Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

03. Quyển Thứ Ba

16 Tháng Năm 201000:00(Xem: 5777)
03. Quyển Thứ Ba

KINH NHẬP LĂNG GIÀ
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy 
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

 

Quyển thứ ba

 
PHẨM THỨ BA : TẬP NHẤT THIẾT PHẬT PHÁP

 

 II- Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ tát phải giỏi biết ba pháp tự thể tướng. Này Đại Tuệ! Những gì là ba pháp tự thể tướng? Một là, hư vọng phân biệt danh tự tướng. Hai là, nhân duyên pháp thể tự tướng tướng. Ba là Đệ nhất nghĩa đế pháp thể tướng. 

 Này Đại Tuệ! Hư vọng phân biệt danh tự tướng là gì? Nghĩa là từ danh tựhư vọng phân biệt tất cả pháp tướng. Đó gọi là hư vọng phân biệt danh tự tướng. 

 Này Đại Tuệ! Nhân duyên pháp thể tự tướng tướng là gì? Này Đại Tuệ! Nhân duyên pháp thể tự tướng tướng là từ việc cảnh giới sinh ra. Này Đại Tuệ! Nhân duyên sự tướng cảnh giới của pháp thể mà các đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nói hư vọng phân biệt sai biệt có hai thứ. Những gì là hai thứ? Một là, vọng chấp danh tự hí luận phân biệt. Hai là, vọng chấp danh tự tướng phân biệt sự tướng của cảnh giới tướng

 Này Đại Tuệ! Vọng chấp danh tự tướng, sự tướng của cảnh giới tướng là gì? Tức là nội ngoại pháp đó tự tướng đồng tướng. Này Đại Tuệ! Đó gọi là nhân duyên pháp thể hai thứ tướng tự tướng do nương vào pháp đó để quan sát pháp đó sinh ra. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Nhân duyên pháp thể tự tướng tướng. 

 Này Đại Tuệ! Đệ nhất nghĩa đế pháp thể tướng là gì? Nghĩa là các đức Như Lai lìa khỏi danh tự tướng, cảnh giới tướng, sự tướng tướng mà Thánh trí tu hành cảnh giới hành xứ. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Đệ nhất nghĩa đế tướng, tâm của chư Phật Như Lai tạng.

 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn một lầ nữa nói kệ rằng :

 Việc phân biệt danh, tương

 Và pháp có hai tướng

 Chánh diệu tướng Chân như

 Là Đệ nhất nghĩa tướng.

 Này Đại Tuệ! Đó gọi là quan sát năm pháp tự tướng pháp môn, tướng các đức Phật Bồ tát tu hành nội chứng cảnh giới. Ông và các Bồ tát nên học như vậy.

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ tát cần phải giỏi quan sát hai tướng vô ngã. Những gì là hai thứ? Một là, nhân (người) vô ngã trí. Hai là, pháp vô ngã trí

 Sao gọi là nhân vô ngã trí? Nghĩa là lìa khỏi ngã, ngã sở của ấm, giới, nhập gom tụ cùng vô trí, nghiệp, ái, sinh. Nương vào mắt, sắc.v.v... hư vọng, chấp trước, tự tâm hiện thấy tất cả các căn, đồ dùng, thân, nhà cửa... Tự tâm phân biệt phân biệt, phân biệt phân biệt nhận thức như dòng sông chảy, chủng tử (hạt giống), đèn, ngọn lửa, gió, mây.... từng niệm từng niệm đắp đổi trước sau sai khác, chuyển động vội vàng như khỉ vượn, như ruồi nhặng.v.v... ưa thích nơi cảnh giới bất tịnh, không chán đủ như lửa. Nhân huân tập cảnh giới hí luận từ vô thỉ đến nay giống như cơ quan con lăn bánh xe. Ở trong ba cõi sinh ra đủ thứ sắc, đủ thứ thân như huyễn hóa khởi lên hão huyền

 Này Đại Tuệ! Như vậy quan sát các pháp tướng bằng trí phương tiện khéo léo thì đó gọi là giỏi biết tướng nhân vô ngã trí cảnh giới

 Này Đại Tuệ! Pháp vô ngã trí là gì? Nghĩa là như thật phân biệt tướng ấm, giới, nhập. Này Đại Tuệ! Bồ tát quan sát ấm, giới, nhập.v.v... vô ngã, ngã sở. Ấm, giới, nhập gom tụ nhân sợi dây nghiệp ái đắp đổi trói buộc chung nhau, nhân duyên sinh ra nên không ngã, không tác giả. Này Đại Tuệ! Ấm, giới, nhập.v.v... lìa khỏi tướng đồng, tướng khác, nương vào tướng chẳng thật mà phân biệt được danh. Kẻ phàm phu ngu si vọng tưởng phân biệt lấy làm có, chẳng phải người chứng thật thấy mà lấy làm có. Này Đại Tuệ! Bồ tát như vậy quan sát tâm ý, ý thức, thể tướng năm pháp, tất cả lìa khỏi nên các nhân duyên không. Đó gọi là giỏi biết tướng cảnh giới vô ngã trí của các pháp. 

 Này Đại Tuệ! Bồ tát giỏi biết các pháp vô ngã rồi, quan sát Chân Như, tu tịch tịnh hạnh thì chẳng bao lâu sẽ được Hoan Hỷ địa đầu tiên. Giỏi có thể quan sát Hoan Hỷ địa rồi thì như vậy các Địa theo thứ lớp chuyển đổi sáng tỏ, cho đến được chứng Pháp Vân địa. Bồ tát trụ ở Pháp Vân địa đó rồi thì vô lượng nhưng báu xen lẫn trang nghiêm, rồi cảnh giới huyễn của nghiệp sinh ra cung điện đại bảo với vương tòa hoa sen lớn như thật mà ngồi lên trên tòa ấy, được tất cả Phật tử đồng hành.v.v... cung kính vây quanh, được các đức Phật mười phương đưa tay quán đảnh trao cho Phật vị như vua Chuyển Luân làm lễ quán đảnh thái tử, qua khỏi địa vị Phật tử. Qua khỏi địa vị Phật tử rồi quan sát các Phật pháp, đúng như thật tu hành, ở trong các pháp mà được tự tại. Được tự tại rồi thì gọi là được pháp thân Vô Thượng Như Lai vì thấy pháp vô ngã vậy. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Như thật pháp vô ngã tướng. Này Đại Tuệ! Ông và các Bồ tát nên học như vậy.

 Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát lại bạch đức Phật rằng : 

 - Thưa đức Thế Tôn! Tướng bài báng có không, nguyện xin đức Thế Tôn vì con nói ra! Thưa đức Thế Tôn! Con và các Bồ tát Mahatát nếu nghe được thì lìa khỏi tà kiến có không, mau chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rồi thì lìa khỏi sự kiến lập tà kiến đoạn thường và liền có thể kiến lập chánh pháp của chư Phật.

 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại nhận lời thỉnh của Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ tát rồi mà nói kệ rằng :

 Trong tâm không đoạn trường

 Thân, tư sinh, trụ xứ...

 Chỉ lòng, không trí thông

 Không vật mà thấy có.

 Bấy giờ, đức Thế Tôn, đối với ý nghĩa kệ này, lại một lần nữa tuyên nói mà bảo Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát rằng : 

 - Này Đại Tuệ! Có bốn thứ tướng bài báng kiến lập. Những gì là bốn? Một là, tướng kiến lập chẳng phải có. Hai là, tướng kiến lập chẳng phải Chánh kiến. Ba là, tướng kiến lập chẳng phải có nhân. Bốn là, tướng kiến lập chẳng phải có thể. Này Đại Tuệ! Đó gọi là bốn thứ kiến lập.

 Này Đại Tuệ! Tướng bài báng là gì? Này Đại Tuệ! Quan sát sự kiến lập pháp của tà kiến chẳng thấy thật tướng liền bài báng các pháp mà nói rằng, tất cả không. Này Đại Tuệ! Đó gọi là kiến lập báng tướng.

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Tướng kiến lập chẳng phải có là gì? Là phân biệt ấm, giới, nhập chẳng phải pháp có. Hý luận từ vô thỉ đến nay chẳng phải có thật mà chấp trước tướng đồng, tướng khác. Pháp này như vậy, như vậy... rốt ráo chẳng khác. Này Đại Tuệ! Nương vào phiền não huân tập từ vô lượng đời đến nay này mà chấp trước khởi lên. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng kiến lập chẳng phải có. 

 Này Đại Tuệ! Tướng kiến lập chẳng phải Chánh kiến là gì? Này Đại Tuệ! Trong ấm, giới, nhập kia không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, tác giả, thọ giảkiến lập tà kiến gọi là có ngã, nhân.v.v.... Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng kiến lập chẳng phải Chánh kiến

 Này Đại Tuệ! Tướng kiến lập chẳng phải có nhân là gì? Là thức ban đầu chẳng từ nhân sinh ra, vốn chẳng sinh mà thời gian sau sinh ra như huyễn hóa, vốn không nhân vào vật mà có, nhân vào mắt, hình sắc, ánh sáng, ý niệm nên sinh ra thức, sinh ra rồi trở lại diệt đi. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng kiến lập chẳng phải có nhân. 

 Này Đại Tuệ! Tướng kiến lập chẳng phải có thể (hình thể) bài báng pháp là gì? Là kiến lập chấp trước hư không diệt, Niết Bàn không tạo tác, không sự vật. Này Đại Tuệ! Ba pháp đó lìa khỏi có, không. Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp như sừng, lông của thỏ, ngựa, lừa, lạc đà.v.v... lìa khỏi tướng kiến lập có không. Này Đại Tuệ! Kiến lập báng tướng là các phàm phu hư vọng phân biệt, chẳng biết chỉ là tâm kiến (sự thấy của tâm). Các pháp là có thì chẳng phải là sự thấy của Thánh nhân. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Kiến lập phi hữu thể báng pháp tướng. Này Đại Tuệ! Ông phải xa lìa Bất chánh kiến kiến lập báng pháp tướng!

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Những Đại Bồ tát biết như thật tâm ý, ý thức, năm pháp thể tướng, hai thứ vô ngã... Vì yên ổn chúng sinh nên hiện đủ thứ loại, hình dáng. Như sự hư vọng kia không sự phân biệt, nương vào pháp nhân duyên mà có đủ thứ. 

 Này Đại Tuệ! Đại Bồ tát cũng lại như vậy, nương vào chúng sinh hiện đủ thứ sắc như báu Như ý theo các tâm niệm của tất cả chúng sinh ở trong đại chúng của các cõi Phậthiện ra như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như trăng trong nước, như hình dáng trong gương, xa lìa các pháp, chẳng sinh chẳng diệt, chẳng phải thường chẳng phải đoạn. Bồ tát đó hiện Phật Như Lai, lìa khỏi các thừa Thanh Văn, Duyên Giác, nghe các Phật pháp liền được vô lượng trăm ngàn vạn ức những thân Tam muội. Được tam muội rồi, Bồ tát nương vào sức Tam muội, từ một cõi Phật đến một cõi Phật khác để cúng dường các đức Phật thị hiện sinh ra ở trong các cung điện khen ngợi Tam Bảo, hiện làm thân Phật với đại chúng Bồ tát, Thanh Văn vây quanh khiến cho tất cả các chúng sinh được vào “tự tâm kiến cảnh”, vì chúng sinh nói ngoại cảnh không vật, có vật khiến cho họ được xa lìa pháp kiến lập có không vậy.

 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ rằng :

 Phật tử thấy thế gian 

 Chỉ tâm, không các pháp 

 Chủng loại chẳng thân làm

 Được lực thành tự tại.

 Bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát lại thỉnh đức Phật rằng :

 - Nguyện xin đức Thế Tôn vì chúng con nói về tất cả pháp không, không sinh, không hai lìa khỏi tự thể tướng! Con và tất cả các chúng Bồ tát biết các pháp không, không sinh, không hai lìa khỏi tự thể tướng rồi thì lìa khỏi vọng tưởng có không, mau chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 Bấy giờ, đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ tát rằng :

 - Hay thay! Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì ông rộng phân biệt nói!

 Bồ tát Đại Tuệ bạch đức Phật rằng : 

 - Hay thay! Thưa đức Thế Tôn! Thưa vâng chúng con xin thọ giáo!

 Đức Phật bảo ngài Đại Tuệ rằng :

 - Này Đại Tuệ! Không thì tức là câu vọng tưởng pháp thể. Này Đại Tuệ! Nương vào chấp trước pháp thể vọng tưởng nói Không, không sinh, không thể tướng chẳng hai. Này Đại Tuệ! Không có bảy thứ. Những gì là bảy? Một là, tướng không. Hai là, tất cả các pháp có vật không vật không. Ba là, hành không. Bốn là, chẳng hành không. Năm là, tất cả pháp không nói không. Sáu là, Đệ nhất nghĩa Thánh trí đại không. Bảy là, bỉ bỉ (đó đó) không. 

 Này Đại Tuệ! Tướng không là gì? Là tất cả pháp tự tướng, đồng tướng không thấy chúng đắp đổi chung tích tụ. Này Đại Tuệ! Quan sát mỗi một pháp mà tự tướng, đồng tướng không một pháp nào có thể được, lìa khỏi tự tướng, tha tướng cả hai tướng không có tướng nào có thể trụ, có thể thấy. Vậy nên gọi là tự tướng không

 Này Đại Tuệ! Tất cả pháp có vật, không vật không là gì? Là tự thể tướng thật có pháp sinh. Này Đại Tuệ! Tự thể tướng của các pháp có không đều không. Vậy nên gọi là tự thể tướng có vật không vật không. 

 Này Đại Tuệ! Hành không là gì? Là các ấm.v.v... lìa khỏi ngã, ngã sở, nương vào nhân tạo tác nghiệp mà được có sinh. Này Đại Tuệ! Vậy nên gọi là hành không

 Này Đại Tuệ! Bất hành không là gì? Là trong ấm pháp, Niết Bàn chưa từng hành. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Bất hành không

 Này Đại Tuệ! Tất cả pháp không nói không là gì? Là vọng tưởng phân biệt tất cả các pháp không nói có thể nói. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tất cả pháp không nói (vô ngôn) không. 

 Này Đại Tuệ! Đệ nhất nghĩa Thánh trí đại không là gì? Là tự thân nội chứng thánh trí pháp không, lìa khỏi các lỗi tà kiến huân tập. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Đệ nhất nghĩa Thánh trí đại không

 Này Đại Tuệ! Bỉ bỉ không là gì? Là chỗ pháp những đâu? Những đâu? Pháp kia không, pháp này có, pháp kia có, pháp này không. Vậy nên nói không. Này Đại Tuệ! Ta thuở xưa từng làm nai mẹ nói điện, đường trống không, không voi ngựa, trâu, dê.v.v... thì gọi là không, có các Tỳkheo.v.v... thì gọi là chẳng không mà thể điện đường của điện đường không có, thể Tỳkheo của Tỳkheo cũng chẳng thể được mà voi, ngựa, trâu, dê.v.v... kia chẳng phải chỗ khác không có. Này Đại Tuệ! Như vậy tự tướng đồng tướng của các pháp cũng chẳng thể được lìa khỏi chỗ này chỗ kia. Vậy nên ta nói rằng, đó đó không (bỉ bỉ không). Này Đại Tuệ! Đó gọi là bảy thứ không. Này Đại Tuệ! Bỉ Bỉ không này rất là thô thiển. Này Đại Tuệ! Ông phải nên lìa khỏi “bỉ bỉ không”, chẳng cần tu tập.

 Ngài Đại Tuệ hỏi rằng :

 - Bất sinh là gì?

 - Này Đại Tuệ! Tự thể chẳng sinh mà chẳng phải chẳng sinh. Nương vào Thế đế nên nói là sinh, nương vào vốn chẳng sinh nên nói là chẳng sinh.

 Ngài Đại Tuệ hỏi rằng :

 - Vô thể tướng là gì?

 - Này Đại Tuệ! Ta nói Vô thể tướng là tất cả các pháp thể vốn chẳng sinh. Vậy nên ta nói các pháp vô thể mà thể từng sát na nối tiếp nhau chẳng trụ. Này Đại Tuệ! Do thấy từng tướng khác, tướng khác nối nhau. Vậy nên tất cả pháp không thể tướng.

 Ngài Đại Tuệ nói rằng :

 - Cái gì gọi là Bất nhị (chẳng hai) Pháp tướng?

 - Này Đại Tuệ! Tướng hai pháp là gọi bóng ánh sáng mặt trời dài ngắn, đen trắng. Những pháp như vậy đó.v.v... thì mỗi mỗi đều có tên riêng nên chẳng được nói rằng, chẳng hai. Này Đại Tuệ! Như thế gian, Niết Bàn... tất cả các pháp, mỗi mỗi đều có hai. Này Đại Tuệ! Những gì là Niết Bàn? Chỗ đó không có thế gian. Chỗ nào là thế gian? Chỗ đó không Niết Bàn do tướng nhân khác. Vậy nên ta nói tất cả các pháp chẳng hai. Tất cả các pháp chẳng hai là thế gian, Niết Bàn không hai. Vậy nên ông nên tu học các pháp không vô tướng vô thể bất nhị vậy (không tướng không thể chẳng hai).

 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ rằng :

 Ta thường nói không pháp 

 Xa lìa khỏi đoạn, thường

 Sinh tử như huyễn mộng 

 Nghiệp kia chẳng mất tan

 Hư khôngNiết Bàn 

 Diệt (cả) hai cũng vậy

 Phàm phu phân biệt sinh 

 Thánh nhân lìa có, không. 

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ tát rằng : - Này Đại Tuệ! Tất cả pháp không chẳng sinh không thể chẳng hai tướng. Vào ở trong Kinh đã nói của các đức Phật Như Lai thì phàm các pháp môn đều nói ý nghĩa này. Này Đại Tuệ! Tất cả Kinh tùy theo tâm của tất cả chúng sinh nên phân biệt hiển bày. Này Đại Tuệ! Ví như ngọn lửa ấm mê hoặc loài cầm thú nên chúng hư vọng chấp trước sinh ra thủy tưởng (tưởng là nước) mà thật ra trong ngọn lửa không có nước. Này Đại Tuệ! Tất cả Kinh nói về pháp cũng lại như vậy, vì các phàm phu tự tâm phân biệt nên khiến cho họ được hoan hỷ, chứ chẳng phải ở tại lời nói của bậc Thánh trí như thật. Này Đại Tuệ! Ông nên thuận theo ý nghĩa, chớ chấp trước danh tự, chương cú của lời nói.

 Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ tát bạch đức Phật rằng :

 - Thưa đức Thế Tôn! Thưa đức Thế Tôn! Như Kinh nói tự tính của Như Lai tạng thanh tịnh, đủ ba mươi hai tướng, ở tại trong thân của tất cả chúng sinh, bị sự bao bọc của chiếc áo ấm giới, nhập cấu bẩn tham sân si chẳng thật như được ràng buộc bằng chiếc áo cấu bẩn báu vô giá. Đức Như Lai Thế Tôn lại nói, thường hằng thanh lương chẳng biến đổi. Đức Như Lai cũng nói, Như Lai tạng thường... cho đến chẳng biến đổi. Thưa đức Thế Tôn! Ngoại đạo cũng nói có sự tạo tác thường, chẳng nương vào các duyên, tự nhiên mà có, cùng khắp chẳng diệt. Nếu như vậy thì Như Lai, ngoại đạo nói không sai biệt.

 Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát rằng :

 - Này Đại Tuệ! Ta nói Như Lai tạng thường chẳng đồng với sự có thần ngã của ngoại đạo. Này Đại Tuệ! Ta nói văn từ chương cú Như Lai tạng trống không, thật tế Niết bàn chẳng sinh, chẳng diệt, không tướng, không nguyện.v.v... Gọi là Như Lai tạng

 Này Đại Tuệ! Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì tất cả những phàm phu ngu si nghe nói vô ngã thì sinh ra kinh sợ. Vậy nên ta nói có Như Lai tạngNhư Lai tạng không có sự phân biệt, tịch tịnh vô tướng gọi là Như Lai tạng

 Này Đại Tuệ! Những Bồ tát hiện tạivị lai.v.v... chẳng nên chấp trước tướng hữu ngã. Này Đại Tuệ! Ví như người thợ gốm giỏi nương vào cục bùn mịn, vòng bánh xe, sợi dây, tay nhân công, sức phương tiện của cây nên làm ra đủ thứ đồ dùng. 

 Này Đại Tuệ! Như Lai Thế Tôn cũng lại như vậy, vô ngã của pháp kia lìa khỏi tất cả những tướng phân biệt, phương tiện khéo trí tuệ gọi là Như Lai tạng, hoặc nói Vô ngã, hoặc nói thật tế và Niết Bàn.v.v... đủ thứ danh tự, chương cú thị hiện như người thợ gốm giỏi kia tạo tác đủ thứ đồ dùng. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ta nói Như Lai tạng chẳng đồng với ngoại đạo nói có tướng của ngã. 

 Này Đại Tuệ! Ta nói Như Lai tạng là vì các ngoại đạo chấp trước đối với ngã, nhiếp lấy bọn họ nên nói Như Lai tạng để khiến cho bọn ngoại đạo kia đối với thần ngã vọng tưởng, thấy chỗ chấp trước của tâm mà vào ba cửa giải thoát, mau chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Cháhh Giác.

 Này Đại Tuệ! Do ý nghĩa này nên các đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nói Như Lai tạng. Vậy nên ta nói có Như Lai tạng chẳng đồng với ngoại đạo chấp trước Thần ngã. Vậy nên, này Đại Tuệ! Vì lìa khỏi tất cả ngoại đạo tà kiến nên các đức Phật Như Lai nói lên lời như vậy. Ông phải tu học Như Lai Vô ngã tướng pháp.

 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ rằng : 

 Nhân, ngã và với ấm 

 Mọi duyên cùng vi trần

 Tự tính tự tại tác 

 Vọng phân biết chỉ tâm.

 Bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát quan sát tất cả chúng sinh vị lai, lại thỉnh đức Phật rằng :

 - Nguyện xin đức Thế Tôn vì các Bồ tát nói pháp tu hành như thật. Các vị Bồ tát đó nghe nói pháp tu hành như thật liền được thành tựu sự tu hành như thật.

 Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ tát rằng :

 - Này Đại Tuệ! Có bốn thứ pháp được gọi là tu hành đại Như thật. Những gì là bốn? - Một là giỏi biết tự tâm hiện thấy. Hai là xa lìa sinh trụ diệt. Ba là giỏi giải sự có, không của ngoại pháp. Bốn là ưa tu “nội thân chứng trí”. Này Đại Tuệ! Bồ tát thành tựu bốn pháp như vậy thì được thành tựu sự tu hành đại Như thật.

 Này Đại Tuệ! Cái gì là đại Bồ tát quan sát ba cõi chỉ là một tâm tạo tác? Lià ngã, ngã sở, không động không giác, lìa khỏi thủ, xả (bỏ), từ vô thỉ đến nay hư vọng chấp trước tâm hý luận huân tập của ba cõi, đủ thứ sắc hạnh thường trói buộc, thân và đồ tư sinh, sáu đường trong thế gian hư vọng hiện. Này Đại Tuệ! Đó gọi là các Đại Bồ tát giỏi biết “tự tâm hiện kiến tướng”. 

 Này Đại Tuệ! Làm sao tất cả Đại Bồ tát thấy xa lìa pháp sinh trụ diệt? Là quán các pháp như huyễn như mộng nên tất cả pháp, tự mình và người khác, hai thứ không có nên chẳng sinh mà do tùy theo tự tâm hiện thấy biết, do không có ngoại pháp, các thức chẳng khởi, quán các nhân duyên không tích tụ, thấy những nhân duyên có, chẳng thấy tất cả các pháp trong, ngoài không thật thể, xa lìa việc sinh ra các pháp chẳng chánh kiến, vào tất cả pháp như huyễn tướng. Đại Bồ tát, bấy giờ, gọi được Sơ địa Vô Sinh Pháp nhẫn. Lìa xa tâm ý, ý thức, năm thể tướng của pháp, được hai vô ngã, như ý, ý thân cho đến được Đệ Bát Bất Động địa như ý, ý thân vậy.

 Bồ tát Đại Tuệ bạch đức Phật rằng :

 - Thưa đức Thế Tôn! Vì sao gọi là như ý ý thân?

 Đức Phật bảo :

 - Này Đại Tuệ! Theo ý mau đi như niệm liền đến, không có chướng ngại gọi là như ý thân. Này Đại Tuệ! Nói như ý là đối với núi vách đá ngăn vô lượng trăm ngàn vạn ức do tuần mà niệm vốn đã thấy đủ thứ cảnh giới thì sự trói buộc lòng mình chẳng thể ngăn ngại, tự tại mà đi. 

 Này Đại Tuệ! Như ý thân thì cũng lại như vậy, được thần lực tự tại của tam muội Như Huyễn trang nghiêm thân ấy, tiến đến tất cả chủng loại thân Thánh trí không chướng ngại, tùy ý mà đi do nghĩ về cảnh giới bản nguyện lực, vì giáo hóa tất cả các chúng sinh. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Đại Bồ tát xa lìa tướng sinh trụ diệt.

 Này Đại Tuệ! Làm sao Đại Bồ tát giỏi giải tướng của ngoại pháp có, không? Đó gọi là Bồ tát thấy tất cả pháp như ngọn lửa, như giấc mơ, như vừng lông. Nhân từ vô thỉ đến nay chấp trước đủ thứ hí luận phân biệt vọng tưởng huân tập nên thấy tất cả pháp không thể tướng. Cầu chứng tu hành cảnh giới Thánh trí vậy. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Bồ tát giỏi giải tướng ngoại pháp có, không liền thành tựu sự tu hành đại như thật. Này Đại Tuệ! Ông nên tu học như vậy!

 Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát lại thỉnh đức Phật rằng :

 - Thưa đức Thế Tôn! Nguyện xin đức Thế Tôn nói tướng của tất cả pháp nhân duyên! Con và tất cả các Bồ tát.v.v... giỏi biết tướng của các pháp nhân duyên, lìa khỏi có, không, chẳng chánh kiến.v.v... vọng tưởng phân biệt các pháp theo thứ lớp hay nhất thời sinh qua.

 Đức Phật bảo Bồ tát Đại Tuệ rằng :

 - Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp có hai thứ nhân duyên tập tướng là nội và ngoại. Này Đại Tuệ! Ngoại pháp nhân duyên tập tướng là như gọi viên bùn, trụ, vòng bánh xe, sợi dây, nhân công, duyên phương tiện nên có cái bình sinh ra. Này Đại Tuệ! Như nhân duyên cục bùn.v.v... sinh ra cái bình, như vải gai, chiếu cỏ, giống mầm.v.v... (?), nhân công sinh ra cao sữa (?). S.anh cao sữa (lạc) rồi sinh ra váng sữa. Sinh ra váng sữa rồi thì được đề hồ. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Ngoại pháp nhân duyên tập tướng. Từ dưới lên trên ông nên biết! 

 Này Đại Tuệ! Nội pháp nhân duyên tập tướng là gì? Này Đại Tuệ! Đó là vô minh, nghiệp, ái.v.v... những pháp như vậy gọi là Nội nhân duyên tập tướng. Này Đại Tuệ! Nhân vào vô minh.v.v... ấm, giới, nhập.v.v.... mà được gọi là nhân duyên tập tướng, nhưng các phàm phu hư vọng phân biệt đều thấy tướng riêng biệt. 

 Này Đại Tuệ! Nhân có sáu thứ. Những gì là sáu? Một là, đương nhân. Hai là, tương tục nhân. Ba là, tương nhân. Bốn là, tác nhân. Năm là, liễu nhân. Sáu là, tương đãi nhân. 

 Này Đại Tuệ! Đương nhân là tạo tác nhân rồi có thể sinh ra pháp trong, ngoài. 

 Này Đại Tuệ! Tương tục nhân là có thể vin vào duyên, pháp trong ngoài, ấm, chủng tử.v.v.... 

 Này Đại Tuệ! Tương nhân là có thể sinh nối tiếp nhau theo thứ lớp tạo tác sự việc mà chẳng đoạn tuyệt

 Này Đại Tuệ! Tác nhân là có thể làm tăng thượng nhân như Chuyển luân vương

 Này Đại Tuệ! Liễu nhân là việc vọng tưởng sinh ra rồi có thể hiển thị như đèn soi sắc.v.v.... 

 Này Đại Tuệ! Tương đãi nhân là đến khi diệt chẳng thấy hư vọng sinh ra pháp, việc nối tiếp nhau đoạn tuyệt vậy. 

 Này Đại Tuệ! Các pháp như vậy, phàm phu tự tâm hư vọng phân biệt. Này Đại Tuệ! Các pháp này chẳng phải theo thứ lớp sinh ra, chẳng phải nhất thời sinh ra. Vì sao vậy? Này Đại Tuệ! Vì nếu tất cả phát nhất thời sinh thì nhân quả chẳng thể sai biệt do chẳng thấy thân tướng của nhân quả vậy. Nếu các pháp theo thứ lớp sinh thì chưa được thân tướng, chẳng được nói là theo thứ lớp sinh như chưa có con chẳng thể nói là cha. 

 Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si tự tâm quan sát, thứ lớp nối tiếp nhau chẳng tương ứng nên nói lời như vầy : “Nhân duyên, thứ đệ duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.v.v.... có thể sinh ra các pháp”. 

 Này Đại Tuệ! Như vậy các pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Hư vọng phân biệt thủ lấy thể tướng của pháp. Nhất thời, thứ lớp đều cũng chẳng sinh. Lại nữa, này Đại Tuệ! Trong tự tâm thấy thân và đồ tư sinh vậy. Này Đại Tuệ! Tự tướng, đồng tướng, ngoại pháp, vô pháp vậy nên thứ lớp và nhất thời chẳng sinh. 

 Này Đại Tuệ! Chỉ là thức hư vọng sinh ra sự thấy của tự tâm vậy. 

 Này Đại Tuệ! Ông hãy nên lìa khỏi việc nhân duyên chẳng chánh kiến và pháp sinh theo thứ lớp và nhất thời.

 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ rằng :

 Nhân duyên không chẳng sinh 

 Chẳng sinh nên chẳng diệt

 Sinh diệt rỗng nhân duyên 

 Phi sinh cũng phi diệt.

 Vì ngăn các nhân duyên 

 Người ngu chọn hư vọng

 Duyên có, không chẳng sinh

 Nên các pháp chẳng khởi.

 Do ở trong ba cõi 

 Huân tập mê hoặc tâm

 Nhân duyên vốn tự không 

 Chẳng sinh cũng chẳng diệt.

 Thấy những hữu vi pháp 

 Hóa thạch nữ, hư không 

 Chuyển nên lấy, hay lấy (khả thủ, năng thủ)

Hoặc, vọng kiến chẳng sinh.

 Hiện vốn đều chẳng sinh 

 Duyên vốn cũng chẳng có

 Những thứ pháp như thế... 

 Tự thể là trống không

 Cũng không có chỗ trụ 

 Nói có vì thế gian!

 Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát lại bạch đức Phật rằng : 

 - Thưa đức Thế Tôn! Nguyện xin đức Thế Tôn vì con nói pháp môn gọi là phân biệt ngôn ngữ tướng tâm. Con và tất cả các Bồ tát.v.v.... nếu được biết một cách hoàn thiện pháp môn phân biệt ngôn ngữ tướng tâm thì có thể thông đạt lời nói và nghĩa hai thứ pháp, mau chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Được Bồ đề rồi thì lời nói và nghĩa có thể khiến cho tất cả các chúng sinh.v.v... được thanh tịnh giải thoát.

 Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát rằng :

 - Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà nói.

 Bồ tát Đại Tuệ bach rằng :

 - Hay thay! Thưa đức Thế Tôn! Thưa vâng con xin thọ giáo! 

 Đức Phật bảo Bồ tát Đại Tuệ rằng :

 - Này Đại Tuệ! Có bốn thứ ngôn ngữ vọng tưởng. Những gì là bốn? Một là, tướng ngôn thuyết. Hai là, mộng ngôn thuyết. Ba là, vọng chấp ngôn thuyết. Bốn là, vô thỉ ngôn thuyết

 Này Đại Tuệ! Tướng ngôn thuyết là gọi sự chấp trước sắc.v.v.... các tướng mà sinh ra. 

 Này Đại Tuệ! Mộng ngôn thuyết là nghĩ về cảnh giới hư vọng thọ dụng xưa. Nương vào cảnh giới, tỉnh mộng rồi biết nương vào cảnh giới hư vọng chẳng thật mà sinh ra. 

 Này Đại Tuệ! Chấp trước ngôn thuyết là nghĩ về việc nghe, việc tạo tác nghiệp xưa mà sinh ra. 

 Này Đại Tuệ! Vô thỉ ngôn thuyết là từ vô thỉ đến nay huân tập hạt giống chấp trước hí luận phiền não mà sinh ra. 

 Này Đại Tuệ! Ta nói bốn thứ ngôn thuyết hư vọng chấp trước thì đã nói xong.

 Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát lại dùng ý nghĩa này khuyến thỉnh đức Như Lai mà bạch đức Phật rằng : 

 - Thưa đức Thế Tôn! Nguyện xin ngài vì con một lần nữa nói về bốn thứ tướng của hư vọng chấp trước ngôn thuyết! Ngôn ngữ của chúng sinh từ đâu ra? Làm sao ra? Nhân nào ra?

 Đức Phật bảo Bồ tát Đại Tuệ rằng :

 - Này Đại Tuệ! Từ đầu, ngực, yết hầu, mũi, môi, lưỡi, răng chuyển nên hòa hợp phát ra âm thanh.

 Bồ tát Đại Tuệ bạch đức Phật rằng : 

 - Thưa đức Thế Tôn! Ngôn ngữ trong miệng, tướng của pháp hư vọng là khác hay là chẳng khác?

 Đức Phật bảo ngài Đại Tuệ rằng : 

 - Này Đại Tuệ! Ngôn ngữ hư vọng là chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Vì sao vậy? Này Đại Tuệ! Nhân vào pháp tướng hư vọng đó sinh ra ngôn ngữ. Này Đại Tuệ! Nếu ngôn ngữ khác thì nên không nhân sinh ra! Này Đại Tuệ! Nếu chẳng khác thì lời nói chẳng thể tỏ rõ cảnh giới trước! Này Đại Tuệ! Nói ngôn ngữ đó rõ cảnh trước. Vậy nên chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác.

 Ngài Đại Tuệ lại bạch đức Phật rằng : 

 - Thưa đức Thế Tôn! Vì ngôn ngữ tức là Đệ nhất nghĩa, hay vì lời nói ngôn ngữ là đệ nhất nghĩa?

 Đức Phật bảo ngài Đại Tuệ rằng :

 - Chẳng phải ngôn ngữ tức là Đệ nhất nghĩa. Vì sao vậy? Này Đại Tuệ! Vì khiến cho Đệ nhất nghĩa thuận theo ngôn ngữ vào cảnh giới Thánh. Có ngôn ngữ nói Đệ nhất nghĩa, chẳng phải ngôn ngữ tức là Đệ nhất nghĩa. Này Đại Tuệ! Đệ nhất nghĩaThánh trí nội chứng, chẳng phải pháp ngôn ngữcảnh giới Trí, do ngôn ngữ có thể rõ cảnh giới đó. Này Đại Tuệ! Nói Đệ nhất nghĩa tức ngôn ngữ thì chính là pháp sinh diệt, từng niệm từng niệm chẳng trụ. Nhân duyên hòa hợp thì có ngôn ngữ sinh ra. Này Đại Tuệ! Nhân duyên hòa hợp thì đó chẳng thể rõ Đệ nhất nghĩa. Vì sao vậy? Vì do không có tự tướng và tha tướng. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ngôn ngữ chẳng thể rõ Đệ nhất nghĩa

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Thuận theo tự tâm thấy các pháp bên ngoài không có pháp để phân biệt. Vậy nên chẳng thể rõ biết Đệ nhất nghĩa. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ông hãy nên lìa khỏi đủ thứ tướng ngôn ngữ hư vọng phân biệt!

 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ rằng :

 Các pháp vốn hư vọng 

 Không tự thể thật chân

 Vậy nên các ngôn ngữ 

 Chẳng thể nói có không.

 Rỗng không cùng chẳng không 

Phàm phu chẳng thể biết

 Các pháp, thể tướng không 

 Nói chúng sinh cũng vậy.

 Pháp phân biệt có, không

 Giống như huyễn hóa, mộng...

 Tất cả pháp xét xem 

 Chẳng trụ ở Niết Bàn 

 Thế gian cũng chẳng trụ 

 Như vua và trưởng giả....

 Vì khiến các con mừng 

 Lấy bùn làm cầm thú

 Trước cho vật hư ngụy 

 Việc thật sau mới trao,

 Ta nói đủ thứ pháp 

 Tự pháp dáng trong gương

 Làm các Phật tử mừng 

 Sau thuyết minh thật tế.

 Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát lại bạch đức Phật rằng : 

 - Thưa đức Thế Tôn! Nguyện xin đức Thế Tôn vì các vị Bồ tátbản thân con, nói về lìa có-không, một-khác, đều chẳng đều, có không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường-vô thường, việc chẳng thể hành của tất cả ngoại đạo, việc tu hành của Thánh trí tự chứng giác, lìa khỏi pháp tự tướng đồng tướng. Vào pháp tính thật Đệ nhất nghĩa, các địa theo thứ lớp lên trên thanh tịnh, vào tướng Như Lai địa, nương vào lực bản nguyện như báu Như Ý vô lượng tướng cảnh giới tu hành tự nhiên hành động, đối với tất cả pháp tự tâm hiện thấy tướng sai biệt cho con và tất cả các Bồ tát.v.v... lìa khỏi vọng tưởng phân biệt đồng tướng dị tướng như vậy, mau chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Được Bồ đề rồi cho tất cả chúng sinh yên ổn vui sướng đều khiến cho thỏa mãn đầy đủ.

 Đức Phật bảo ngài Đại Tuệ rằng :

 - Hay thay! Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông vì thương xót tất cả trời người để họ được nhiều an lạc, nhiều lợi ích nên mới có thể hỏi ta ý nghĩa như vậy! Hay thay! Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói!

 Ngài Đại Tuệ bạch đức Phật rằng : 

 - Hay thay! Thưa đức Thế Tôn! Con xin thọ giáo.

 Đức Phật bảo rằng :

 - Này Đại Tuệ! Kẻ phàm phu ngu si chẳng thể hiểu biết là chỉ có lòng mình thấy mà chấp trước đủ thứ những pháp tướng bên ngoài, rồi lấy làm thật có. Vậy nên họ hư vọng phân biệt : một-khác, đều-chẳng đều, có-không, chẳng phải có-chẳng phải không, thường-vô thường, nhân tự tâm huân tập, nương tâm hư vọng phân biệt

 Này Đại Tuệ! Ví như bầy thú bị khát bức bách nương vào ngọn lửa nóng làm mê loạn tưởng nước, chạy rong khắp nơi, chẳng biết là chẳng phải nước. Này Đại Tuệ! Như vậy tâm kẻ phàm phu ngu si thấy pháp sinh trụ diệt, chẳng giỏi phân biệt, nhân vào hư vọng chấp trước hí luận huân tập từ vô thỉ đến nay, lửa tham sân si bức não mê tâm, ưa cầu đủ thứ những cảnh giới sắc. Vậy nên phàm phu rơi vào một-khác, đều-chẳng đều, có-không, chẳng phải có-chẳng phải không, thường-vô thường.v.v...

 Này Đại Tuệ! Ví như phàm phu thấy thành Càn thát bà mà sinh ra tư tưởngthành thật. Họ nhân vào chủng tử thành tưởng phân biệt hư vọng huân tập từ vô thỉ đến nay mà thấy. 

 Này Đại Tuệ! Thành kia chẳng phải thành, chẳng phải chẳng thành. 

 Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo cũng lại như vậy, nhân vào hí luận huân tập từ vô thỉ đến naychấp trước pháp một-khác, đều-chẳng đều, có-không, chẳng phải có, chẳng phải không. 

 Này Đại Tuệ! Do chẳng hiểu biết là chỉ tâm mình hư vọng thấy. 

 Này Đại Tuệ! Ví như có người ở trong giấc ngủ mơ thấy những con trai, con gái, voi ngựa, xe cộ, thành ấp, tụ lạc, trâu cùng trâu nước, vườn rừng, cây cối, đủ thứ núi sông, dòng suối, ao tắm, cung điện, lầu các, đủ thứ trang nghiêm rộng lớn nghiêm sức. Thấy thân tại trong đó, họ bỗng nhiên liền tỉnh thức. Thức dậy rồi, họ nghĩ nhớ ngôi thành rộng lớn. 

 Này Đại Tuệ! Ý ông thế nào? Người đó gọi là Thánh giả chăng?

 Ngài Đại Tuệ bạch đức Phật rằng : 

 - Chẳng phải vậy, thưa đức Thế Tôn!

 Đức Phật bảo rằng :

 - Này Đại Tuệ! Tất cả phàm phu ngu si, ngoại đạo, tà kiến, các kiến cũng lại như vậy, chẳng thể hiểu biết các pháp, mơ ngủ tự tâm thấy nên chấp trước cái thấy một - khác, đều - chẳng đều, có - không, chẳng phải có - chẳng phải không, thường - vô thường

 Này Đại Tuệ! Ví như con voi vẽ chẳng cao chẳng thấp. 

 Này Đại Tuệ! Kẻ phàm phu ngu si vọng thấy các pháp có cao, có thấp. Này Đại Tuệ! Vào đời vị lai nương theo ngoại đạo tâm tà kiến huân tậptăng trưởng hư vọng phân biệt một - khác, đều - chẳng đều, có - không, chẳng phải có - chẳng phải không, thường - vô thường.v.v... 

 Này Đại Tuệ! Mà ngoại đạo kia tự hoại và hoại người khác, nói lời như vầy : “Các pháp chẳng sinh, chẳng diệt, có, không, tịch tịnh”. Người đó gọi là người chẳng chánh kiến

 Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo đó bài báng pháp nhân quả. Nhân tà kiến nên bạt đứt tất cả các căn lành và nhân duyên thanh tịnh của bạch pháp

 Này Đại Tuệ! Người muốn cầu thắng pháp thì phải xa lìa người nói pháp như vậy. Tâm người đó chấp trước hai kiến, mình và người khác, chấp pháp hư vọng, rơi vào bài báng, kiến lập lòng tà, vào với đường ác. 

 Này Đại Tuệ! Ví như mắt bị màng che thấy trong hư không có vừng lông nói với người khác rằng : “Đúng vậy! Đúng vậy! Xanh, vàng, trắng, đỏ sao ông chẳng xem?” Này Đại Tuệ! Mà vừng lông đó vốn tự không hình thể. Vì sao vậy? Vì cái có thấy chẳng thấy vậy. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo.v.v.... nương theo tâm tà kiến hư vọng phân biệt cũng lại như vậy, hư vọng chấp trước một - khác, đều - chẳng đều, có - không, chẳng phải có - chẳng phải không, thường - vô thường sinh ra các pháp. 

 Này Đại Tuệ! Ví như trời mưa sinh ra bong bóng nước tợ như ngọc pha lê, người phàm phu ngu si vọng thấy chấp trước sinh ra tư tưởng là ngọc mà đuổi chạy khắp nơi. Này Đại Tuệ! Mà bong bóng nước đó chẳng phải ngọc báu, chẳng phải chẳng ngọc báu. Vì sao vậy? Vì có thủ, chẳng thủ vậy. Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo kia nhân vào tâm hư vọng phân biệt huân tập cũng lại như vậy, nói chẳng phải pháp có là nương vào nhân duyên sinh ra, lại có kẻ nói rằng, thật có pháp diệt

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Những ngoại đạo đó kiến lập ba thứ lượng, năm phần luận mà nói lên rằng, quả thật có pháp nội chứng của Thánh giả, lìa khỏi hai tự thể, hư vọng phân biệt vậy. Này Đại Tuệ! Lìa tâm ý, ý thức thì khi chuyển thân liền được loại thân chủng thánh. Tu hành các hạnh không có tâm như thì lìa khỏi cảnh giới hư vọng của tự tâm thấy “năng thủ khả thủ” (có khả năng lấy, được lấy), vào Như Lai địa, tự thân tiến đến chứng Thánh trí. Người tu hành như thật thì chẳng sinh tâm có, không. Này Đại Tuệ! Người tu hành như thật thì nhất định cảnh giới như vậy. 

 Này Đại Tuệ! Nếu thủ lấy pháp có, không thì tức là ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng vậy. 

 Này Đại Tuệ! Nói pháp có, không tự tướng, đồng tướng thì đó gọi là đức Phật ứng hóa mà nói, chẳng phải pháp Phật nói. 

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Đức Như Lai ứng hóa nói pháp như vậy là thuận theo tâm thấy của phàm phu ngu si để khiến cho họ tu hành, chẳng phải là kiến lập sự tu hành như thật, thị hiện lạc hạnh tự thân nội chứng Thánh trí tam muội

 Này Đại Tuệ! Ví như người thấy bóng cây trong nước. Này Đại Tuệ! Cái đó chẳng phải bóng chẳng phải chẳng bóng. Vì sao vậy? Ví có cây thì có, không cây thì không vậy. 

 Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo kia nương theo tâm tà kiến vọng tưởng huân tập cũng lại như vậy, phân biệt một - khác, đều - chẳng đều, có - không, chẳng phải có - chẳng phải không, thường - vô thườngvọng tưởng phân biệt vậy. Vì sao vậy? Vì do chẳng hay chẳng biết chỉ là tự tâm thấy vậy. 

 Này Đại Tuệ! Ví như gương sáng theo duyên được thấy tất cả sắc tượng không có lòng phân biệt. Này Đại Tuệ! Đó chẳng phải hình dáng, chẳng phải chẳng hình dáng. Vì sao vậy? Có duyên thì được thấy, không có duyên thì chẳng thấy vậy. 

 Này Đại Tuệ! Kẻ phàm phu ngu si tự tâm phân biệt thấy hình tượng có, không. 

 Này Đại Tuệ! Tất cả các ngoại đạo tự tâm vọng tưởng phân biệt hình tượng trong gương cũng lại như vậy, thấy một - khác, đều - chẳng đều vậy. 

 Này Đại Tuệ! Ví như những tiếng vang nhân vào người, núi, sông, nước, gió, trống không, nhà.v.v.... hòa hợp lại mà nghe. Cái tiếng vang nghe được đó chẳng phải có, chẳng phải không. Vì sao vậy? Vì nhân vào âm thanh mà nghe âm thanh vậy. 

 Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo tự tâm hư vọng phân biệt huân tập, thấy một - khác, đều - chẳng đều, có - không, chẳng phải có - chẳng phải không, thường - vô thường

 Này Đại Tuệ! Ví như đại địa chỗ không có các cây cỏ nhân vào ánh sáng mặt trời, bụi đất hòa hợp mà thấy sóng nước dao động, nhưng sóng nước đó chẳng phải có, chẳng phải không. Vì sao vậy? Vì khiến cho chúng sinh hoan hỷ, chẳng hoan ỷ vậy. 

 Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo, phàm phu ngu si cũng lại như vậy, nhân từ vô thỉ đến nay tâm phiền não huân tập hí luận, phân biệt sinh trụ diệt, một - khác, đều - chẳng đều, có - không, chẳng phải có - chẳng phải không, thường - vô thường. Trong nội thân thánh nhân chứng trí môn, thị hiện việc khát ái bùng lên. 

 Này Đại Tuệ! Ví như người nương theo sức chú thuật dựng dậy thây chết. Người gỗ máy không thể chúng sinh nương theo lực tỳ xá xà, nương theo sức tỳ xá xà, nương theo sức người thợ khéo tạo tác việc đi lại mà những phàm phu ngu si chấp trước lấy làm thật có. Do việc đi lại của chúng nên, này Đại Tuệ! Kẻ phàm phu ngu si, các ngoại đạo.v.v... rơi vào lòng tà kiến cũng lại như vậy, chấp trước hư vọng một - khác, đều - chẳng đều, có - không, chẳng phải có - chẳng phải không, thường - vô thường. Vậy nên phàm phu, ngoại đạo, hư vọng kiến lập pháp như vậy. Vậy nên này Đại Tuệ! Ông phải xa lìa sinh - trụ - diệt, một - khác, đều - chẳng đều, có - không, chẳng phải có - chẳng phải không, thường - vô thường mà tự thân nội chứng Thánh trí phân biệt vậy.

 Bấy giờ, đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ rằng :

 Năm ấm và với thức 

 Như bóng cây trong nước

 Thấy như huyễn như mơ 

 Thủ (lấy) chớ nương ý thức

 Các pháp như mao luân (vừng lông)

 Như nước lửa mê hoặc.

 Với ba cõi xét xem 

 Tất cả như huyễn mộng.

 Nếu như vậy xét xem 

 Tu hành được giải thoát

 Như (mùa) hè thú thèm nước

 Dao động mê hoặc lòng

 Chỗ kia không có nước 

 Vọng tưởng thấy nước dâng

 Như hạt giống ý thức 

 Cảnh giới động, thấy sinh (ra).

 Ngu si nhận là thật 

 Pháp đó sinh như ngăn (che).

 Ngu si đời vô thỉ 

 Thủ (lấy) vật như ôm mang

 Nhân đây sinh ra đó 

 Vào pháp lừa người phàm.

 Huyễn khởi thay máy móc

 Mộng chớp mây vậy luôn

 Quán thế gian như vậy 

 Đoạn hữu, giải thoát liền.

 Trong hư không lửa nóng

 Không các thức biết thông

 Quán các pháp như vậy 

 Chẳng chấp pháp thế gian 

 Chỉ có tên các thức 

 Còn các tướng rỗng không 

 Thấy pháp như vừng lông

 Phân biệt gì trong pháp

 Vẽ và các vừng lông 

 Càn thát bà, huyễn, mộng

 Chim tìm nước, hỏa luân (vừng lửa)

 Thấy có mà thật không.

 Thường-vô thường và một

 Hai, đều-chẳng đều cùng

 Nương nhân vô thỉ buộc 

 Phàm phu mê hoặc tâm.

 Nước gương báu trong mắt

 Hiện đủ thứ dáng hình

 Vọng thấy đủ thứ sắc 

 (Như) Mơ thạch nữ sinh con.

 Tất cả pháp như thật 

 Như (loài) thú thèm nước không (trống rỗng).

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Các đức Phật Như Lai nói pháp lìa khỏi bốn thứ kiến (thấy). Đó là lìa khỏi một - khác, đều - chẳng đều, xa lìa kiến lập có, không. 

 Này Đại Tuệ! Tất cả các đức Phật Như Lai nói pháp nương vào thật tế, nhân duyên, tịch diệt, giải thoát

 Này Đại Tuệ! Tất cả các đức Phật Như Lai nói pháp nương theo cảnh giới cứu cánh, chẳng phải nhân, tự tính, tự tại thiên, vô nhân, thời gian vi trần (?)... chẳng nương như vậy mà nói pháp.

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Các đức Phật nói pháp lìa khỏi hai thứ chướng, phiền não chướngtrí chướng. Như vị đại thương chủ đem các chúng nhân lần lượt đặt ở chỗ rất tịch tịnh yên ổn rốt ráo chưa từng thấy, theo thứ lớp an trí khiến cho họ giải biết tướng thừa, địa sai biệt vậy.

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Có bốn thứ thiền. Những gì là bốn? Một là thiền sở hành của phàm phu ngu si. Hai là quan sát nghĩa thiền. Ba là niệm Chân như thiền. Bốn là Phật Như Lai thiền. 

 Này Đại Tuệ! Thiền sở hành của phàm phu ngu si là gì? Là người tu hành Thanh Văn, Duyên Giác, ngoại đạo, quan sát người vô ngã, tự tướng đồng tướng, xương móc liền lại, vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh... chấp trước các tướng. Như vậy như vậy quyết định rốt ráo chẳng khác, như vậy theo thứ lớp nhân sự quan sát trước, theo thứ lớp lên trên... cho đến Phi tưởng, diệt tận địnhgiải thoát. Đó gọi là Thiền của Thanh Văn, ngoại đạo, phàm phu ngu si.v.v...

 Này Đại Tuệ! Quán nghĩa thiền là gì? Là quan sát nhân vô ngã, tự tướng đồng tướng, thấy tự tướng, đồng tướng, tướng mình, tướng người khác không thật; quan sát pháp vô ngã, nghĩa hành tướng của các địa theo thứ lớp. Này Đại Tuệ! Đó gọi là quan sát nghĩa thiền.

 Này Đại Tuệ! Quán Chân như thiền là gì? Là quan sát nhân duyên phân biệt hư vọng, biết như thật hai thứ vô ngã, phân biệt như thật thể tướng của tất cả các pháp không thật. Bấy giờ, chẳng trụ ở trong tâm phân biệt, được cảnh giới tịch tịnh. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Quán Chân như thiền. 

 Này Đại Tuệ! Quan sát Như Lai thiền là gì? Là như thật vào Như Lai địa, vào ba không, ba thứ lạc hành của nội thân Thánh trí tướng, có thể hoàn thành sở tác của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn. Này Đại Tuệ! Đó gọi là quan sát Như Lai thiền.

 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ rằng:

 Những phàm phu... hành thiền 

 Nghĩa tướng thiền quan sát

 Quán niệm Chân Như Thiền 

 Phật tịnh thiền rốt ráo

 Ví như nhật nguyệt hình 

 Bát đầu ma hải tướng

 Tướng lửa tận, hư không

 Hành giả quán như vậy 

 Đủ thứ tướng như trên 

 Rơi vào pháp ngoại đạo 

 Cũng rơi vào Thanh Văn 

 Và hạnh Bích Chi Phật.

 Xả bỏ tất cả xong 

 Tức là vô sở hữu

 Thì đất nước mười phương 

 Tay chân như chư Phật 

 Xoa đầu người tu hành 

 Vào Chân như vô tướng.

 Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ tát bạch đức Phật rằng : 

 - Thưa đức Thế Tôn! Xin ngài nói về Niết Bàn! Niết Bàn thì nói những pháp gì mới gọi là Niết Bàn?

 Đức Phật dạy Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát rằng :

 - Nói Niết Bàn là chuyển diệt thể tướng của các thức pháp, chuyển các kiến huân tập, chuyển tâm ý Alêgia thức pháp tướng huân tập... gọi là Niết Bàn. Này Đại Tuệ! Ta và các đức Phật nói việc rỗng không của cảnh giới Niết Bàn pháp thể như vậy. 

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Nói Niết Bàn nghĩa là cảnh giới tu hành của Thánh trí nội thân, lìa khỏi pháp hư vọng phân biệt có, không. Này Đại Tuệ! Phi thường là sao? Là lìa khỏi pháp phân biệt tự tướng đồng tướng. Đó gọi là phi thường

 Này Đại Tuệ! Phi đoạn là gì? Là tất cả thánh nhân quá khứ, vị lai, hiện tại mà nội thân chứng được. Vậy nên là phi đoạn. 

 Này Đại Tuệ! Bát Niết Bàn là chẳng phải chết, chẳng phải diệt. Này Đại Tuệ! Nếu Bát Niết Bàn là pháp chết (tử pháp) thì nên có sinh trói buộc

 Này Đại Tuệ! Nếu Bát Niết Bànpháp diệt thì nên rơi vào pháp hữu vi. Vậy nên, này Đại Tuệ! Bát Niết Bàn là chẳng phải chết, chẳng phải diệt, chỗ nương về của người tu hành như thật

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Nói Niết Bàn là chẳng phải có thể lấy, chẳng phải có thể bỏ, chẳng phải chỗ này, chẳng phải chỗ kia, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, chẳng phải một nghĩa, chẳng phải đủ thứ nghĩa. Vậy nên gọi là Niết Bàn

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Thanh Văn Niết Bànquan sát tự tướng đồng tướng mà thấu hiểu các pháp nên gọi là Thanh Văn Niết Bàn. Này Đại Tuệ! Bích Chi Phật Niết Bàn là chẳng ưa rối rắm ồn ào, thấy các cảnh giới vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, chẳng sinh ra tướng điên đảo. Vậy nên Thanh Văn, Bích Chi Phật chẳng phải chỗ cứu cánh sinh ra Niết Bàn tưởng vậy.

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta vì ông nói về hai thể tướng của pháp. Những gì là hai? Một là chấp trước thể tướng của lời nói. Hai là chấp trước thể tướng của thế sự

 Này Đại Tuệ! Chấp trước thể tướng của lời nói là gì? Là từ vô thỉ đến nay chấp trước lời nói hí luận huân tập mà sinh ra. 

 Này Đại Tuệ! Chấp trước thể tướng của thế sự là gì? Là chẳng như thật biết chỉ là tự tâm thấy cảnh giới bên ngoài.

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Các Đại Bồ tát nương vào hai thứ nguyện lực trụ trì, đảnh lễ các đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, hỏi các ngài về sự nghi hoặc

 Này Đại Tuệ! Những gì là hai thứ nguyện lực trụ trì? Một là nương vào lực trụ trì của tam muội Tam ma đề. Hai là toàn thân được vui, gọi là tay Như Lai xoa đầu trao cho lực trụ trì của ngôi vị. 

 Này Đại Tuệ! Các vị Đại Bồ tát trụ trong Sơ địa thừa lực trụ trì của các Như Lai gọi là vào tam muội Đại Thừa Quang Minh của Bồ tát

 Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ tát vào tam muội Đại Thừa Quang Minh rồi thì bấy giờ các đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri ban cho các Bồ tát lực trụ trì nên hiện thân miệng ý. 

 Này Đại Tuệ! Như Đại Bồ tát Kim Cương Tạng và các Đại Bồ tát khác thành tựu tướng công đức như vậy. 

 Này Đại Tuệ! Những Đại Bồ tát như vậy trụ ở tam muội Tam ma bạt đề lực trụ trì trong Sơ địa dùng lực thiện căn tu tập ở trăm ngàn vạn ức kiếp, theo thứ lớp như thật biết pháp tướng đối trị địa thành tựu. Đại Bồ tát đến Pháp Vân địa, trụ ở vương cung điện Đại Bảo Liên Hoa, ngồi lên tòa Sư Tử với Đại Bồ tát quyến thuộc đồng loại vây quanh, mũ báu, chuỗi ngọ trang nghiêm thân mình như vàng Diêm Phù Đàn, hoa Chiêm Bặc, ánh sáng mặt trời mặt trăng, hơn màu sắc của hoa sen.

 Lúc bấy giờ, tất cả các đức Phật mười phương đều duỗi tay ra, từ xa xoa đầu Đại Bồ tát trên vương tòa Liên hoa như vị thái tử được Tự Tại vương, Đế Thích vương, Chuyển Luân vương làm lễ quán đảnh trao ngôi vị. 

 Này Đại Tuệ! Vì Bồ tát được trao ngôi vị kia và những Đại Bồ tát quyến thuộc nương theo tay Như Lai xoa đầu nên được niềm vui toàn thân. Vậy nên nói rằng, lực trụ trì của tay xoa đầu Bồ tát

 Này Đại Tuệ! Đó gọi là hai thứ lực trụ trì của những Đại Bồ tát. Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ tát nương vào hai thứ lực trụ trì này nên có thể quan sát thân của tất cả các đức Như Lai

 Này Đại Tuệ! Nếu không hai thứ lực trụ trì thì chẳng được thấy các đức Phật Như Lai

 Này Đại Tuệ! Nếu các vị Đại Bồ tát lìa khỏi hai thứ lực trụ trì mà có thể nói pháp thì kẻ phàm phu ngu si cũng nên nói pháp. Vì sao vậy? Vì chẳng được lực trụ trì của các đức Phật

 Này Đại Tuệ! Nương theo lực trụ trì của các đức Như Lai nên núi sông, vách đá, cỏ cây, vườn rừng và đủ thứ kỹ nhạc, thành ấp, tụ lạc, cung điện, nhà cửa... đều có thể phát ra tiếng nói pháp, tự nhiên đều phát ra âm thanh kỹ nhạc

 Này Đại Tuệ! Huống gì là người có lòng, vô lượng chúng sinh điếc, mù, câm, ngọng lìa khỏi những khổ não

 Này Đại Tuệ! Lực trụ trì của các đức Phật Như Lai lợi ích không lường, an lạc chúng sinh!

 Bồ tát Đại Tuệ lại bạch đức Phật rằng : 

 - Thưa đức Thế Tôn! Vì sao khi các Đại Bồ tát vào tam muội Tam ma bạt đề và vào các Địa thì các đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri tạo tác lực trụ trì?

 Đức Phật bảo rằng :

 - Này Đại Tuệ! Vì hộ ma nghiệp phiền não tán loạn tâm, vì chẳng rơi vào cõi thiền định của Thanh Văn, vì nội thân chứng Như Lai địa, vì tăng trưởng nội thân chứng pháp. 

 Này Đại Tuệ! Vậy nên các đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các Bồ tát tạo tác lực trụ trì

 Này Đại Tuệ! Nếu các đức Như Lai chẳng vì Bồ tát tạo tác lực trụ trì thì rơi vào việc ma của các ngoại đạo, Thanh Văn, Bích Chi Phật, chẳng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vậy nên các đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri đại từ thu nhiếp lấy các vị Bồ tát.

 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ rằng :

 Bồ tát nương tự thân 

 Bản nguyện lực thanh tịnh 

 Vào tam muội thọ dần 

 Từ Sơ đến Thập địa

 Chư Phật nhân trung tôn

 Thần lực tạo trụ trì.

KINH NHẬP LĂNG GIÀ
- Quyển thứ ba hết-

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12468)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10334)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12316)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11613)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28769)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12020)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12975)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11424)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12341)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17422)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52973)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35454)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21353)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10662)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19203)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12381)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25979)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13291)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14342)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16057)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13705)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16812)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17525)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13104)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12506)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11583)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11573)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14469)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20391)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18932)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19514)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18592)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12157)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12282)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13822)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14949)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15017)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13957)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15496)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11374)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17132)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14933)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20160)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14590)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13803)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11675)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15021)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12968)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22831)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14532)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11614)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13142)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16847)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18310)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11924)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11480)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15816)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12855)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18874)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18379)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant