Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 7: Sự Khai Triển của tư Tưởng Phật Giáo và Sự Khảo Sát Về Thiền

01 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 9597)
Chương 7: Sự Khai Triển của tư Tưởng Phật Giáo và Sự Khảo Sát Về Thiền


ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN
Tác Giả: Kimura Taiken

Hán Dịch: Thích Diễn Bồi - Việt Dịch: Thích Quảng Độ
Xuất Bản: Viện Đại Học Vạn Hạnh 1969 - Phật Học Viện Quốc Tế, USA 1986

THIÊN THỨ HAI
ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO, GIÁO LÝ LUẬN

CHƯƠNG THỨ BẢY

SỰ KHAI TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG PHẬTGIÁO VÀ SỰ KHẢO SÁT VỀ THIỀN

TIẾT THỨ NHẤT: 
ÐỊA VỊ CỦA THIỀN TRONG PHẬT GIÁO.

Thiền (dhyana) hay Tam Muội (samadhi), xét về phương diện đức mục của Phật giáo, là một trong Tam-học, Bát-chính-đạo và lục-ba-la-mật, còn xét về lập trường các Tông-phái thì Thiền là một trong các tông đó. Bởi vậy về mặt tu đạo trong Phật giáo, Thiền tuy được coi như có một địa vị trọng yếu, nhưng thật thì trong các pháp môn tu niệm, Thiền cũng chỉ là một trong số đó mà thôi. Song đây cũng chỉ mới là sự quan sát trên bề mặt. Nếu tiến thêm một bước nữa mà khảo sát thì Thiền không những là một trong những đức mục Phật giáo mà ngay cơ sở của tư tưởng Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà tư tưởng Phật giáo mới được thể nghiệm hóa. Nếu Cơ-Ðốc gốa lìa bỏ phần cầu nguyện thì Cơ-Ðốc giáo sẽ không còn sự sống; cũng thế, nếu Phật Giáo ly khai Thiền quán thì Phật Giáo sẽ mất hết sinh khí.

Song tư tưởng Phật Giáo ngày một phân hóa, tuy bề trong có thói Thiền quán, nhưng bề ngoài phần nhiều chỉ chú trọng đến lý luận về giáo lý, và kết quả là Phật Giáo đã dần dần sa vào vòng học giải, còn cái sinh khí thật thì cơ hồ đã mất. Theo một ý nghĩa nào đó, ta có thể nói đây là một điều đại bất hạnh cho Phật Giáo. Câu Xá Tông thì như thế, đến như Thành Thật Tông, Pháp Tướng Tông, Thiên Thai Tông, và Hoa Nghiêm Tông cũng lại như thế. Vì tất cả các Tông phái đó khi kiến lập giáo lý làm nền tảng cho tông phái mình đều lấy Thiền quán làm điểm trọng yếu, nhưng không phải thực tiễn Thiền mà là giáo tướng Thiền, chỉ thiên trọng về mặt luận lý nên đã trở thành những lý luận tông, và mất hẳn ý nghĩa thực tu về đặc chất của Thiền. Nếu không có sự tu hành về tứ Thiền, tứ vô sắc định thì đã chẳng có Câu Xá Tông; không có Ngũ Trùng Duy Thức Quán, thực tiễn thì không có Pháp Tướng Tông; không có Nhị Ðế Tông Quán thực tu thì Tam Luận Tông đã chẳng ra đời nếu không có sự thực nghiệm về chỉ quán thì Thiên Thai Tông sẽ mất hế sinh khí. Thiền Tông tuy lấy việc khôi phục lại tinh thần cố hữu của nó làm nhiệm vụ, nhưng cho tới ngày nay cũng vẫn thế, duy chỉ chú trọng đề xướng những vấn đề tổ truyền hoặc giảng giải về phương pháp ngồi Thiền mà quên hẳn cái trọng yếu tính của sự ngồi Thiền, và kết quả cũng chẳng khác học giải Phật pháp một chút nào cả.

Tóm lại, Phật giáo chân truyền-thể nghiệm Phật giáo_trước sau vẫn còn năm trong Thiền hay Tam Muội; tất cả sự tổ chức giáo lý đều phát xuất từ Thiền, do đó về mặt thực tu cũng như về mặt lý giải pháp luật, nếu muốn được hoàn toàn, chúng ta không thể không phát kiến cái thỏa đáng tính tối hậu của Thiền.

Không có thực tu, thực chứng mà nói về Thiền thì chẳng khác nào một lũ xẫm rờ voi. Chính tôi cũng thuộc hàng ngũ đó. Nhưng ở đây, trên cương vị một học đồ muốn tìm hiểu tư tưởng Phật giáo một cách chính xác, tôi mạo muội nói lên quan điểm của mình về vấn đề này.

TIẾT THỨ HAI: 
THIỀN QUÁN : MẨU THAI CỦA GIÁO LÝ.

Trước hết xin nói rõ về lý do tư tưởng Phật giáo được thành lập do kết quả của cuộc khảo sát về Thiền. Thật ra, không phải chỉ riêng Phật giáo mới lấy sự khảo sát về Thiền làm bối cảnh để thành lập tư tưởng, mà nói chung, tư tưởng Ấn Ðộ thời đại Áo-Nghĩa-Thư trở về sau (800-600 tr. TL) đều lấy nội quán, tức là Du Dà (Yoga-tương ứng) làm phương pháp quan sát để phát kiến và thể nghiệm chân lýtiến triển. Sự khảo sát về Thiền trong Phật giáo cũng xuất phát từ cái học phong nhất ban đó. Ở đây tôi sẽ không đề cập đến cái học phong nhất ban ấy, mà chỉ đứng riêng về lập trường Phật giáo để tìm hiểu mối quan hệ giữa sự khảo sát về Thiền và tư tưởng Phật giáo mà thôi. Nhưng có điều trọng yếu tôi xin nhấn mạnh là: tư tưởng Phật giáo, trên bề mặt, dù có hợp lý đến đâu đi nữa cũng quyết không phải chỉ lý luận hoặc cái biết ấy làm mục tiêu cốt tủy thì mới mong thấu suốt một cách triệt để tư tưởng Phật giáo, nhất là tư tưởng Thiền. Nếu thật sự thể nghiệm hóa đó, ta sẽ không bao giờ thấy được bản chất của Thiền.

Về tính chất, Thiền có hai phương diện: tiêu cực và tính cực. Về mặt tiêu cực, hành giả phải ngăn ngừa cảm giác, ức chế biểu tượng, trừ bỏ tất cả mọi vọng niệm, tạp nhiễm; về mặt tích cực, thống nhất tinh thần, triệt để tập trung vào sức chú ý, chuyên tư duy về một vấn đề (công án) nào đó để cuối cùng đi tới sự dung hòa với toàn ý thức. Nói theo thuật ngữ thì mặt tiêu cực gọi là "Chỉ" (sammatha), mặt tích cực gọi là "quán" (vipasyana), mà lập trường của Phật giáo là lấy sự quân bình của Chỉ, Quán làm phương pháp trọng yếu để phát kiến và thể nghiệm chân lý. Nghĩa là nhờ có Chỉ mà ngăn ngừa được tình cảm, không để cho tình thân vấn loạn, dao động, đồng thời, có được cảm giác phong khoáng mà không bao lâu sẽ tiến tới một trạng thái hỷ duyệt. Nhờ có Quán mà làm quan niệm nội dung nhất trí, không còn sự khu biệt về nội, ngoại, không còn sự đối lập về chủ quan khách quan, toàn vũ trụ là một công án suy nhất, và lúc đó hành giả sẽ cảm thấy chân lý xác thực là căn cứ tâm lý cốt tủy của mình. Bởi vậy, đứng trên lập trường của Phật giáo mà nói thì lý luận dù có tinh nhuệ đến đâu, lý tưởng dù có cao thượng đến bao nhiêu chẳng qua cũng ngừng ở phạm vi tri thức, tất kính chỉ là một thứ đồ án mà thôi. Dù lấy đồ án đó làm nền tảng rồi nhờ vào phương pháp Chỉ-Quán, nhưng nếu không triệt để dụng công hoán chuyển nội tâm thì quyết không thể cụ thể hóa đồ án đó được. Không những thế mà đến cái gọi là tám vạn bốn nghìn pháp môn cũng sẽ biến thành bánh vẽ nếu ta không dụng tâm cải tạo nội tâm ta. Ðây cũng là lý do chính tại sao tư tưởng phật giáo không phải đơn thuần lý luận, và Phật giáo không phải chỉ là một tôn giáo lấy sự cầu cúng làm mục tiêu sinh tồn vậy.

TIẾT THỨ BA: 
NỘI DUNG CỦA THIỀN.

Ðến đây vấn đề được nêu lên là: nội dung Thiền quán của Phật giáo như thế nào? Tuy cũng gọi là Thiền, nhưng ngoại đạo Thiền, Phật giáo Thiền, Tiểu Thừa Thiền, Ðại Thừa Thiền… có những phương pháp quán tưởng khác nhau chứ không phải đồng nhất. Vấn đề này mới nhìn qua tuy có vẻ rất đơn giản, nhưng thật thì nó phức tạp. Và đối với sự triển khai của tư tưởng Phật giáo nó cũng quan hệ rất mật thiết.

Trước hết, đứng trên lập trường bình phàm mà nói thì nội dung Thiền quán của Phật giáo đã xuất phát từ sự tự ngộ và thuyết giáo của đức Phật, nghĩa là theo thủ tục tư duy của Phật đã thể nghiệm rồi đem áp dụngthực hành chỉ, quán, đó là khóa trình chính yếu của sự khảo sát về Thiền. Song căn cứ vào lịch sử thì sự tự ngộ của Phật được thành tựu do công phu Thiền quán dưới gốc Bồ Ðề, về điểm này những hình tướng khác nhau trong Thiền quán Phật giáo của hậu thế vị tất miêu tả Tam Muội lịch sử của Phật, mà phần lớn có thể được coi là kết quả sáng tạo của các nhà tu Thiền quán sau này. Bởi vậy khi khảo sát về nội dung Thiền quán Phật giáo, nếu không đề cập đến cái nguyên động lực sáng tạo đó thì không thể nói là hoàn toàn được, vấn đề này nếu suy cứu cho cùng thì hết sức phức tạp, ở đây tôi xin chia ra ba đoạn để khảo sát.

Thứ nhất, liên quan đến cái gọi là nguyên động lực toàn thể, nghĩa là khi ngồi Thiền để niệm nội dung nhất định thì tại sao lúc đó có dược trạng thái "pháp hỷ Thiền duyệt (khoái cảm tâm linh)"? Ðây là sự khảo sát có liên quan đến căn cứ tâm lý. Nếu nói một cách đơn giản thì có được trạng thái đó là do hai yếu tố tạo thành: sự mong muốn về sinh mệnh vĩnh viễn và nhu cầu giải thoát. Ðiểm này, như sẽ được trình bày sau, là căn đề của mọi tôn giáo. Nhất là Ấn Ðộ, tất cả mọi tư tưởng từ thời Áo Nghĩa Thư trở về sau, đều lấy hai yếu tố lớn trên đây làm nền tảng. Nếu truy cứu đến nguồn gốc của nó thì Thiền quán Phật giáo cũng sẽ được trình bày sau-trên đại thể, yêu cầu giải thoát tuy là nguyên động lực mạnh mẽ, nhưng sự mong muốn một sự sống vĩnh viễn cũng đã dần dần trở thành một yếu tốcường lực không kém. Do đó, mà nội dung Thiền quán, ít ra cũng trên bề mặt có nhiều chỗ bất đồng. Ðây là điểm ta cần ghi nhận nếu ta muốn hiểu rõ nội dung Thiền quán của Phật Giáo

Thứ hai: chính cái nguyên động lực trên đã cấu tạo thành nội dung Thiền quánhình thức biểu hiện của đức Phật đã là điểm xuất phát của Thiền quán Phật Giáo.

Theo truyền thuyết thì đức Phật ngồi tư duy dưới gốc cây Bồ Ðề và kết quả cuối cùng đã đưa Ngài đến giác ngộ thành Phật. Nhưng cái nội dung đó như thế nào? Ðứng trên lập trường tự nội chứngnhận xét thì đây là một sự thần bí trong thần bí, là cái cảnh giới mà người ngoại cuộc không thể biết được, duy chỉ có Phật với Phật mới hiểu được mà thôi, nhưng đức Phật không chỉ ngừng ở tự nội chứng mà lại đưa ra một hình thức nhất định để biểu hiện nội dung ấy: đó là cái mà mọi người đều biết như tứ đế quan, Thập-nhị-nhân-duyên-quan, Tứ-niệm-xứ-quan, Tứ-vô-lượng-quan... đã trở thành những đầu đề thuyết pháp trọn một đời. Cũng vì thế mà Thiền quán Phật giáo sau này, bất luận là hình thức hay nội dung, tất cả đều lấy những đề mục của Phật nói trên đây làm tiêu chuẩn, căn cứ vào lời Phật nói mà quy định.

Thứ ba: đứng về mặt hình thứcnhận xét thì như đã nói ở trên, giáo lý của Phật giáo nêu ra cùng với nội dung Thiền quán mà các đệ tử tu tập cần nhất trí. Trên nguyên tắc, cái gọi là "Giáo, Thiền nhất trí" chính điểm này. Song ở đây, đối với sự quan hệ giữa nội dung Thiền quánGiáo lý biểu hiện chúng ta lại cần phải khảo sát sâu rộng hơn nữa. Lấy Thiền-quán làm bản vị thì giáo lý biểu hiện, vì là phiên dịch, nên giữa giáo lý và nguyên điển không phải đã hoàn toàn nhất trí, ta cần phải kiểm tra lại. Ðó là lập trường "Giáo, Thiền nhất trí". Nhưng thực ra đây chỉ là một sự đòi hỏi thôi, trên thực tế, không những không nhất trí mà còn có nhiều điểm bất đồng vì những lẽ sau đây:

a)_Nội dung của Thiền quán trước sau vẫn là sự thể nghiệm tự nộ chứng, nói cho cùng thì ngoài bản thân người thể nghiệm ra không một phương pháp nào khác có thể diễn tả một cách chính xác được. Bởi vậy khi đem phiên dịch nó để mà giáo lý hóa, tổ chức hóa, thì bất luận thế nào đi nữa, trên bề mặt, cũng không thể tránh khỏi sự thêm thắt về ý nghĩa kinh nghiệm, Do đó mà nội dung chân thật cũng bị ảnh hưởng.

b)_Giữa những nhà giải thích về giáo lý, trên đại thể, tuy lấy sự nhất trí làm nguyên tắc, nhưng nếu chuyển sang lĩnh vực Thiền quán, thì các nhà Thiền-quán nhờ vào nguyên động lực sáng tạo cùng kết hợp, đôi khi có những linh cảm nội dung khác hẳn với phần giáo lý biểu hiện. Ðó là trường hợp rất thông thường.

c)_Tứ đế quan, Duyên khởi quan, Tứ niệm xứ quan, Tứ vô lượng quan tuy được cho là vì nội dung Thiền quánquy định, nhưng khi được mở rộng vì đã trở thành một mô hình, nên khi được áp dụng vào Thiền-quán thì không phải lấy toàn bộ mà chỉ dùng một bộ phận làm công án cụ thể mà thôi. (Chẳng hạn Duyên-khởi quan: do thức mà có danh sắc, do danh sắc mà có thức, lấy đó làm công án độc lập, trong tứ niệm xứ quan thì lấy tâm vô thường làm một công án: trong tứ vô lượng quan thì Từ quán hay hỷ quán làm công án). Cũng vì thế mà về mặt giáo lý biểu hiện ta thấy nhiều khi một bộ phận của nội dung Thiền quán được đề cao, đó là lẽ tất nhiên.

Vì ba lý do trên đây nên giữa nội dung Thiền-quán của các đệ tử vào giáo lý biểu hiện của Phật, trên nguyên tắc thì tuy cần phải có sự nhất trí, nhưng trên thực tế, về trình độ rộng, hẹp, nông, sây hay về phương pháp biểu hiện hóa, không nhiều thì ít đã phát sinh những điểm bất đồng về nội dung Thiền-quán đó lại được các đệ tử mang ra để biểu hiện hóa, giáo lý hóa, để bắt đầu việc tổ chức giáo lý sơ khởi thì ít ra về mặt giải thích không thể nào tránh khỏi một vài sự thay đổi, đó cũng lại là lẽ tất nhiên vậy.

Như thế là giáo lý biểu hiện đã bị sức Thiền-quán đưa đẩy dần dần đến chỗ phân hóa, phức tạp, để rồi cuối cùng đã tiến đến độ khai triển về mọi phương diện, nhất là Ðại Thừa cho ta thấy rõ điểm này hơn hết, vì Đại Thừa coi trọng sáng tạo hơn truyền thống. Thí dụ: không quán của Bát-Nhã là kết quả của sự quan sát về Duyên-khởi quan của Phật Giáo Nguyên Thủy. Rồi vô tận Duyên-khởi quan của Hoa-Nghiêm thì lại điều hòa mà theo biểu hiện trực quán, cho đến Phật thân quan, Tịnh độ quan lấy hai quan niệm trên làm bối cảnh, tất cả đều là kết quả của những linh cảm đạt được trong Tam muội. Ðó là tất cả những dự kiện mà ta thấy trong kinh điển. Cũng vì thế mà Thiền quán đã được giáo lý hóa, tổ chức hóa và nhất nhất đều có một lập trường tông phái riêng.

Tóm lại, đến Ðại Thừa tuy Phật giáo đã bị phân hóa nhiều, nhưng có thể nói đến đây những quan niệm về Tam Muội cũng đã phát triển và nội dung Thiền quán cũng đã dần dần được giáo lý hóa.

Thế là lấy Thiền làm trung tâm, Giáo lý Phật giáo đã triển khai để rồi dần dần đã đi đến biến hóaphức tạp. Mà nguyên động lực của sự biến hóa đó chủ yếu là do sức sáng tạo tiềm tàng trong Thiền-định Tam Muội mà trong đó "yêu cầu giải thoát" và sự " mong muốn một sinh mệnh vô hạn" tuy không hỗ tương liên hệ, nhưng có khi tác dụng mạnh về một mặt để hoặc trở thành giáo lý Chân-Không hoặc trở thành sự quan sát về Diệu-Hữu. Ðó là những lý do có thể nói đã khiến cho Phật giáo đồng nhất chia thành nhiều tông phái.

TIẾT THỨ TƯ: 
SỰ PHỔ BIẾN HÓA CỦA NỘI DUNG THIỀN QUÁN.

Ðến đây, vấn đề được đặt ra là: nội dung Thiền quán, tức là điểm khế cơ của Tam Muội. Khi được biểu hiện hóa và giáo lý hóa như thế nào? Vì bất luận ở Tam Muội nào, ngay trong đó tuy là một thế giới độc lập, nhưng nhận xét từ bề ngoài thì đó mới chỉ là sự thể nghiệm cá nhân chủ quan. Chứ chưa có được thỏa đáng tính khách quan. Tam Muội của Ca-Diếp, A-Nan không biết. Nhưng khi trao truyền đạo lý đó cho người khác, chẳng hạn ta mãn túc thì cũng làm cho người khác cũng mãn túc, ta giải thoát cũng làm cho người khác được giải thoát , thì đại khái nhất ban đều phổ thông. Tuy nhiên nếu đem cái nội dung Tam Muội đó mà giáo lý hóa thì cần phải có một thỏa đáng tính cho tất cả. Ðó là một lập trường mới là nguyên động lực khiến cho các Tông phái mới hưng khởi, và là điểm mà các nhà tổ chức giáo lý rất mong đạt đến. Mà phương pháp đó tuy có nhiều, nhưng tôi tưởng nên đứng tên ba lập trường sau đây để quan sát: Thứ nhất, khách quan hóa nội dung Tam Muội, nghĩa là coi nội dung đó như một biệu tượng hoặc tư niệm của sự thật. Khi nội dung đó được coi là chủ quan thì tuy nó là của riêng cá nhân, nhưng khi nó được biểu tượng hóa, sự thực hóa. Thì tư niệm cá nhân cũng phải đứng trên cơ sở cộng thông của toàn thể: có như thế nó mới có được phổ-biến-tính thỏa đánggiá trị Thế-giới-quan hoặc Tịnh độ quan của Phật Giáo đại khái cũng đã do sự kinh quá ấy mà được cấu tạo. Lấy tâm thái Thiền làm cơ sở để lập thành thuyết Tam-giới: Dục-giới, Sắc-giới, Vô-sắc-giới là do sự quan chiếu về Bát-chu Tam Muội (pratyutpanna Samadhy_Phật hiện tiền Tam Muội ); còn Phật và Tịnh Ðộ thì do cái gọi là "chỉ phương lập hướng" như Tây-phương-Tịnh-độ ở một phương hướng nhất định làm sự tồn tại khách quan.

Thứ hai, đem nội dung Thiền quán thiết lập thành tổ chức về mặt lý luận, đây là điều vô cùng khó khăn. Vì lẽ về phương diện đối tượng thì như Chân-Không quan, Chân-như quan và Pháp-giới quan thật khó mà biểu tượng hoá được. Tại sao? Vì đặc sắc của Thiền quán, trong giai đoạn kinh quá, tuy có lúc phải suy lý, nhưng đến chỗ chung cự thì nó vượt hẳn ra ngoài vòng suy lýtư lự, chỉ nhờ vào trực quán mà khế hợp với chân lý. Do đó mà trong giáo lý của Phật Giáo, Thiền quán được mệnh danh là "Hiện tượng trí" (kinh nghiệm trực tiếp).

Nhưng cái kinh nghiệm nội tại trực tiếp đó, về tính chất, duy chỉ có bản thân người thể nghiệm được nó là thỏa đáng, bởi thế khi nhất ban hóa nó thì trên căn bản lý luận, ít ra theo một thuận tự nào đó cũng cần phải cho nó một nguyên tắc tư duy. Ðó tức là điểm khế cơ khai triển của triết học Phật giáo. Thí dụ như thuyết "Không" của Trung luận là muốn đứng lên Biện-chứng-luận để thuyết minh; như Duy-thức-luận lấy A-lại-da-thức làm trung tâm để rồi muốn đứng lên nhận thức luận mà khảo sát vạn hữu; rồi đến khởi-tín-luận thì lấy Chân-như làm trung tâm mà muốn theo lập trường Bản-thể-luận (Bán nhận-thức-luận) để thuyết minh thế giới.

Tất cả những hình thức trên đây tuy có vẻ như thuần luận lý, nhưng thật ra đó là chân lý do thể nghiệm của Thiền mà trực quán rồi đem lý luận hóa theo hình thức khác nhau mà thôi.

Thứ ba, nhất ban hóa phương pháp lấy tâm truyền tâm. Có thể nói phương pháp này là hình thức phổ biến nhất. Vì từ xưa các nhà tu Thiền quán, sau khi thể nghiệm được chân lý, muốn truyền cho đệ tử, đều áp dụng phương pháp trực tiếp là làm cho đệ tử cũng thể nghiệm được chính mình. Nhưng người đem nội dung của Thiền để thực tại hóa, tuy có đặt ra những phương thức luận lý nhưng đó chẳng cũng chỉ nói rõ cái đồ án và cái hành đạo mà thôi. Còn như sự thể nghiệm bản thân thì thất ra, như đã nói nhiều lần. Không thể nào thuyết minh hay luận lý và cái phương pháp thỏa đáng hơn cả mà thấy có thể dùng để trao truyền chân lý cho đệ tử là phương pháp" lấy tâm truyền tâm". Chính phương pháp này không những chỉ là lập trường căn bản của Thiền-Tông , mà nó còn thông cả Ðại Thừa, Tiểu Thừa, đó là một sự thật hiển nhiên. Duy có điểm đặc biệt là: Thiền-Tông lấy Bát-Nhã làm bối cảnh nên phương pháp lấy tâm truyền tâm được ứng dụng một cách triệt để.

Như vậy thì trong ba phương pháp trên đây nên căn cứ vào phương pháp nào? Có khi phải ứng dụng cả ba phương pháp, vì giáo lý Phật Giáo từ nội dung Tam Muội cá nhân biểu hiện thành hình thức tổ chức thì cả về nhận thức sự thật lẫn tổ chức lý luận, giáo lý Phật Giáo hiển nhiên đã được thành lập trên cơ sở đó. Lúc đầu thì Tam Muộicăn bản của giáo lý, nhưng về sau, trái lại Tam Muội được qui định bởi những quỹ phạm của giáo lý. Song đến đây sự tổ chức giáo lý tuy đã đến giai đoạn thể nghiệm hóa Thiền-quán, nhưng vì sự thể nghiệm hóa ấy có tính cách cá nhân chủ quan nên không nhiều thì ít, Tam Muội đã bị thêm thắt, đó cũng là lẽ tự nhiên. Và chính cũng vì muốn đem những sự sáng tạo chủ quan đó biểu hiện thành giáo lýhiện tượng tông phái đã nảy sinh. Tuy nhiên, tư tưởng Phật Giáo, như đã nói ở trên, nhờ có trải qua những giai đoạn như thế mới được phát triển và tiến bộ.

TIẾT THỨ NĂM: 
THIỀN QUÁNPHƯƠNG PHÁP NHẬN THỨC
.

Phật Giáo dùng sự khảo sát về Thiền để thể nghiệm và nhận thức chân lý, vậy nhiệm vụ khảo sát Thiền phải như thế nào? Tôi tưởng ở đây nên nói rõ đặc chất của tư tưởng Phật giáo.

Như chúng ta đều biết, Thiền là một phương pháp trực quán thần bí; ý nghĩa chung cực của Thiền là chỉ dương hết thảy mọi kinh nghiệm, trực tiếp dùng trí tuệ nội tâm mà đạt quan chân tướng của thật tại, do đó không thể nội tâm mà đạt chân tướng của thật tại, do đó không thể dùng phương pháp thuyết minh giáo nghĩa học mà khoả sát về Thiền được. Ðường lối duy nhất để khảo sát Thiền là sự triệt ngộ tâm tính.

Bây giờ xin nói qua đến lập trường của Phật Giáo về vấn đề này. Tự-Ngã quan, tâm tính quan, sinh mệnh quan của Phật Giáo tuy có nhiều cách nhận xét, nhưng bất luận là cách nào, trên lập trường thực tiễn, chỗ lập cước căn bản vẫn là: "trước hết phải diệt trừ cái cố chấp về bản ngã nhỏ nhen của ta, rối từ đó mở rộng ra một chân trời ( tâm cảnh) tự do phóng khoáng".

Ðể làm căn cứ thật sự cho việc xả trừ ngã chấp đó, Phật Giáo chủ trương Vô-ngã-luận. Duyên-khởi-luận; để biểu hiện cái tâm tự do kia, Phật Giáo dùng nhiều danh từ chuyên môn: hoặc gọi nó là không, là Như-Lai Tạng, là Niết-bàn là Phật tính, hoặc là Thường-lạc-ngã-tịnh. Chung quy, tất cả những danh từ trên đây chỉ là sự phiên dịch khác nahu của hai câu: "ly niệm cảnh giới, duy chứng tương ứng". Tôi gọi sự sinh hoạt của Tiểu-Ngã chấp là tiểu sinh mệnh (hay Tiểu-Ngã), và gọi cái đương thể của sự đã phá Tiểu-Ngã chấp là sinh mệnh tuyệt đối ( hay Ðại Ngã). Tóm lại, những quan niệm trên đây đại biểu cho hai phương diện sinh hoạt tinh thần của chúnh ta. Nhìn qua Thiền hay Tam Muội của Phật Giáo, ta thấy nó hoàn toàn liên quan đến điểm này. Mặt tiêu cực, tức là phương diện "chỉ" đả phá tiểu ngã chấp; mặt tích cực, tức là phương diện "quán" về nội dung, tuy giả hiện nhiều biểu tượng, nhưng kết quả cuối cùng vẫn lấy một cái gì nhất trí, bất khả tư nghị làm mục tiêu tối cao. Duy khi phiên dịch cái đó ra thì, như trên vừa nói, hoặc gọi là không, Niết-Bàn, cho đến Ðai-nhật. A-di-đà, tuy có nhiều tên khác, nhưng về bản chất, nó không ngoài sự khai phát của tự thể tâm tính, không ngoài sự hoạt động linh diệu, tự do của tự thể sinh mệnh. Lấy sự khảo sát về Thiền làm trung tâm để triển khai, tư tưởng Phật giáo tất kính không ngoài việc quy định cái quan hệ giữa Tiểu-sinh-mệnh ( sinh-mệnh hiện thực) và sinh mệnh tuyệt đối nhu thế nào, và đem ứng dụng vào tổ chức Thiền như thế mà thôi.

Song, nếu luận như thế thì lập trường của Phật Giáo cũng giống như lập trường của các phái Số-Luận và Phệ-đàn-đa hay sao? Ðó là một nghi vấn tất nhiên. Mục tiêu của phái Phệ-đàn-đa (Vedanta) và phái số luận (Samkhya) là diệt bỏ cái ta giả tạm để trở về với cái ta chân thật. Mà phương pháp để thực hiện điều đó là Du-già (yoga), tức Thiền-quán, như vậy cũng giống hệt như Phật Giáo. Về vấn đề này, tôi tưởng nên nêu ra hai điểm dưới đây để phân biệt đặc chất của tư tưởng Phật Giáo.

Thứ nhất, Số Luận và Phệ-đàn-đa coi sinh mệnh tuyệt đối là "Thể", còn Phật Giáo thì coi là "Dụng". Ðó là điểm bất đồng giữa Phật Giáo, Số Luận và Phệ-đàn-đa.

Thứ hai, Số Luận và Phệ-đàn-đa vì an trụ vào sinh mệnh tuyệt đối sinh mệnh lý tưởng _nên đối với sinh mệnh hiện thực không quan hệ gì cả. Về mặt biểu tượng tuy có tích cực hoá sinh mệnh tuyệt đối, nhung về mặt sinh hoạt thì lại rất tiêu cực. Còn Phật Giáo vì coi sinh mệnh tuyệt đối là dụng, nên về mặt biểu hiện sự hoạt dụng đó nếu không thông quá sinh mệnh hiện thực thì không thể nào thực hiện được. Ðứng trên lập trường này mà nhận xét thì: về phương diện hướng thượng; phủ định mọi sinh hoạt hiện thực, nhưng về phương diện hướng hạ lại muốn đưa ra một ý nghĩa mới. Ðạo lý đó đã biểu hiện ngay trong chính nhân cách của Phật, và về phương diện Giáo lý thì Ðại Thừa đặc biệt chủ trương. Chẳng hạn như giai đoạn Thập-địa-Bồ-Tát khi đã hoàn thành được ngôi thứ tám Bình đẳng giới (cảnh-địa của sinh mệnh tuyệt đối), nếu lại không chuẩn bị đem thích ứng với sai biệt giới ngôi thứ chín (sinh hoạt hiện thực) thì không thể nào thành tựu được quả vị Phật. Tức cũng như tín ngưỡng "Vãng sinh Tịnh độ" thì trong tướng "Vãng" (trở về với sinh mệnh tuyệt đối) cần phải có tướng "hoàn" (trở lại sai biệt giới)... Tóm lại, tất cả các phái Ðại Thừa, bất luận dưới hình thái nào, đều chủ trương từ Bình-đẳng giới trở lại sai biệt giới. Ở các phái Số Luận, du-già và Phệ-đàn-đa người ta không thể tìm thấy ý tứ đó. Ta có thể nói đây là điểm pháp huy đặc biệt của Phật Giáo.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11632)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11957)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11104)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11342)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12556)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10764)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17975)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11725)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9946)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15338)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11239)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11999)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12405)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11183)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10603)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13168)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14837)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12676)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16571)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19661)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13106)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12662)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12252)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11843)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10899)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13521)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11947)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11632)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12764)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14514)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12613)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13625)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9863)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11163)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9078)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13044)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10298)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12187)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15309)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16609)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12214)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11472)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14267)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19698)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14149)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24606)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10680)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant