại Tuệ! Nghe kỹ! Ta nay theo lớp lang

Lời ông hỏi mà nói 

Sinh và cùng chẳng sinh

Sát na, Niết Bàn không 

Đường đến không tự thể 

Con Phật Ba la mật 

Thanh Văn, Bích Chi Phật 

Người ngoại đạo vô sắc

Núi, biển và Tu di 

Bốn thiên hạ, đất đai

Nhật, nguyệt, những tinh tú 

Ngoại đạo, trời, Tu la 

Tự tại, thông, giải thoát

Tịch định, lực nghĩ suy 

Diệt và Như ý túc 

Đạo phẩmGiác chi

Các thiền định, vô lượng

Năm ấm và khứ lai 

Bốn không định diệt tận 

Phát khởi lòng nói lên! 

Tâm ý và ý thức 

Pháp vô ngã có năm: 

Tự tính, tướng, sở tướng

Hai năng kiến, sở kiến

Làm sao đủ thứ thừa?

Tính vàng, ngọc ma ni? 

Nhất xiển đề, bốn đại? 

Hoang loạn và nhất Phật?

Cảnh giới trí dạy được?

Chúng sinh có, không có?

Voi, ngựa, các cầm thú

Làm sao mà bắt lấy? 

Ví như nhân tương ưng

Lực, nói pháp ra sao? 

Nhân đâu có nhân quả?

Rừng mê hoặc như thật 

Chỉ tâm không cảnh giới.

Các địa không thứ lớp 

Bách biến và vô tướng 

Luận, thợ khéo, y phương(phương thuốc) 

Chú thuật các minh xứ

Vì sao mà hỏi ta?

Các núi, Tu di, đất 

Hình thể nhỏ hoặc to 

Biển cả, trời, trăng, sao

Làm sao mà hỏi ta?

Chúng sinh thượng, trung, hạ 

Thân bao nhiêu vi trần?

Khuỷu, bước đến mười dặm

Bốn mươi và hai mươi 

Lông thỏ, bụi cửa sổ

Lông dê, bụi hột mì

Một thăng bao nhiêu bột?

Nửa thăng bao nhiêu đầu?

Một hộc và mười hộc

Trăm vạn và một ức. 

Tần-bà bao vi trần? (Tần bà la: đơn vị đong)

Hạt cải bao nhiêu bụi? 

Bao cải thành hạt cỏ?

Bao hạt cỏ thành đậu? 

Bao thù thành một lượng? (thù: 1/20 lượng)

Bao lượng thành một phân (cân?) 

Thứ lớp như vậy tính?

Bao phân thành Tu Di

Nay vì sao Phật tử

Chẳng như vầy hỏi ta: 

Thanh VănDuyên Giác 

Chư Phật và con Phật 

Thân bao nhiêu vi trần?

Vì sao chẳng hỏi rằng: 

Ngọn lửa bao nhiêu bụi?

Gió có bao vi trần?

Bụi từng căn bao nhiêu?

Mao Khổng, mi bao bụi?

Nhân đâu làm Tự tại 

Chuyển Luân Thánh Đế vương?

Nhân đâu vua thủ hộ?

Giải thoát rộng lược nói

Đủ thứ dục chúng sinh!

Làm sao mà hỏi ta?

Nhân đâu các ẩm thực?

Nhân đâu nam nữ lâm (rừng trai gái)?

Núi Kim Cương kiên cố

Ta phải nói thế nào?

Nhân đâu như huyễn mộng

Khát ái ví nai hoang 

Nhân đâu mây xuất hiện?

Nhân đâu có sáu thời? 

Nhân đâu đủ thứ vị?

Nam, nữ, phi nam nữ

Nhân đâu các trang nghiêm?

Phật tử nhân đâu hỏi? 

Làm sao các diệu sơn 

Tiên vui, người trang nghiêm?

Giải thoát, chỗ nào đến?

Ai trói, trói ra sao?

Cảnh giới Thiền thế nào?

Niết Bànngoại đạo 

Sao lại không nhân làm?

Nhân đâu được thấy buộc?

Nhân đâu tịnh các giác?

Có các giác do đâu? 

Nhân đâu chuyển sở tác?

- Hạnh nguyện nói vì con!

Nhân nào đoạn các tưởng?

Tam muội có nhân đâu? 

Ai phá hoại ba hữu?

Thân nhân đâu, ở đâu? 

Làm sao không nhân, ngã?

Y thế thuyết nhân đâu? 

Nhân đâu hỏi ngã tướng?

Hỏi vô ngã thế nào?

Sao gọi là thai tạng?

- Ông nhân đâu hỏi ta? 

Nhân đâu thường, đoạn kiến?

Tâm được định vì sao? 

Nhân đâu nói và trí 

Giới tính, các Phật tử 

So giải đệ tử, thầy

Đủ thứ các chúng sinh?

Sao là ân ẩm thực 

Thí, thông minh, hư không?

Nhân đâu có cây rừng?

Phật tử nhân đâu hỏi?

Sao gọi đủ thứ cõi?

Nhân đâu tiên sống lâu?

Đủ thứ thầy nhân đâu?

Ông nhân đâu hỏi ta?

Vì sao có xấu xí?

Tu hành chẳng muốn thành 

Sắc rốt ráo thành đạo 

Làm sao mà hỏi ta?

Nhân đâu không cõi thế (thế gian)?

Nhân đâu là Tỳkheo?

Sao là hóa, báo Phật (Phật hóa thân

Phật báo thân)?

Nhân đâu mà hỏi ta? 

Sao gọi như trí Phật?

Sao gọi là chúng tăng? 

Không hầu, trống, hoa, cõi

Làm sao lìa quang minh?

Sao gọi là tâm địa?

Phật tử mà hỏi ta 

Đây và chúng sinh khác

Phật tử nên hỏi han 

Mỗi một tướng tương ứng

Lỗi các kiến xa lìa 

Lìa các pháp ngoại đạo.

Ta nói ông lắng nghe 

Dưới đây trăm (lẻ) tám biến

Như lời nói chư Phật 

Ta nay nói phần ít

Phật tử khéo lắng nghe.

Sinh kiến - bất sinh kiến, thường kiến - vô thường kiến, tướng kiến - vô tướng kiến, trụ dị kiến - phi trụ dị kiến, sát na kiến - phi sát na kiến, ly tự tính kiến - phi ly tự tính kiến, không kiến - bất không kiến, đoạn kiến - phi đoạn kiến, tâm kiến - phi tâm kiến, biên kiến -phi biên kiến, trung kiến - phi trung kiến, biến kiến - phi biến kiến, duyên kiến - phi duyên kiến, nhân kiến - phi nhân kiến, phiền não kiến - phi phiền não kiến, ái kiến - phi ái kiến, phương tiện kiến - phi phương tiện kiến, xảo kiến - phi xảo kiến, tịnh kiến - phi tịnh kiến, tương ưng kiến - phi tương ưng kiến, thí dụ kiến - phi thí dụ kiến, đệ tử kiến - phi đệ tử kiến, sư kiến - phi sư kiến, tính kiến - phi tính kiến, thừa kiến - phi thừa kiến, tịch tịnh kiến - phi tịch tịnh kiến, nguyện kiến - phi nguyện kiến, tam luân kiến - phi tam luân kiến, tướng kiến - phi tướng kiến, hữu vô lập kiến -phi hữu vô lập kiến, hữu nhị kiến - vô nhị kiến, duyên nội thân Thánh kiến - phi duyên nội thân Thánh kiến, hiện pháp lạc kiến - phi hiện pháp lạc kiến, quốc thổ kiến - phi quốc thổ kiến, vi trần kiến - phi vi trần kiến, thủy kiến - phi thủy kiến, cung kiến - phi cung kiến, tứ đại kiến - phi tứ đại kiến, số kiến -phi số kiến, thông kiến - phi thông kiến, hư vọng kiến - phi hư vọng kiến, vân kiến - phi vân kiến, công xảo kiến - phi công xảo kiến, minh xứ kiến - phi minh xứ kiến, phong kiến - phi phong kiến, địa kiến - phi địa kiến, tâm kiến - phi tâm kiến, giả danh kiến - phi giả danh kiến, tự tính kiến - phi tự tính kiến, ấm kiến - phi ấm kiến, chúng sinh kiến - phi chúng sinh kiến, trí kiến - phi trí kiến, Niết bàn kiến - phi Niết bàn kiến, cảnh giới kiến - phi cảnh giới kiến, ngoại đạo kiến - phi ngoại đạo kiến, loạn kiến - phi loạn kiến, huyễn kiến - phi huyễn kiến, mộng kiến - phi mộng kiến, dương viêm kiến - phi dương viêm kiến, tượng kiến - phi tượng kiến, luân kiến - phi luân kiến, kiền thát bà kiến - phi kiền thát bà kiến, thiên kiến - phi thiên kiến, ẩm thực kiến - phi ẩm thực kiến, dâm dục kiến - phi dâm dục kiến, kiến kiến - phi kiến kiến, Ba la mật kiến - phi Ba la mật kiến, giới kiến - phi giới kiến, nhật nguyệt tinh tú kiến - phi nhật nguyệt tinh tú kiến, đế kiến - phi đế kiến, quả kiến - phi quả kiến, diệt kiến - phi diệt kiến, khởi diệt tận định kiến - phi khởi diệt tận định kiến, trị kiến - phi trị kiến, tướng kiến - phi tướng kiến, chi kiến - phi chi kiến, xảo minh kiến - phi xảo minh kiến, thiền kiến - phi thiền kiến, mê kiến - phi mê kiến, hiện kiến - phi hiện kiến, hộ kiến - phi hộ kiến, tộc tính kiến - phi tộc tính kiến, tiên nhân kiến - phi tiên nhân kiến, vương kiến - phi vương kiến, bổ thủ kiến - phi bổ thủ (bắt lấy) kiến, thật kiến - phi thật kiến, ký (ghi) kiến - phi ký kiến, nhất xiển đề kiến - phi nhất xiển đề kiến, nam nữ kiến - phi nam nữ kiến, vị (mùi vị) kiến - phi vị kiến, tác kiến - phi tác kiến, thân kiến - phi thân kiến, giác kiến - phi giác kiến, động kiến - phi động kiến, căn kiến - phi căn kiến, hữu vi kiến - phi hữu vi kiến - phi nhân quả kiến - phi nhân quả kiến, sắc cứu cánh kiến - phi sắc cứu cánh kiến, thời kiến - phi thời kiến, thọ lâm kiến - phi thọ lâm kiến, chủng chủng kiến - phi chủng chủng kiến, thuyết kiến - phi thuyết kiến, Tỳkheo kiến - phi Tỳkheo kiến, Tỳkheo ni kiến - phi Tỳkheo ni kiến, trụ trì kiến - phi trụ trì kiến, tự (chữ) kiến - phi tự kiến. Này Đại Tuệ! Một trăm linh tám kiến này, chư Phật đời quá khứ đã nói! Ông và các Bồ tát phải học như vậy. 

KINH NHẬP LĂNG GIÀ
- Quyển thứ nhất hết - 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11534)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11250)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11976)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12456)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17862)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14212)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11883)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10507)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12561)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19478)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13022)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11725)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13406)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11520)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12662)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14394)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12779)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8992)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12091)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12091)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16512)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12121)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19530)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant