Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

02. Quyển Thứ Hai

16 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6153)
02. Quyển Thứ Hai

KINH NHẬP LĂNG GIÀ
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy 
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

 

Quyển thứ hai

 PHẨM THỨ BA: TẬP HỌP TẤT CẢ PHẬT PHÁP


I- Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát lại bạch đức Phật rằng: 

- Thưa đức Thế Tôn ! Các thức có bao nhiêu thứ sinh, trụ, diệt ?

Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát rằng :

- Này Đại Tuệ! Các thức sinh, trụ, diệt chẳng phải điều có thể biết của người nghĩ suy! Này Đại Tuệ! Các thức đều có hai thứ sinh, trụ, diệt. Này Đại Tuệ! Các thức có hai thứ diệt, một là tương diệt, hai là tương tục diệt. Này Đại Tuệ! Các thức lại có hai thứ trụ, một là tương trụ, hai là tương tục trụ. Này Đại Tuệ! Các thức có hai thứ sinh, một là tương sinh, hai là tương tục sinh. 

Này Đại Tuệ ! Thức có ba thứ. Những gì là ba ? Một là Chuyển tướng thức, hai là nghiệp tướng thức, ba là trí tướng tức. 

Này Đại Tuệ ! Có tám thứ thức mà lược nói thì có hai thứ. Những gì là hai ? Một là Liễu Biệt thức, hai là Phân Biệt sự thức. Này Đại Tuệ ! Như thấy các sắc tượng trong gương sáng, này Đại Tuệ ! Liễu Biệt thức cũng như vậy thấy đủ thứ cảnh tượng. Này Đại Tuệ ! Liễu Biệt thức, Phân Biệt sự thức, hai thứ thức đó không sai khác mà đắp đổi nhau chung làm nhân. Này Đại Tuệ ! Liễu Biệt thức huân tập chẳng thể nghĩ bàn biến nhân. Này Đại Tuệ! Phân Biệt Sự thức phân biệt lấy cảnh giới. Nhân từ vô thỉ đến nay, hí luận huân tập

Này Đại Tuệ ! A La Gia thức hư vọng phân biệt đủ thứ huân tập diệt thì các căn cũng diệt. Này Đại Tuệ ! Đó gọi là tương diệt. Này Đại Tuệ ! Tương tục diệt nghĩa là nhân nối tiếp nhau diệt thì tức là tương tục diệt. Nhân diệt, duyên diệt tức là tương tục diệt. 

Này Đại tuệ ! Cái gọi là y pháp, y duyên, nói y pháp nghĩa là sự huân tập vọng tưởng hý luận từ vô thỉ; nói y duyên nghĩa là từ tâm thức thấy cảnh giới phân biệt. Này Đại Tuệ ! Ví như cục bùn với vi trần chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Vàng với đồ trang nghiêm bằng vàng cũng lại như vậy, chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Này Đại Tuệ ! Nếu cục bùn khác thì chẳng phải do vi trần kia tạo thành mà thật do nó tạo thành. Vậy nên chẳng khác. Nếu chẳng khác thì cục bùn và vi trần nên không sai biệt. Này Đại Tuệ ! Như vậy Chuyển thức, A Lê Gia thức nếu tướng khác thì chẳng từ A Lê Gia thức sinh ra, nếu chẳng khác thì Chuyển thức, A Lê Gia thức cũng nên diệt mà tự tướng A Lê Gia thức chẳng diệt. Vậy nên, này Đại Tuệ ! Tự tướng các thức diệt mà tự tướng diệt thì nghiệp tướng diệt. Nếu tự tướng diệt thì A Lê Gia thức nên diệt. Này Đại Tuệ ! Nếu A Lê thức diệt thì đây chẳng khác hí luận đoạn kiến của ngoại đạo. Này Đại Tuệ ! Những ngoại đạo đó nói như vầy : “Cái gọi là lìa các cảnh giới thì thức tương tục diệt mà thức tương tục diệt rồi tức là diệt các thức. Này Đại Tuệ ! Nếu thức tương tục diệt thì từ vô thỉ đến nay các thức nên diệt. 

Này Đại Tuệ ! Các ngoại đạo nói các thức tương tục từ tác giả sinh ra. Họ chẳng nói thức nương vào mắt, hình sắc, hư không, ánh sáng hòa hợp sinh ra mà nói có tác giả

Này Đại Tuệ ! Tác giả của ngoại đạo là người nào ? Là bậc thắng nhân tự tại đối với vi trần.v.v.... chính là người có khả năng tạo tác (tác giả).

Lại nữa, này Đại Tuệ ! Có bảy thứ tự tính. Những gì là bảy ? Một là Tập (gom) tính tự tính, hai là Tính tự tính, ba là Tướng tính tự tính, bốn là Đại tính tự tính, năm là Nhân (duyên) tính tự tính, sáu là Duyên tính tự tính, bảy là Thành (nên) tính tự tính.

Lại nữa, này Đại Tuệ ! Có bảy thứ đệ nhất nghĩa. Những gì là bảy ? Một là Tâm cảnh giới, hai là Trí cảnh giới, ba là Tuệ cảnh giới, bốn là Nhị kiến cảnh giới, năm là Quá nhị kiến cảnh giới, sáu là Quá Phật tử địa cảnh giới, bảy là Nhập Như Lai địa nội hành cảnh giới.Này Đại Tuệ ! Đây chính là Tính tự tính đệ nhất nghĩa tâm của các đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri quá khứ, vị laihiện tại. Này Đại Tuệ ! Nương vào Tính tự tính đệ nhất nghĩa tâm này các đức Phật Như Lai rốt ráo được ở thế gian, xuất thế gian. Từ mắt trí tuệ của chư Phật mà các pháp đồng tướng, khác tướng được kiến lập. Như sự kiến lập này thì chẳng cùng ngoại đạo tà kiến cộng đồng

Này Đại Tuệ ! Sao là chẳng cùng với ngoại đạo tà kiến cộng đồng ? Đó là cảnh giới phân biệt tự tâm vọng tưởng kiến mà chẳng giác biết tự tâm tưởng kiến. 

Này Đại Tuệ ! Những phàm phu ngu si lấy cái kiến thật thể làm đệ nhất nghĩa nên nói Nhị kiến luận.

Lại nữa, này Đại Tuệ ! Nay ông hãy lắng nghe ta sẽ vì ông giải nói ! Hư vọng phân biệt lấy làm có vật, là đoạn ba thứ khổ. Những gì là ba ? Là vô tri, ái nghiệp, nhân duyên diệt, sở kiến tự tâm như cảnh giới huyễn. 

Này Đại Tuệ ! Các Sa môn, Ba la môn nói lời như vầy : “Vốn vô thỉ sinh ra, nương vào nhân quả mà hiện”. Họ lại nói rằng : “Thật có vật trụ nương theo các duyên nên có ấm, giới, nhập, sinh, trụ, diệt. Do sinh thì diệt vậy”. 

Này Đại Tuệ ! Sa môn, Ba la môn đó nói, thể tương tục vốn từ vô thỉ có, hoặc sinh, hoặc diệt, hoặc Niết Bàn, hoặc đạo, hoặc nghiệp, hoặc đế. Phá hoại các pháp chínhđoạn diệt luận, chẳng phải là lời nói của ta. Vì sao vậy ? Vì do hiện pháp chẳng thể được, chẳng thấy căn bản vậy. 

Này Đại Tuệ ! Ví như cái bình vỡ thì chẳng được công dụng của bình. 

Này Đại Tuệ ! Ví như giống bị đốt cháy thì chẳng sinh ra mầm.v.v... 

Này Đại Tuệ ! Ấm, giới, nhập kia chính là diệt mà ấm, giới, nhập quá khứ diệt thì ấm, giới, nhập hiện tại, vị lai cũng diệt. Vì sao vậy ? Vì nhân vào tự tâm hư vọng phân biệt kiến vậy. 

Này Đại Tuệ ! Vì không có cái thể tương tục của ấm, giới, nhập kia vậy. 

Này Đại Tuệ ! Nếu vốn từ vô thỉ sinh, nương vào ba pháp sinh ra đủ thứ thức thì vì sao lông rùa chẳng sinh ? Cát chẳng sinh ra dầu ? Nghĩa quyết định lập ra của ông thì tức là tự hoại. Ông nói có không, nói sinh, nhân quả sở thành cũng hoại. 

Này Đại Tuệ ! Nếu nương vào nhân duyên ba pháp như vậy thì nên sinh ra tự tướng nhân quả của các pháp. Các tướng hữu vô quá khứ, hiện tại, vị lai, Thí dụ, A hàm, tự giác quán địa nương vào tự kiến hun đúc lòng. Nói lời như vậy, này Đại Tuệ ! Phàm phu ngu si cũng lại như vậy, bị sự ác hại của ác kiến, ý mê của tà kiến, kẻ vô trí xưng là Nhất Thiết Trí nói.

Này Đại Tuệ ! Nếu lại có Sa môn, Ba la môn thấy các pháp lìa khỏi tự tính như mây, vừng lửa, thành của Kiền thát bà chẳng sinh, chẳng diệt, như huyễn, ngọn lửa, trăng trong nước, như mộng... nội ngoại tâm nương theo từ đời vô thỉ đến nayhư vọng phân biệt, hí luận hiện ra. Lìa khỏi tự tâm hư vọng phân biệt nhân duyên có thể thấy. Lìa khỏi vọng tưởng Diệt Tận nói lời nói pháp. Lìa khỏi của cải sống của thân để giữ gìn sử dụng pháp. Lìa khỏi A Lê Gia thức chọn lấy cảnh giới tương ứng, vào cảnh giới tịch tịnh, lìa khỏi pháp sinh, trụ, diệt. Suy nghĩ, quan sát như vậy mà tự tâm lấy làm sinh. 

Này Đại Tuệ ! Bồ tát như vậy chẳng bao lâu sẽ được tâm bình đẳng Niết Bàn thế gian

Này Đại Tuệ ! Ông phương tiện khéo léo khai phát phương tiện quan sát cõi của tất cả chúng sinh đều như huyễn hóa, như hình tượng trong gương, không nhân duyên khởi, xa lìa nội cảnh, tự tâm thấy cảnh giới bên ngoài, thứ lớp theo vào cõi vô tướng, thứ lớp theo vào từ địa đến cảnh giới tam muội địa, tin vào sự huyễn hóa tự tâm của ba cõi. Này Đại Tuệ ! Người tu hành như vậy sẽ được Như Huyễn tam muội, vào cảnh giới tịch tịnh của tự tâm, đến được cảnh giới bờ kia (bờ giác), lìa khỏi pháp tác giả sinh, được Kim Cương tam muội, vào thân của Như Lai, vào hóa thân của Như Lai, vào những lực thông tự tại đại từ đại bi trang nghiêm thân, vào tất cả đất nước Phật, vào tất cả niềm vui của chúng sinh, lìa khỏi cảnh giới ý thức của tâm ý, chuyển thân được diệu thân. 

Này Đại Tuệ ! Các Đại Bồ tát tu hành như vậy thì nhất định được diệu thân Như Lai Vô Thượng

Này Đại Tuệ ! Bồ tát muốn chứng thân Như Lai thì xa lìa ấm, giới, nhập và pháp hòa hợp nhân duyên của tâm, xa lìa hí luận phân biệt hư vọng sinh, trụ, diệt, các pháp chỉ có tâm ! Phải như vậy tri kiến, ba cõi từ đời vô thỉ đến nay nên hư vọng phân biệt hí luận mà có, quan sát Như Lai địa tịch tịnh chẳng sinh, tiến đến hạnh Thánh của nội thân. 

Này Đại Tuệ ! Ông sẽ chẳng bao lâu được hạnh vô công dụng tự tại của tâm rốt ráo như mọi sắc theo báu Ma Ni hóa thân vào tâm vi tế của các chúng sinh. Do vào theo tâm địa nên khiến cho các chúng sinh thứ lớp vào địa. Vậy nên, này Đại Tuệ ! Các Đại Bồ tát cần phải giỏi biết nội pháp tự tu hành của các Bồ tát.

Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát Mahatát lại bạch đức Phật rằng : 

- Nguyện xin đức Thế Tôn vì các vị Đại Bồ tát nói “Tâm ý ý thức ngũ pháp tự thể tương ứng pháp môn”, chỗ tu hành của chư Phật, Bồ tát xa lìa cảnh giới tự tâm tà kiến hòa hợp, có thể phá tất cả thể tướng ngôn ngữ, thí dụ, lòng nói pháp của tất cả chư Phật vì các Bồ tát ở thành Lăng Già trên núi Ma La Gia trong biển lớn, nói lên sự quan sát cảnh giới sóng biển cả A Lê Gia thức, nói lên lời nói pháp của pháp thân Như Lai.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Thánh Giả Đại Tuệ Đại Bồ tát rằng :

- Này Đại Tuệ ! Có bốn nhân duyênnhãn thức sịnh ra. Những gì là bốn ? Một là, chẳng biết tự nội thân chọn lấy cảnh giới. Hai là, từ đời vô thỉ đến nay hư vọng phân biệt cảnh giới của sắc, huân tập chấp trước hý luận. Ba là, thể tự tính của thức như vậy. Bốn là, ưa thấy đủ thứ sắc tướng

Này Đại Tuệ ! Đó gọi là bốn thứ nhân duyên đối với biển A Lê Gia thức nổi dậy sóng lớn mạnh, có thể sinh ra chuyển thức

Này Đại Tuệ ! Như nhãn thức khởi lên nhận thức thì lỗ chân lông các căn nhất thời Chuyển thức sinh ra như hình tượng trong gương nhiều ít nhất thời hiện. Lại có thứ tùy theo nhân duyên thứ lớp sinh ra, này Đại Tuệ ! Giống như gió mạnh thổi biển tâm cảnh mà sóng thức sinh, chẳng đoạn dứt nhân sự tướng, đắp đổi chung chẳng lìa nhau, nghiệp thể sai khiến, trói buộc nhau, chẳng hiểu biết sắc thể mà năm thức thân chuyển vậy. 

Này Đại Tuệ ! Năm thức và tâm thức chẳng tác khởi ý niệm này: “Ta đắp đổi chung làm nhân, tự tâm thấy hư vọng phân biệt, chọn lấy các cảnh giới mà thức kia mỗi mỗi đều chẳng khác, cùng nhau hiện phân biệt cảnh giới : “Như vậy thức kia sinh diệt vi tế. Do người vào tu hành Tam muội chẳng giác, chẳng biết huân tập vi tế mà người tu hành tác khởi tâm này : “Ta diệt các thức để vào tam muội”. Mà người tu hành chẳng diệt các thức vào tam muội, này Đại Tuệ ! Thì huân tập chủng tử chẳng diệt, thủ lấy cảnh giới bên ngoài, các thức diệt. 

Này Đại Tuệ ! Như vậy là hành của vi tế A Lê Gia thức, trừ Phật Như Lai và các Đại Bồ tát nhập Địa còn các Thanh Văn, Bích Chi Phật, người tu hành ngoại đạo khác thì chẳng thể biết, trí lực vào tam muội cũng chẳng thể hiểu vì họ chẳng biết tướng của các Địa, vì chẳng thể biết phương tiện trí tuệ khéo quyết định sai biệt, vì chẳng thể hiểu sự huân tập các thiện căn các đức Phật Như Lai, vì chẳng thể biết tự tâm hiện cảnh giới phân biệt hí luận, vì chẳng thể vào hang động A Lê Gia thức với đủ thứ rừng rậm. 

Này Đại Tuệ ! Chỉ có người tu hành đúng như thật thượng, trung, hạ mới có thể phân biệt thấy Hư vọng kiến trong tự tâm, có thể ở trong vô lượng đất nước được các đức Như Lai trao cho ngôi vị, được vô lượng tự tại lực thần thông tam muội, nương theo thiện tri thức, quyến thuộc Phật tử mà có thể được thấy cảnh giới tự thể tự tâm ý thức của tâm ý, phân biệt biển lớn sinh tử do nghiệp ái vô trí lấy làm nhân hữu (có) vậy. 

Này Đại Tuệ ! Vậy nên người tu hành như thật nên tìm kiếm, thân cận thiện tri thức.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ rằng :

Ví như sóng biển lớn 

Do gió mạnh nổi lên

Sóng cả vỗ hốc tối 

Không có lục đoạn dừng.

Lê gia thức cũng vậy 

Cảnh giới gió thổi rung

Đủ thứ những sóng thức

Bay nhảy mà chuyển sinh.

Xanh, đỏ, muối trắng, sữa

Và cả vị ngọt đường

Mọi hoa cùng quả trái 

Như ánh sáng trời, trăng

Phi dị phi bất dị 

Nước biển dậy sóng lên.

Bảy thức cũng như vậy 

Tâm cùng hòa hợp sinh.

Ví như nước biển động 

Đủ thứ sóng chuyển thành.

Lê Gia thức cũng vậy 

Đủ thứ các thức sinh

Tâm ý và ý thức

Vì các tướng nói lên.

Các thức không dị tướng 

Phi kiến, sở kiến tướng (chẳng kiến tướng, sở kiến tướng)

Ví như sóng nước biển 

Sai biệt thì là không 

Các thức tam như vậy. 

Ý hay quán cảnh chung (tập cảnh)

Thức hay rõ nhận thức 

Năm thức hiện phân riêng.

Lúc bấy giờ, Thánh giả 

Đại Tuệ Đại Bồ tát dùng kệ hỏi đức Phật :

Các sắc tượng xanh, đỏ...

Tự thức thấy như trên

Sóng nước, pháp tương đối

Vì sao nói như vậy ?

Bấy giờ, đức Thế Tôn dùng kệ đáp rằng :

Các tạp sắc xanh đỏ 

Trong sóng đều là không.

Nói chuyển thức trong lòng

Vì tướng phàm phu nói

Nghiệp đó đều là không 

Tự tâm lìa khả thủ.

Khả thủ và năng thủ (chọn lấy)

Cùng những sóng kia đồng

Thân tư sinh trụ giữ 

Chỉ thức thấy chúng sinh.

Vậy nên hiện Chuyển thức

Sóng nước tương tợ thức

Sóng biển cả động rung 

Nhấp nhô phân biệt được

Vì sao chẳng biết thông 

Thức A Lê Gia chuyển ?

Trí tuệ phàm phu không 

Thức Lê gia như biển

Pháp như sóng đối chuyển

Vậy nên thí dụ nói.

Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ tát lại nói kệ rằng :

Mặt trời mọc soi đồng 

Chúng sinh thượng, trung, hạ

Như Lai xuất thế gian 

phàm phu nói thật

Phật được pháp rốt cùng 

Vì sao chẳng nói thật ?

Nếu nói pháp thật chân 

Tâm kia không chân thật

Như sóng biển mênh mông 

Mộng và tượng trong gương

Đồng thời mà được hiện

Như cảnh giới trong lòng.

Cảnh giới chẳng đầy đủ 

Nên thứ lớp hiện lên.

Thức nhận biết cái biết 

Ý biết nên chẳng nên (đúng hay sai)

Năm thức do hiện thấy 

Trong định không như vậy.

Ví như vị họa sư 

Cùng với các đệ tử

Vẽ hình tượng đủ màu 

Ta nói pháp cũng vậy.

Sắc màu vốn không văn(vằn, nét vẽ)

Chẳng bút cũng chẳng khí (dụng cụ)

chúng sinh nói nên 

Vẽ đan xen hình tượng.

Lời nói lìa thật chân 

Chân thật lìa danh tự,

Ta được chỗ thật chân 

Như thật nội thân biết.

Lìa tướng giác, sở giác 

Giải như thật nói lên

Nói đây vì con Phật 

Người ngu phân biệt khác.

Mọi thứ như huyễn thôi 

Chỉ thấy chẳng phải thật

Nói lên vì người này 

Người kia chẳng phải nói

Đó, đó những bệnh nhân 

Lương y tùy cho thuốc

Như Laichúng sinh 

Chỉ nói (cho) lòng ứng khí (lòng hợp với pháp).

Vọng tưởng phi cảnh giới 

Thanh Văn cũng chẳng phân (chẳng phải sự phân biệt)

Các Như Lai Thế Tôn 

Nói cảnh giới tự giác.

Lại nữa, này Đại Tuệ ! 

Nếu Đại Bồ tát muốn biết tự tâm lìa khỏi hư vọng phân biệt tướng năng thủ, khả thủ cảnh giới thì phải lìa khỏi sự rối rắm ồn ào, lìa khỏi sự che phủ của ngủ nghỉ (thùy miên), đầu đêm cuối đêm luôn tự tỉnh thức tu hành phương tiện, lìa khỏi tất cả hí luận của các ngoại đạo, lìa khỏi tướng của Thanh Văn, Duyên Giác thừa, phải thông đạt lòng mình hiện thấy tướng hư vọng phân biệt.

Lại nữa, này Đại Tuệ ! Đại Bồ tát kiến lập, trụ trì tâm tướng trí tuệ thì đối với ba tướng Thượng Thánh trí phải siêng năng tu học

Này Đại Tuệ ! Những gì là ba tướng Thượng Thánh trí ? Đó là tướng Vô Sở Hữu, tướng tất cả chư Phật tự nguyện trụ trì, tướng nội thân thánh trí tự giác tri. Người tu hành này có thể xả bỏ tướng trí tuệ của con lừa thọt, được ba tướng tu hành của thắng tử đệ bát địa

Này Đại Tuệ ! Cái gì là tướng Vô sở hữu ? Là quan sát tướng của Thanh Văn, Duyên Giácngoại đạo

Này Đại Tuệ ! Cái gì là tướng của tất cả chư Phật vốn tự tác nguyện trụ trì các pháp. 

Này Đại Tuệ ! Cái gì là tướng nội thân Thánh trí tự giác tri ? Tất cả pháp tướng không có sự chấp trước, được thân như huyễn tam muội, chỗ các Phật địa tiến đến tu hành

Này Đại Tuệ ! Đó gọi là ba tướng Thượng Thánh Trí. Nếu người thành tựu ba tướng này thì có thể đến cảnh giới thánh trí tự giác. Vậy nên, này Đại Tuệ ! Các Đại Bồ tát cầu ba tướng Thượng Thánh Trí thì phải học tập như vậy.

Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát biết ý niệm trong lòng những chúng Đại Bồ tát, thừa lực trụ trì của đức Phật Như Lai mà hỏi tên gọi Thánh trí hành phân biệt pháp môn thể :

- Thưa đức Thế Tôn ! Nguyện xin ngài vì con nói về tên gọi Thánh Trí hành phân biệt pháp môn thể nương theo một trăm linh tám kiến mà phân biệt nói !

Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nương vào một trăm linh tám kiến vì các Đại Bồ tát phân biệt nói về pháp tự tướng đồng tướng vọng tưởng phân biệt thể tu hành sai biệt :

- Này Đại Tuệ ! Đại Bồ tát khéo được sự tu hành sai biệt của pháp vọng tưởng phân biệt tự thể này thì có thể thanh tịnh được nhân vô ngã, pháp vô ngã, giỏi giải được các Địa vượt qua niềm vui thiền định Tam ma bạt đề của các Thanh Văn, Bích Chi Phật, được chẳng thể nghĩ bàn cảnh giới tu hành của các đức Phật Như Lai, được lìa khỏi tướng hạnh tự thể của năm pháp, vào thể chân thật hạnh của pháp thân chư Phật, được chỗ khéo quyết định của pháp thân Như Lai, cảnh giới như huyễn thành tựu, tất cả đất nước, từ trời Đâu Suất đến cõi A Ca Ni Sấc, được pháp thân Như Lai.

Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát rằng :

- Có một dòng ngoại đạo tà kiến chấp trước “Không vô” vọng tưởng sở hữu của họ phân biệt nhân của trí có hai : Tự thể và vô thể. Họ phân biệt sừng thỏ không có. Như sừng thỏ không có thì các pháp cũng không có. 

Này Đại Tuệ ! Lại có ngoại đạo khác thấy công đức bốn đại thật có vật. Họ thấy mỗi mỗi vật đều có tướng sai biệt, thật khôngsừng thỏ, rồi hư vọng chấp trước vọng tưởng phân biệt thật có sừng trâu. Này Đại Tuệ ! Những ngoại đạo đó rơi vào nhị kiến, chẳng biết chỉ có tâm, vọng tưởng phân biệt tăng trưởng cõi lòng của mình. 

Này Đại Tuệ ! Như thân, của cải sống, đồ dùng, thế gian.v.v... chỉ là sự phân biệt của tâm, chẳng được phân biệt sừng thỏ, lìa khỏi có, không. 

Này Đại Tuệ ! Chẳng được phân biệt tất cả các pháp, lìa khỏi có, không. Này Đại Tuệ ! Nếu có người lìa khỏi có không mà nói như vầy : “Không có việc phân biệtsừng thỏ, chẳng được phân biệt không có việc có sừng thỏ”. Người đó thấy tướng đợi nhân, chẳng được phân biệt không sừng thỏ. Vì sao vậy ? Này Đại Tuệ ! Vì cho đến quan sát vi tế vi trần (bụi rất nhỏ) cũng chẳng thấy thật sự, lìa khỏi cảnh giới người trí, chẳng được phân biệt có sừng trâu !

Bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ tát bạch đức Phật rằng : 

- Thưa đức Thế Tôn ! Đức Thế Tôn ! Kẻ phàm phu ngu si chẳng thấy tướng phân biệt mà sánh với trí phân biệt thì người đó thấy không có !

Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát rằng :

- Này Đại Tuệ ! Chẳng phải quan sát tâm phân biệt người đó vô tướng. Vì sao vậy ? Vì nhân vào tâm hư vọng phân biệt, nương vào sừng mà có tâm phân biệt ! Này Đại Tuệ ! Y chỉ vào sừng hư vọng mà có tâm phân biệt. Vậy nên nương vào nhân của y chỉ, lìa tướng đối đãi pháp thì chẳng phải thấy sự không có sừng kia của pháp. 

Này Đại Tuệ ! Nếu lìa tâm phân biệt lại có phân biệt thì nên lìa cái có của sừng, chẳng phải nhân vào cái có của sừng. 

Này Đại Tuệ ! Nếu chẳng lìa tâm phân biệt đó thì pháp kia cho đến quan sát vi trần, chẳng thấy có vật thật. Này Đại Tuệ ! Chẳng lìa khỏi tâm thì pháp đó nên không có, do hai pháp có, không đó chẳng thể được. Nếu vậy thì thấy có những pháp gì ? Không những pháp gì ? Này Đại Tuệ ! Nếu chẳng thấy có, không như vậy thì chẳng phân biệt được có không. Nghĩa này ra sao ? Thấy có sừng trâu, thấy không có sừng thỏ, chẳng được phân biệt như vậy. 

Này Đại Tuệ ! Vì nhân chẳng tương tợ nên nghĩa có, không chẳng thành, vì các ngoại đạo, phàm phu,. Thanh Văn nói nghĩa có, không, cả hai đều chẳng thành.

Này Đại Tuệ ! Lại có ngoại đạo khác thấy sắc có rồi nhân đó vọng tưởng chấp trước hình tướng dài ngắn, thấy hư không không hình tướng phân chia tề chỉnh, thấy các sắc tướng khác với hư không, có sự phân chia tề chỉnh ấy. 

Này Đại Tuệ ! Hư không tức là sắc, do sắc đại vào hư không nên, này Đại Tuệ ! Sắc tức là hư không, nương pháp này có pháp kia, nương pháp kia có pháp này. Do nương sắc phân biệt hư không, nương hư không phân biệt sắc vậy. 

Này Đại Tuệ ! Bốn thứ Đại sinh ra tự tướng (tướng của mình) đều riêng biệt, chẳng trụ ở hư không mà trong bốn Đại chẳng phải không có hư không

Này Đại Tuệ ! Sừng thỏ cũng như vậy, nhân sừng trâu có mà nói sừng thỏ không. 

Này Đại Tuệ ! Lại, đem sừng trâu đó chặt nát thành vi trần thì phân biệt tướng vi trần chẳng thể được thấy những gì những gì đó là pháp có, những gì những gì là pháp không mà nói là có vậy ? Là không vậy ? Nếu quan sát như vậy thì những pháp khác cũng vậy.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ tát rằng :

- Này Đại Tuệ ! Ông hãy nên lìa sừng thỏ, sừng trâu, hư không, sắc vọng tưởng khác, kiến.v.v... ! Này Đại Tuệ ! Ông cũng nên vì các Bồ tát nói lìa tướng sừng thỏ.v.v... Này Đại Tuệ ! Ông nên phải biết tướng hư vọng phân biệt sở kiến của tự tâm

Này Đại Tuệ ! Ông phải ở trong đất nước chư Phật, vì các Phật tử mà nói tất cả cảnh giới hư vọng của lòng mình hiện thấy.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ rằng :

Sắc ở trong lòng không 

Tâm nương cảnh có

Nội thức thấy chúng sinh

Thân, của cải, trụ xứ

Tâm ý, ý thức cùng 

Tự tính và năm pháp

Hai vô ngã sạch trong (hai thứ vô ngã tịnh) 

 Như Lai nói như vậy.

Dài, ngắn và có, không... 

Hỗ tương sinh đắp đổi

Do có nên thành không 

Do không nên thành có

Phân biệt thể vi trần 

Chẳng khởi vọng tưởng sắc

Chỉ chỗ an trụ lòng 

Ác kiến chẳng thể tịnh

Phi cảnh trí vọng tưởng 

Thanh Văn chẳng biết thông

Lời nói của Thế Tôn 

Cảnh giới của tự giác.

Lúc bấy giờ, Thánh giả

Đại Tuệ Đại Bồ tát vì tịnh tự tâm hiện tuông chảy, lại thỉnh đức Như Lai mà nói lên rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Làm sao tịnh trừ tâm mình hiện đang tuông chảy ? Là tịnh theo thứ lớp hay là một lúc vậy ?

Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ tát rằng :

- Này Đại Tuệ ! Ví như trái am ma la chín dần dần chẳng phải một lúc. Này Đại Tuệ ! Chúng sinh thanh tịnh lòng mình hiện đang tuông chảy cũng lại như vậy, thanh tịnh dần dần chẳng phải là một lúc. Ví như người thợ gốm làm những đồ dùng, dần dần thành tựu chẳng phải là một lúc. 

Này Đại Tuệ ! Các đức Phật Như Lai tịnh các chúng sinh tự tâm đang tuông chảy cũng lại như vậy, dần dần mà tịnh, chẳng phải tịnh một lúc. 

Này Đại Tuệ ! Ví như đại địa sinh ra những rừng cây, dược thảo, muôn vật... tăng trưởng dần dần, phải một lúc mà thành. 

Này Đại Tuệ ! Các đức Phật Như Lai tịnh các chúng sinh tự tâm đang tuông chảy cũng lại như vậy, cứ dần dần mà tịnh, chẳng phải tịnh trong một lúc. 

Này Đại Tuệ ! Ví như có người học các âm nhạc, ca múa, thư họa, đủ thứ kỹ thuật cứ dần dần mà giải được, chẳng phải biết một lúc. Này Đại Tuệ ! Các đức Phật Như Lai tịnh các chúng sinh tự tâm hiện tuông chảy cũng lại như vậy, dần dần mà tịnh, chẳng phải tịnh trong một lúc. 

Này Đại Tuệ ! Ví như gương sáng không lòng phân biệt, tất cả sắc tượng đều hiện lên một lúc. Đức Như Lai Thế Tôn cũng lại như vậy, không có phân biệt tịnh các chúng sinh tự tâm hiện đang tuông chảy mà thanh tịnh trong một lúc, chẳng phải tịnh dần dần, khiến cho họ trụ ở chỗ tịch tịnh không phân biệt

Này Đại Tuệ ! Ví như ánh sáng của mặt trời, mặt trăng cùng một lúc soi khắp tất cả sắc tượng, chẳng phải là trước hay sau. 

Này Đại Tuệ ! Đức Như Lai Thế Tôn cũng lại như vậy, vì khiến cho chúng sinh lìa khỏi phiền não tự tâm, thấy lỗi hoạn của khí huân tập nên nhất thời thị hiện chẳng thể nghĩ bàn cảnh giới trí tối thắng. Này Đại Tuệ ! Ví như A Lê Gia thức phân biệt hiện cảnh tự thân, đồ tư sinh, thế gian.v.v... thì nhất thời mà biết, chẳng phải là trước hay sau. 

Này Đại Tuệ ! Phật Như Lai báo cũng lại như vậy nhất thời thành thục các cõi chúng sinh, đặt vào cung điện tịnh diệu của trời Cứu Cánh, chỗ tu hành thanh tịnh

Này Đại Tuệ ! Ví như Phật pháp, Phật báo phóng ra những ánh sáng có Phật ứng hóa chiếu soi các thế gian

Này Đại Tuệ ! Pháp thể ánh sáng của nội thân thánh hạnh chiếu soi diệt trừ tà kiến hữu vô của thế gian cũng lại như vậy. 

Lại nữa, này Đại Tuệ ! Pháp Phật, báo Phật nói tự tướng tất cả pháp đồng tướng, nhân tự tâm hiện thấy tướng huân tập, nhân hư vọng phân biệt hí luận trói buộc nhau. Như đã nói, pháp không có cái thể như vậy. 

Này Đại Tuệ ! Như nhà huyễn thuật huyễn tác tất cả đủ thứ hình tượng. Những người ngu si lấy đó làm thật mà những hình tượng đó thật ra chẳng thể thật được. 

Lại nữa, này Đại Tuệ ! Pháp thể hư vọng nương vào pháp nhân duyên, chấp trước có thật mà phân biệt sinh ra. 

Này Đại Tuệ ! Như nhà huyễn thuật giỏi dựa vào cỏ cây gạch đá tạo tác đủ thứ việc, nương vào chú thuật, sức nhân công thành tựu tưởng tất cả chúng sinh với hình sắcthân phận, gọi là hình dáng người huyễn. Chúng sinh thấy đủ thứ hình sắc huyễn mà chấp trước là người nhưng thật ra không có người. 

Này Đại Tuệ ! Chúng sinh tuy thấy đó là người nhưng họ không thậtnhân thể. Này Đại Tuệ ! Nhân duyên pháp thể theo tâm phân biệt cũng lại như vậy, do thấy tâm tướng đủ thứ huyễn. Vì sao vậy ? Vì do chấp trước tướng hư vọng, nhân tâm phân biệt huân tập

Này Đại Tuệ ! Đó gọi là thể tướng của hư vọng phân biệt. Này Đại Tuệ ! Đó gọi là tướng báo Phật nói pháp. Này Đại Tuệ ! Pháp Phật nói pháp là lìa tâm tương ứng thể, cảnh giới nội chứng thánh hạnh. Này Đại Tuệ ! Đó gọi là tướng Pháp Phật nói pháp.

Này Đại Tuệ ! Sở tác của Phật ứng hóaứng Phật nói : Thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, ấm, giới, nhập, giải thoát, kiến lập thức tưởng sai biệt hạnh, nói tướng thứ lớp vô sắc tam ma bạt đề của các ngoại đạo. Này Đại Tuệ ! Đó gọi là Ứng Phật sở tác ứng Phật nói pháp tướng

Lại nữa, này Đại Tuệ ! Pháp Phật nói pháp là lìa khỏi phàn duyên (vin, níu vào duyên), lìa khỏi năng quán, sở quán, lìa khỏi sở tác tướng, lượng tướng. 

Này Đại Tuệ ! Chẳng phải cảnh giới của các phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác, ngoại đạo vì các ngoại đạo chấp trước hư vọng ngã tưởng. Vậy nên, này Đại Tuệ ! Như vậy nội thân tự giác tu hành thắng tướng thì phải học như vậy. 

Này Đại Tuệ ! Ông phải nên lìa khỏi tướng kiến tự tâm, lấy làm chẳng phải thật.

Lại nữa, này Đại Tuệ ! Thanh Văn thừa có hai thứ tướng sai biệt. Đó là ở nội thân chứng được Thánh Tướng, chấp trước tướng hư vọng phân biệt có vật. 

Này Đại Tuệ ! Cái gì là nội thân Thanh Văn chứng được Thánh tướng ? Là gọi cảnh giới vô thường, khổ, không, vô ngã vậy, là gọi chân đế, ly dục, tịch tịnh vậy, là gọi ấm, giới, nhập, tự tướng, đồng tướng, tướng nội ngoại bất diệt, thấy pháp như thật, được tâm tam muội, được tâm tam muội rồi được thiền định giải thoát tam muội, đạo quả Tam ma bạt đề bất thoái giải thoát, lìa khỏi chẳng thể nghĩ bàn huân tập biến dịch chết, nội thân chứng được pháp Thánh lạc hạnh, trụ ở Thanh Văn địa. Này Đại Tuệ ! Đó gọi là Thanh Văn nội thân chứng đắc Thánh Tướng. 

Này Đại Tuệ ! Đại Bồ tát vào lạc pháp tam muội nội chứng Thánh hạnh của các Thanh Văn mà chẳng thủ lấy niềm vui Tịch Diệt Không Môn, chẳng thủ lấy niềm vui Tam ma bạt đề, do thương xót chúng sinh nên khởi phát lực hạnh bản nguyện. Vậy nên Bồ tát tuy biết nhưng chẳng lấy làm cứu cánh

Này Đại Tuệ ! Đó gọi là Thanh Văn nội thân chứng thánh tu hành lạc tướng. Này Đại Tuệ ! Đại Bồ tát nên phải tu hành nội thân chứng Thánh tu hành lạc môn mà chẳng thủ trước

Này Đại Tuệ ! Cái gì là Thanh Văn phân biệt hữu vật chấp trước hư vọng tướng ? Là gọi tướng cứng, ướt, nóng, động của bốn Đại, tướng xanh, vàng, đỏ, trắng.v.v... không có tác giả mà có sinh ra, tự tướng, đồng tướng, châm chước đo lường tương ứng với A hàm hơn trước thấy khéo nói vậy. Nương vào pháp đó mà hư vọng chấp trước, lấy làm thật có. Này Đại Tuệ ! Đó gọi là Thanh Văn phân biệt hữu vật chấp trước hư vọng tướng. 

Này Đại Tuệ ! Đại Bồ tát đối với pháp Thanh Văn đó nên biết mà xả bỏ, xả bỏ rồi vào với tướng pháp vô ngã. Vào tướng pháp vô ngã rồi vào nhân vô ngã. Quan sát tướng vô ngã rồi thì thứ lớp vào các địa. Này Đại Tuệ ! Đó gọi là Thanh Văn phân biệt hữu vật chấp trước hư vọng tướng. Này Đại Tuệ ! Cái gọi là Thanh Văn thừa có hai thứ tướng thì ta đã nói xong.

Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ tát lại bạch đức Phật rằng : 

- Thưa đức Thế Tôn ! Lời nói của đức Thế Tôn thường pháp chẳng thể nghĩ bàn, pháp nội thân chứng Thánh cảnh giới, pháp thứ nhất đã nói ở trước. Thưa đức Thế Tôn ! Ngoại đạo cũng nói thường nhân quả chẳng thể nghĩ bàn. Nghĩa này là sao ?

Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát rằng :

- Này Đại Tuệ ! Các ngoại đạo nói thường nhân quả chẳng thể nghĩ bàn thì chẳng thành. Vì sao vậy ? Này Đại Tuệ ! Các ngoại đạo nói thường chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải nhân vào tự tướng tương ứng. Này Đại Tuệ ! Các ngoại đạo nói thường chẳng thể nghĩ bàn mà nếu nhân tự tướng tương ứng thì đây là những pháp gì ? Những pháp gì tỏ rõ hiện nay ? Vậy nên ngoại đạo chẳng được nói Thường chẳng thể nghĩ bàn. 

Lại nữa, này Đại Tuệ ! Các ngoại đạo nói Thường chẳng thể nghĩ bàn thì nếu nhân tự tướng tương ứng thì ứng thành vô thường chẳng thể nghĩ bàn do có tướng của nhân. Vậy nên chẳng thành Thường chẳng thể nghĩ bàn. Này Đại Tuệ ! Ta nói Thường chẳng thể nghĩ bàn Đệ nhất nghĩa. Thường chẳng thể nghĩ bàn cùng tướng Đệ nhất nghĩa tương ứng nhân quả vì lìa khỏi hữu vô, vì nội thân chứng tướng, vì có tướng đó, vì nhân tướng của Đệ nhất nghĩa trí tương ứng, vì lìa khỏi có không, vì chẳng phải sở tác mà cùng với hư không Niết bàn tịch diệt thí dụ tương ứng. Vậy nên Thường chẳng thể nghĩ bàn. Vậy nên, này Đại Tuệ ! Ta nói Thường chẳng thể nghĩ bàn chẳng đồng với luận Thường chẳng thể nghĩ bàn của ngoại đạo. Này Đại Tuệ ! Thường này chẳng thể nghĩ bàn, các đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri quả thật là thường pháp vì Thánh trí của chư Phật do nội thân chứng được, chẳng phải cảnh giới của tâm ý và ý thức. Này Đại Tuệ ! Vậy nên Đại Bồ tát nên phải tu hành Thường chẳng thể nghĩ bàn Thánh trí hành pháp sở chứng của nội thân. 

Lại nữa, này Đại Tuệ ! Thường chẳng thể nghĩ bàn của các ngoại đạo là nhân của tướng pháp vô thường tương ứng. Vậy nên nó là vô thường, chẳng phải nhân vào tướng mà được danh xưng. Vậy nên Thường pháp chẳng thể nghĩ bàn. Này Đại Tuệ ! Nếu Thường chẳng thể nghĩ bàn của những ngoại đạo thấy pháp có Không mà nói là thường do pháp đó so sánh với trí biết thì nói rằng có Thường. Này Đại Tuệ ! Ta cũng như vậy, liền nhân pháp này mà tạo tác cái thấy có không. Vô thường ứng với thường. Vì sao vậy ? Vì không có nhân. 

Lại nữa, này Đại Tuệ ! Các ngoại đạo nói, nếu nhân tưởng tương ứng thành thường chẳng thể nghĩ bàn mà do ngoại đạo kia nói, nhân tự tướng có không thì đồng với sừng thỏ. Này Đại Tuệ ! Thường này chẳng thể nghĩ bàn chỉ là các ngoại đạo.v.v... hư vọng phân biệt. Vì sao vậy ? Vì do không có sừng thỏ mà chỉ hư vọng phân biệt, tướng tự nhân không vậy. Này Đại Tuệ ! Thường chẳng thể nghĩ bàn của ta chỉ là nội thân chứng nhân của tướng, lìa khỏi pháp tạo tác hữu vô. Vậy nên Thường chẳng thể nghĩ bàn do không có ngoại tướng, thường pháp tương ứng. Này Đại Tuệ ! Các ngoại đạo.v.v... thấy không có ngoại tướng. So sánh trí biết Thường chẳng thể nghĩ bàn lấy làm thường thì ngoại đạo.v.v... kia chẳng biết Thường chẳng thể nghĩ bàn ! Tướng nhân của mình và tướng nhân của người do nội thân thánh trí chứng cảnh giới tướng vậy. Này Đại Tuệ ! Những ngoại đạo kia đối với pháp của ta chẳng nên vì họ mà nói.

Lại nữa, này Đại Tuệ ! Các Thanh Văn, Bích Chi Phật sợ sinh tử, vọng tưởng ra khổ mà cầu Niết bàn, chẳng biết thế gian, Niết bàn không có sai biệt. Họ phân biệt tất cả pháp cùng phi pháp mà diệt hết các tướng (căn), chẳng thủ lấy cảnh giới vị laihư vọng thủ lấy làm Niết bàn, chẳng biết pháp tu hành nội thân chứng, chẳng biết A Lê Gia thức chuyển vậy. Này Đại Tuệ ! Vậy nên những người ngu đó nói có pháp ba thừa mà chẳng thể biết Chỉ tâm tưởng (tướng ?) diệt thì được pháp tịch diệt (tịnh ?). Vậy nên kẻ ngu, vô trí đó chẳng biết các đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri quá khứ, vị laihiện tại tự tâm thấy cảnh giới mà chấp trước cảnh giới bên ngoài tâm. Vậy nên, này Đại Tuệ ! Người ngu si đó ở trong vòng sinh tử của thế gian, luôn chuyển chẳng trụ.

Lại nữa, này Đại Tuệ ! Tất cả các đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều nói các pháp chẳng sinh. Vì sao vậy ? Vì là tự tâm thấy pháp có, không. Nếu lìa khỏi có, không thì các pháp chẳng sinh. Vậy nên, này Đại Tuệ ! Tất cả pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ ! Tất cả pháp như sừng thỏ, sừng lừa, sừng lạc đà.v.v... Này Đại Tuệ ! Kẻ phàm phu ngu si vọng tưởng phân biệtphân biệt các pháp. Vậy nên, tất cả các pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ ! Tự thể tướng của tất cả các pháp chẳng sinh là nội thân chứng Thánh trí cảnh giới, chẳng phải là tự thể phân biệt hai cảnh giới của các phàm phu vậy. Này Đại Tuệ ! Chính là A Lê Gia thức ! Tự thể tướng của thân, đồ tư sinh, thế gian, khứ lai... thấy có thể thủ lấy, có thể chuyển lấy. Các phàm phu rơi vào sanh, trụ, diệt, tâm nhị tướng nên phân biệt các pháp, sinh ra có, không. Này Đại Tuệ ! Ông nên biết pháp như vậy.

Lại nữa, này Đại Tuệ ! Ta nói, ngũ chủng thừa tính chứng pháp. Những gì là năm ? Một là, Thanh Văn thừa tính chứng pháp. Hai là, Bích Chi Phật thừa tính chứng pháp. Ba là, Như Lai thừa tính chứng pháp. Bốn là, Bất định thừa tính chứng pháp. Năm là, Vô tính chứng pháp

Này Đại Tuệ ! Thanh Văn thừa tính chứng pháp là gì ? Nghĩa là nói pháp ấm, giới, nhập, nói pháp tự tướng, đồng tướng chứng trí, lỗ chân lông của thân đó vui vẻ hân hoan, ưa tu trí của tướng, chẳng tu tướng nhân duyên chẳng lìa nhau. Này Đại Tuệ ! Đó gọi là Thanh Văn thừa tính chứng pháp. Tà kiến chứng trí của người Thanh Văn đó lìa khỏi sự khởi dậy phiền não thô, chẳng lìa khỏi phiền não của vô minh huân tập, thấy tướng chứng của thân mình, gọi là lìa khỏi các phiền não trong sơ địa cho đến ngũ địa, lục địa. Việc lìa khỏi đồng rồi, huân tập vô minh phiền não, rơi vào chẳng thể nghĩ bàn chết biến đổi mà nói lên rằng : “Sự sống của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thọ cái có đời sau... như vậy.v.v... Ta được vào vô ngã của loài người !”. Cho đến họ phát sinh tâm cho là đã được Niết Bàn. Này Đại Tuệ ! Lại có ngoại đạo khác cầu chứng Niết Bàn mà nói lên rằng : “Giác biết ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, tác giả, thọ giả, trượng phu thì đó là Niết Bàn”. Này Đại Tuệ ! Lại có ngoại đạo khác thấy tất cả các pháp nương vào nhân mà có nên sinh tâm Niết Bàn. Này Đại Tuệ ! Những ngoại đạo đó không có Niết Bàn giải thoát do chẳng thấy pháp vô ngã. Này Đại Tuệ ! Đó gọi là Thanh Văn thừa ngoại đạo tính, ở chỗ chẳng phải ly (lìa khỏi) mà sinh ra ly tưởng (tư tưởng lìa khỏi). Này Đại Tuệ ! Ông nên chuyển tà kiến này mà tu hành hạnh như thật.

Này Đại Tuệ ! Bích Chi Phật thừa tính chứng pháp là gì ? Nghĩa là nghe nói nhân duyêngiác ngộ chứng pháp, lông toàn thân dựng đứng, buồn khóc rơi nước mắt, chẳng ưa rối rắm ồn ào. Quan sát các pháp nhân duyên, chẳng chấp trước các pháp nhân duyên, nghe nói đủ thứ thần thông của tự thân, hoặc lìa hoặc hợp đủ thứ biến hóa mà tâm ấy theo vào. Này Đại Tuệ ! Đó gọi là Duyên Giác thừa tính chứng pháp. Ông hãy nên biết thuận theo lời nói của Duyên Giác !

Này Đại Tuệ ! Như Lai thừa tính chứng pháp là gì ? Này Đại Tuệ ! Như Lai thừa tính chứng pháp có bốn thứ. Những gì là bốn ? Một là, chứng thật pháp tính. Hai là, ly thật pháp chứng tính. Ba là, tự thân nội chứng Thánh trí tính. Bốn là, ngoại chư quốc thổ thắng diệu trang nghiêm chứng pháp tính. Này Đại Tuệ ! Nếu khi nghe nói mỗi một pháp này mà chỉ tâm A Lê Gia thấy đồ tư sinh, thế gian sở y của ngoại thân, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mà chẳng kinh, chẳng bố, chẳng úy thì, này Đại Tuệ ! Ông phải biết người đó chứng Như Lai thừa tính. Này Đại Tuệ ! Đó gọi là Như Lai Thừa Tính Chứng Pháp Nhân (người) tướng.

Này Đại Tuệ ! Bất Định thừa tính chứng pháp là gì ? Này Đại Tuệ ! Nếu người nghe ba thứ pháp này mà ở trong mỗi một pháp có được niềm vui thì thuận theo vì họ nói. Này Đại Tuệ ! Nói ba thừa là vì phát khởi tu hành Địa. Nói các tính sai biệt chẳng phải cứu cánh Địa. Vì muốn kiến lập rốt ráo có thể thủ lấy địa tịch tịnh. Này Đại Tuệ! Ba thứ người đó lìa khỏi phiền não chướng, huân tập được thanh tịnh, thấy pháp vô ngã, được tam muội lạc hạnh, Thanh Văn, Duyên Giác rốt ráo được pháp thân của Như Lai vậy.

Bấy giờ, đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ rằng :

Nghịch Lưu tu vô lậu 

Vãng LaiBất Hoàn

Ứng Chúng, A La Hán 

Những tâm đó mê loàn (loạn)

Ta nói ba thừa đủ 

Nhất thừa, Phi thừa thêm

Các Thánh giải như thật

Phàm phu chẳng biết thông.

Đệ nhất nghĩa pháp môn

Xa lìa khỏi hai giáo (nhị giáo)

Với ba thừa lập nên 

Vì trụ chỗ tịch tịnh.

Vô lượng và các thiền 

Tam ma đề vô sắc

Vô tưởng định diệt hết 

Cũng đều không trong lòng.

Này Đại Tuệ ! Vô Tính thừa là gì ? Nghĩa là Nhất xiển đề. Này Đại Tuệ ! Nhất xiển đề thì không có tính Niết Bàn. Vì sao vậy ? Vì ở trong giải thoát, nhất xiển đề chẳng sinh ra tín tâm, chẳng vào Niết Bàn. Này Đại Tuệ ! Nhất xiển đề thì có hai thứ. Những gì là hai ? Một là, thiêu đốt tất cả căn lành. Hai là, thương xót tất cả chúng sinh mà tạo tác hết tất cả nghiệp của cõi chúng sinh

Này Đại Tuệ ! Sao gọi là thiêu đốt tất cả thiện căn ? Nghĩa là bài báng Bồ tát tạng mà nói lời như vậy. Những kẻ đó chẳng phải thuận theo Tu Đa La (Kinh), Tỳ Ni (Luật) giải thoát mà nói, xả bỏ các thiện căn. Vậy nên chẳng được Niết Bàn

Này Đại Tuệ ! Thương xót chúng sinh tạo tác hết nguyện của cõi chúng sinh thì đó là Bồ tát. Này Đại Tuệ ! Bồ tát phương tiện tác khởi nguyện rằng : “Nếu các chúng sinh chẳng vào Niết Bàn thì ta cũng chẳng vào Niết Bàn”. Vậy nên Đại Bồ tát chẳng vào Niết Bàn. Này Đại Tuệ ! Đó gọi là hai thứ nhất xiển đề không có tính Niết Bàn. Do nghĩa này nên quyết định chọn lấy hạnh nhất xiển đề.

Bồ tát Đại Tuệ bạch đức Phật rằng : 

- Thưa đức Thế Tôn ! Hai thứ nhất xiển đề này thì những nhất xiển đề nào là thường chẳng vào Niết Bàn ?

Đức Phật bảo Đại Bồ tát Đại Tuệ rằng :

- Nhất xiển đề thường chẳng vào Niết Bàn. Vì sao vậy ? Vì do có thể giỏi biết tất cả các pháp bản lai Niết Bàn. Vậy nên chẳng vào Niết Bàn, chẳng phải xả bỏ tất cả thiện căn xiển đề. Vì sao vậy ? Này Đại Tuệ ! Vì người đó xả bỏ tất cả thiện căn xiển đề mà nếu gặp các đức Phật, thiện tri thức.v.v... phát tâm Bồ Đề, sinh ra các thiện căn thì liền chứng Niết Bàn. Vì sao vậy ? Này Đại Tuệ ! Vì các đức Phật Như Lai chẳng bỏ tất cả chúng sinh. Vậy nên, này Đại Tuệ ! Bồ tát nhất xiển đề thường chẳng vào Niết Bàn.

 

KINH NHẬP LĂNG GIÀ 
- Quyển thứ hai hết -

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11533)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11250)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11975)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12455)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17862)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14211)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11881)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13045)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12560)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19477)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13019)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11723)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13406)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11747)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11519)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12661)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12520)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13501)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12777)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11052)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12091)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12091)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16510)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant