Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

08. Quyển Thứ Tám

16 Tháng Năm 201000:00(Xem: 5885)
08. Quyển Thứ Tám

KINH NHẬP LĂNG GIÀ
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy 
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

 

Quyển thứ tám
 
PHẨM THỨ MƯỜI BỐN: SÁT NA

 Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ tát lại bạch đức Phật rằng: 

 - Thưa đức Thế Tôn! Nguyện xin đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì con giải nói! Xin đấng Thiện Thệ vì con nói về tướng sinh diệt của tất cả pháp! Tại sao đức Như Lai nói, tất cả pháp từng niệm từng niệm chẳng trụ.

 Đức Phật bảo Bồ tát Đại Tuệ rằng:

 - Hay thay! Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông nay hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông giải nói!

 Ngài Đại Tuệ bạch rằng:

 - Hay thay! Thưa đức Thế Tôn! Xin vâng! Con xin thọ giáo!

 Đức Phật dạy rằng: 

 - Này Đại Tuệ! Tất cả pháp! Tất cả pháp là những cái gọi là, thiện pháp, bất thiện pháp, hữu vi pháp, vô vi pháp, thế gian pháp, xuất thế gian pháp, hữu lậu pháp, vô lậu pháp, nội pháp, ngoại pháp... Này Đại Tuệ! Lược nói pháp năm ấm nhân vào tâm ý, ý thức huân tập tăng trưởng. Những người phàm phu y vào tâm ý, ý thức huân tập nên phân biệt pháp thiện, pháp bất thiện

 Này Đại Tuệ! Thánh nhân hiện chứng Tam muội Tam ma bạt đề, hạnh ưa Thiện pháp. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Thiện pháp

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Nói rằng, pháp thiện, pháp bất thiện là gọi tám thức. Những gì là tám! Một là, A lê gia thức. Hai là, ý. Ba là, ý thức. Bốn là, nhãn thức. Năm là, nhĩ thức. Sáu là, tỵ thức. Bảy là, thiệc thức. Tám là, thân thức

 Này Đại Tuệ! Năm thức thân chung với ý thức thân đối với pháp thiện, pháp bất thiện đắp đổi sai biệt tương tục, thể không thân sai biệt, thuận theo sinh pháp sinh ra rồi trở lại diệt, chẳng biết tự tâm thấy cảnh giới hư vọng tức là lúc diệt, có thể thủ lấy tình trạng cảnh giới, hình tướng lớn nhỏ, thắng hơn hay ngang bằng. 

 Này Đại Tuệ! Ý thức chung với năm thức thân tướng ứng sinh ra thời gian một niệm chẳng trụ. Vậy nên ta nói, niệm thời của pháp đó chẳng trụ. 

 Này Đại Tuệ! Nói sat-ni-ca thì gọi đó là Không (trống không) A lê gia thức gọi là Như Lai Tạng không chung với ý chuyển thức huân tập nên gọi là không, pháp huân tập vô lậu đầy đủ gọi là bất không. Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si chẳng giác, chẳng tri chấp trước các pháp sát-na chẳng trụ, rơi tại tà kiến mà nói lời này: “Pháp vô lậu cũng sát-na chẳng trụ”, phá Chân như Như Lai Tạng đó. 

 Này Đại Tuệ! Năm thức thân chẳng sinh ra sáu đường, chẳng thọ khổ vui, chẳng tạo tác nhân của Niết Bàn

 Này Đại Tuệ! Như Lai Tạng chẳng thọ khổ vui, chẳng phải nhân của sinh tử, còn pháp khác thì cộng sinh, cộng diệt, y vào bốn thứ huân tập say sưa mà các phàm phu chẳng giác chẳng tri, huân tập tà kiến, nói rằng, tất cả pháp sát na chẳng trụ. 

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Kim Cương Như Lai Tạng, Như Lai chứng pháp chẳng phải sát na chẳng trụ. Này Đại Tuệ! Như Lai chứng pháp, nếu sát na chẳng trụ thì tất cả Thánh giả chẳng thành Thánh nhân. Này Đại Tuệ! Chẳng phải phi Thánh nhân do Thánh nhân vậy. Này Đại Tuệ! Kim Cương trụ ở một kiếp xưng bằng trụ không lường, chẳng tăng chẳng giảm. 

 Này Đại Tuệ! Làm sao kẻ phàm phu ngu si phân biệt các pháp rằng, sát na chẳng trụ mà các phàm phu chẳng được ý của ta, chẳng giác chẳng tri các pháp trong ngoài từng niệm từng niệm chẳng trụ!

 Ngài Đại Tuệ bạch đức Phật rằng: 

 - Thưa đức Thế Tôn! Đức Như Lai thường nói, đủ đầy sáu pháp Ba la mật, được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thưa đức Thế Tôn! Những gì là sáu Ba la mật! Làm sao đủ đầy!

 Đức Phật bảo Bồ tát Đại Tuệ rằng:

 - Này Đại Tuệ! Ba la mật sai biệt có ba thứ, gọi là: Thế gian Ba la mật, xuất thế gian Ba la mật, xuất thế gian Thượng thượng Ba la mật

 Này Đại Tuệ! Nói rằng, Thế gian Ba la mậtphàm phu ngu si chấp trước pháp ngãngã sở, rơi vào nhị biên, vì đủ thứ cảnh giới thắng diệu mà hành Ba la mật, cầu quả báo cảnh giới ở sắc.v.v... 

 Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si hành Thi Ba la mật, Sằn đề Ba la mật, Tỳ lê gia Ba la mật, Thiền Ba la mật, Bát nhã Ba la mật... cho đến sinh ở Phạm thiên cầu pháp năm thần thông thế gian. Này Đại Tuệ! Đó gọi là những Ba la mật của thế gian

 Này Đại Tuệ! Nói rằng xuất thế gian Ba la mật là gọi Thanh Văn, Bích Chi Phật chọn lấy tâm Niết Bàn của Thanh Văn, Bích Chi Phậttu hành Ba la mật. Này Đại Tuệ! Như kẻ phàm phu ngu si thế gian kia vì ở tự thân cầu niềm vui Niết Bàn mà làm hạnh Ba la mật của thế gian. Thanh Văn, Duyên Giác cũng lại như vậy, vì tự thân nên cầu niềm vui Niết Bàntu hành hạnh Ba la mật xuất thế gian mà cầu niềm vui chẳng phải cứu cánh đó. 

 Này Đại Tuệ! Xuất thế gian Thượng thượng Ba la mật là có thể như thật biết, chỉ là tự tâm hư vọng phân biệt thấy cảnh giới bên ngoài. Bấy giờ biết quả thật chỉ là tự tâm thấy pháp trong ngoài, chẳng phân biệt hư vọng phân biệt, chẳng thủ lấy sắc tướng tự tâm trong ngoài. Đại Bồ tát có thể biết như thật tất cả pháp nên hành Đàn Ba la mật, vì khiến cho tất cả chúng sinh được niềm vui yên ổn, không kinh sợ. Đó gọi là Đàn Ba la mật

 Này Đại Tuệ! Bồ tát quan sát tất cả các pháp đó chẳng sinh ra phân biệttùy thuận thanh lương. Đó gọi là Thi Ba la mật

 Này Đại Tuệ! Bồ tát lìa khỏi tâm phân biệt mà nhẫn nhịn. Bồ tát đó tu hành như thật mà biết cảnh giới năng thủ, khả thủ chẳng phải thật thì đó gọi là Sằn đề Ba la mật của Bồ tát

 Này Đại Tuệ! Bồ tát làm sao tu tinh tấn hạnh! Đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm thường siêng năng tu hành, thuận theo pháp như thật, đoạn các phân biệt. Đó gọi là Tỳ lê gia Ba la mật

 Này Đại Tuệ! Bồ tát lìa khỏi tâm phân biệt, chẳng thuận theo tướng cảnh giới năng thủ khả thủ của ngoại đạo thì đó gọi là Thiền Ba la mật

 Này Đại Tuệ! Bát nhã Ba la mật của Bồ tát là gì! Bồ tát như thật quan sát tướng tự tâm phân biệt, chẳng thấy phân biệt chẳng rơi vào nhị biên, nương vào sự tu hành như thậtchuyển biến thân, chẳng thấy một pháp nào sinh ra, chẳng thấy một pháp nào diệt đi, tự thân nội chứng Thánh hạnh tu hành. Đó gọi là Bát nhã Ba la mật của Bồ tát

 Này Đại Tuệ! Nghĩa Ba la mật đủ đầy như vậy thì được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ rằng:

 Không, vô thường sát na

 Ngu phân biệt hữu vi 

 Như sông, đèn, hạt giống

 Không, vô thường sát na.

 Nghĩa sát na phân biệt 

 Cũng như vậy sát na

 Chẳng sinh, sát-ni-ca 

 Tịch tịnh lìa sở tác.

 Mọi pháp chẳng sinh ra 

 Ta nói, nghĩa sát na

 Vật sinh tức có diệt 

 Chẳng nói vì phàm phu.

 Phân biệt pháp tương tục(nối tiếp nhau) 

Vọng tưởng thấy sáu đường

 Nếu vô minh là nhân 

 Hay sinh những tâm ấy

 Cho đến sắc chưa sinh 

 Trung gian nương đâu trụ!

 Có diệt tức có sinh 

Còn tâm theo đó sinh

 Sắc chẳng một niệm trụ 

 Quan sát pháp gì sinh!

 Nương nhân nào sinh pháp!

 Tâm không nhân mà sinh

 Vậy nên sinh chẳng thành!

 Làm sao biết niệm hoại!

 Chứng định, người tu hành

 Kim Cương Phật xá lợi

 Cung điện Quang Âm thiên

 Việc thế gian chẳng hoại

 Chân như chứng pháp chân (thật) 

Trí Như Lai thành tựu 

 Tỳkheo, bình đẳng thành

 Làm sao niệm chẳng trụ!

 Huyễn, Càn thát bà thành...

 Vì sao niệm chẳng trụ!

 Không bốn đại thấy sắc 

 Thì bốn đại làm gì!

 

PHẨM THỨ MƯỜI LĂM: HÓA

 Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ tát lại bạch đức Phật rằng: 

 - Thưa đức Thế Tôn! Như đức Phật Thế Tôn cho các vị La Hán thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đức Như Lai lại nói, các đức Phật Như Lai chẳng vào Niết Bàn, lại nói, Như Lai Ứng Chánh Biến Tri đêm nào đó chứng Đại Bồ tát, đêm nào đó vào Bát Niết Bàn và ở khoảng giữa ấy chẳng nói một chữ. Đức Như Lai lại nói, các đức Phật Như Lai thường vào định Vô giác Vô quán Vô phân biệt, lại nói, làm đủ thứ những ứng hóa độ các chúng sinh. Đức Thế Tôn lại nói, các thức sai khác từng niệm từng niệm chẳng trụ, Kim Cương Mật Tích thường theo thị vệ. Ngài lại nói, bản tế của thế gian khó biết, lại nói rằng, chúng sinh vào Bát Niết Bàn, mà nếu vào Niết Bàn thì nên có bản tế. Ngài lại nói, các đức Phật không có oán địch, mà thấy có các ma, lại nói, Như Lai đoạn tất cả chướng, nhưng mà thấy Chiên già, Ma na tỳ, Tôn đà lê.v.v... bài báng. Đức Phật vào thôn Ta lê na rốt cuộc chẳng được ăn, mang bát không mà đi ra. 

 Thưa đức Thế Tôn! Nếu như vậy thì đức Như Laitội nghiệp không lường. Làm sao đức Như Lai chẳng lìa khỏi tất cả những tội lỗi ác mà được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác! Được Nhất Thiết Chủng Trí!

 Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát rằng:

 - Hay thay! Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông nay hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông giải nói!

 Ngài Đại Tuệ bạch đức Phật rằng: 

 - Hay thay! Thưa đức Thế Tôn! Thưa vâng, con xin thọ giáo!

 Đức Phật dạy rằng: 

 - Này Đại Tuệ! Ta vì các Thanh Văn.v.v... từng hành hạnh Bồ tát, y vào Vô Dư Niết Bàn mà cho thọ ký. Này Đại Tuệ! Ta cho Thanh Văn thọ ký là vì chúng sinh khiếp nhược làm cho họ sinh ra lòng dũng mãnh

 Này Đại Tuệ! Trong thế giới này và những nước Phật khác, có các chúng sinh làm hạnh Bồ tátưa thích hạnh của pháp Thanh Văn. Vì chuyển cho họ chọn lấy Đại Bồ Đề nên ứng hóa Phật vì ứng hóa Thanh Văn thọ ký, chẳng phải là báo thân Phật, pháp thân Phật mà trao ký biệt

 Này Đại Tuệ! Niết Bàn của Thanh Văn, Bích Chi Phật không sai khác. Vì sao vậy! Vì đoạn phiền não không sai khác, đoạn phiền não chướng chẳng phải đoạn trí chướng. 

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Thấy Pháp vô ngã thì đoạn được trí chướng. Thấy nhân (người) vô ngã thì đoạn phiền não chướng. Này Đại Tuệ! Chuyển ý thức nên đoạn pháp chướng, nghiệp chướng. Do chuyển A la gia thức huân tập của ý nên cứu cánh thanh tịnh

 Này Đại Tuệ! Ta thường y vào thể của bản pháp mà trụ lại chẳng sinh ra pháp, y vào bản danh tự chương cú chẳng giác, chẳng suy nghĩ mà nói các pháp. Này Đại Tuệ! Như Lai thường như ý biết, thường chẳng mất niệm, vậy nên Như Lai không giác, không quán. Các đức Phật Như Lai lìa khỏi bốn thứ Địa (?) rồi thì xa lìa hai thứ chết, hai thứ chướng, hai thứ nghiệp vậy. 

 Này Đại Tuệ! Bảy thứ thức ý, ý thức, nhãn, nhĩ, tỵ, thiệc, thân từng niệm từng niệm chẳng trụ, nhân vào hư vọng huân tập lìa khỏi các thiện pháp vô lậu. Này Đại Tuệ! Như Lai Tạng thế gian chẳng sinh, chẳng tử, chẳng lại, chẳng đi, thường hằng, thanh lương, bất biến

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Y vào Như Lai Tạng nên có thế gian, Niết Bàn, nhân của khổ vui mà các phàm phu chẳng giác, chẳng tri mà rơi vào trống không, hư vọng, điên đảo

 Này Đại Tuệ! Kim Cương Mật Tích thường theo thị vệ, vây quanh trước sau đức Ứng Hóa Như Lai, chẳng phải pháp thân Phật, báo thân Phật, căn bản Như Lai Ứng Chánh Biến Tri

 Này Đại Tuệ! Căn bản Như Lai xa lìa các căn lớn nhỏ, các lượng, xa lìa tất cả phàm phu, Thanh Văn, Bích Chi Phật.v.v... Này Đại Tuệ! Người như thật tu hành được cảnh giới Chân như lạc hạnh đó thì biết căn bản Phật do được Bình Đẳng pháp nhẫn. Vậy nên Kim Cương Mật Tích theo Ứng Hóa Phật. 

 Này Đại Tuệ! Ứng Hóa Phật thì không nghiệp, không bài báng mà Ứng Hóa Phật chẳng khác Pháp Phật, Báo Phật Như Lai mà cũng chẳng là một. Như thợ gốm, muối.v.v... làm việc làm, Ứng Hóa Phật làm việc hóa chúng sinh khác tướng chân thật nói pháp, chẳng nói cảnh giới Nội sở chứng pháp Thánh trí. Lại nữa, này Đại Tuệ! Tất cả phàm phu, ngoại đạo, Thanh Văn, Bích Chi Phật.v.v... thấy sáu thức diệt thì rơi vào Đoạn kiến, chẳng thấy A lê gia thức thì rơi vào Thường kiến. Lại nữa, này Đại Tuệ! Chẳng thấy tự tâm phân biệt bản tế, vậy nên thế gian gọi là không bản tế

 Này Đại Tuệ! Xa lìa tự tâm phân biệt thấy thì gọi là giải thoát, được Niết Bàn chứng. Này Đại Tuệ! Các đức Phật Như Lai xa lìa bốn thứ huân tập khí (hơi), vậy nên không lỗi.

 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ rằng:

 Ba thừa và phi thừa 

 Chư Phật vô lượng thừa

 Tất cả ký Phật địa 

Nói đoạn các phiền não 

 Chứng Thánh trí nội thân

 Và Vô dư Niết Bàn

 Dỗ tiến chúng sinh khiếp(sợ)

 Vậy nên nói ẩn tàng

 Như Lai được chứng trí 

 Cũng nói đến đạo trên (đó)

 Chúng sinh nương vào đạo

 Nhị Thừa không Niết Bàn.

 Thấy Dục, Sắc và Hữu 

 Và bốn thứ Địa huân (tập)

 Ý thức cũng sở sinh 

 Thấy ý thức chung trụ.

 Thấy ý nhãn thức... thường

 Và vô thường, đoạn diệt

 Thường kiến theo ý... nương

 Mà khởi Niết Bàn kiến.

 

 

PHẨM THỨ MƯỜI SÁU: NGĂN ĂN THỊT

 Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ tát bạch đức Phật rằng: 

 - Thưa đức Thế Tôn! Con quan sát thế gian, sinh tử lưu chuyển, oán kết liền nhau, rơi vào các đường ác, đều do ăn thịt, giết hại lẫn nhau, tăng trưởng tham sân, chẳng được ra khỏi, rất là quá khổ. 

 Thưa đức Thế Tôn! Người ăn thịt cắt đứt giống Đại Từ. Người tu đạo Thánh thì chẳng nên được ăn thịt! Thưa đức Thế Tôn! Các ngoại đạo.v.v... nói pháp tà kiến Lô Ca Gia Đà, rơi vào luận của thế tục rơi, rơi vào trong hai kiến đoạn - thường, hữu vô, đều ngăn ăn thịt, tự mình chẳng ăn, chẳng cho phép người khác ăn. Tại sao trong pháp thanh tịnh của Như Lai, người tu phạm hạnh thì tự ăn, cho phép người khác ăn, tất cả chẳng cấm chế! Đức Như Lai Thế Tôn đối với các chúng sinh từ bi hạng nhất thì tại sao mà cho phép dùng thịt làm thức ăn! Hay thay! Thưa đức Thế Tôn! Ngài thương xót thế gian, nguyện xin vì con nói về lỗi của sự ăn thịtcông đức của sự chẳng ăn thịt! Con và những Bồ tát nghe rồi, được y vào đó tu hành như thật và tuyên nói, lưu bố rộng rãi, khiến cho chúng sinh hiện tạivị lai, tất cả đều thức tri!

 Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát rằng:

 - Hay thay! Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông đại từ bi thương xót chúng sinh nên có thể hỏi ý nghĩa này! Ông nay hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông giải nói!

 Bồ tát Đại Tuệ bạch đức Phật rằng: 

 - Hay thay! Thưa đức Thế Tôn! Thưa vâng, con xin thọ giáo!

 Đức Phật dạy rằng: 

 - Này Đại Tuệ! Luận về ăn thịt thì có lỗi không lường! Các Đại Bồ tát tu đại từ bi thì chẳng được ăn thịt! Tội lỗicông đức của ăn thịt cùng chẳng ăn thịt, ta sẽ nói lên một phần ít. Ông nay hãy lắng nghe! Này Đại Tuệ! Ta quan sát chúng sinh từ vô thỉ đến nay đã quen ăn thịt, tham trước vị thịt, lại giết hại nhau, xa lìa hiền thánh, chịu khổ sinh tử. Người xả bỏ vị thịt, nghe vị chánh pháp, ở Bồ tát địa như thật tu hành thì mau chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lại khiến cho chúng sinh vào đến chỗ chỉ tức của Thanh Văn, Bích Chi Phật. Chỉ tức rồi thì khiến cho vào Như Lai địa

 Này Đại Tuệ! Những lời như vậy lấy từ tâm làm gốc. Người ăn thịt cắt đứt giống đại từ thì làm sao sẽ được lợi lớn như vậy! Vậy nên, này Đại Tuệ! Ta quan sát chúng sinh luân hồi sáu đường, đồng ở tại sinh tử, chung nhau nuôi sống, đắp đổi làm cha mẹ, anh em, chị em, hoặc nam, hoặc nữ trúng vào số người lục thân quyến thuộc nội ngoại, hoặc sinh vào đường khác, đường thiện, đường ác, thường làm quyến thuộc. Do nhân duyên đó, ta quan sát chúng sinh ăn thịt lẫn nhau thì không ai là chẳng phải người thân! Do tham vị thịt, họ đắp đổi ăn lẫn nhau, thường sinh tâm ác hại, tăng trưởng nghiệp khổ, lưu chuyển trong sinh tử, chẳng được ra khỏi.

 Khi đức Phật nói lời này thì các ác La sát nghe lời nói của đức Phật đều xả ác tâm, dừng lại chẳng ăn thịt, đắp đổi khuyên nhau phát tâm từ bi, hộ trì mạng của chúng sinh quá hơn tự hộ thân mình, lìa bỏ tất cả những thứ thịt, chẳng ăn nữa, buồn khóc rơi nước mắt mà bạch đức Phật rằng: 

 - Thưa đức Thế Tôn! Con nghe lời nói đức Phật, quan sát kỹ sáu đường, thịt mà con ăn đều chính là người thân của con, mới biết ăn thịt chúng sinh là đại oán, cắt đứt giống Đại từ, lớn thêm nghiệp bất thiện, chính là gốc của đại khổ. Thưa đức Thế Tôn! Từ ngày hôm nay, con chấm dứt, chẳng ăn thịtquyến thuộc của con cũng chẳng được phép ăn. Đệ tử của đức Như Lai có người chẳng ăn thịt thì con sẽ ngày đêm gần gũi ủng hộ. Nếu có người ăn thịt thì con sẽ làm cho họ chẳng được nhiều lợi ích!

 Đức Phật nói rằng:

 - Này Đại Tuệ! Quỷ ác La sát là loài thường ăn thịtnghe lời nói của ta còn phát từ tâm, bỏ thịt chẳng ăn, huống là đệ tử của ta tu hành thiện pháp mà được phép ăn thịt ư! Nếu có người ăn thịt thì phải biết kẻ đó tức là đại oán của chúng sinh, cắt đứt Thánh chủng của ta. 

 Này Đại Tuệ! Nếu đệ tử của ta nghe lời nói của ta, chẳng quan sát kỹ càng mà ăn thịt thì phải biết người đó chính là dòng giống Chiên đà la, chẳng phải đệ tử của ta, ta chẳng phải là thầy của người ấy. Vậy nên, này Đại Tuệ! Nếu muốn cùng ta làm quyến thuộc thì tất cả các thứ thịt đều chẳng nên ăn!

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Bồ tát nên quan sát tất cả thịt đó đều y vào máu mũ bất tịnh đỏ trắng của cha mẹ hòa hợp mà sinh ra thân bất tịnh. Vậy nên Bồ tát quan sát thịt bất tịnh, chẳng nên ăn thịt.

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Người ăn thịt thì chúng sinh nghe thấy hơi đều kinh sợ, chạy trốn tránh xa. Vậy nên Bồ tát tu hạnh như thậthóa độ chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt

 Này Đại Tuệ! Ví như Chiên đà la, thợ săn, người giết mổ, người đánh cá, kẻ bắt chim... tất cả hành xử của họ mà chúng sinh thấy từ xa đều khởi lên ý nghĩ như vầy: “Ta nay nhất định chết mà người đi đến này chính là người đại ác, chẳng nhận thức được tội phước, cắt đứt mạng của chúng sinh, cầu lợi hiện tiền, nay đi đến đây, vì tìm kiếm chúng ta. Nay thân của chúng ta đều có thịt. Vậy nên nay chúng ta nhất định sẽ chết”. 

 Này Đại Tuệ! Do người ăn thịt có thể khiến cho chúng sinh nhìn thấy đều sinh ra kinh sợ như vậy. Này Đại Tuệ! Tất cả chúng sinh trong hư không, trên đất thấy người ăn thịt đều sinh ra kinh sợ mà khởi lên ý niệm nghi ngờ: “Đến hôm nay thì ta sống hay chết đây! Như vậy người ác chẳng tu từ tâm cũng như loài sài lang du hànhthế gian thường tìm kiếm thịt ăn như trâu ăn cỏ, bọ hung ăn phân... chẳng biết no đủ. Thân ta là thịt chính là thức ăn của chúng, chẳng nên cho chúng nhìn thấy”. Chúng sinh đó liền bỏ chạy trốn, tránh xa những kẻ giết hại ấy, như người sợ sệt La sát không khác. 

 Này Đại Tuệ! Người ăn thịt có thể khiến cho chúng sinh thấy thì đều sinh ra kinh sợ như vậy. Ông phải biết ăn thịt chúng sinh là đại oán! Vậy nên Bồ tát tu hành từ bi, vì nhiếp lấy chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt họ, chẳng phải vị ăn của người Thánh tuệ, danh tiếng ác lưu bố, Thánh nhân quở trách. Vậy nên, này Đại Tuệ! Bồ tát vì nhiếp lấy các chúng sinh nên chẳng nên ăn thịt.

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Bồ tát vì hộ lòng tin của chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt. Vì sao vậy! Này Đại Tuệ! Vì nói rằng, Bồ tát thì chúng sinh đều biết chính là hạt giống từ tâm của Phật Như Lai, có thể cùng chúng sinh tạo tác chỗ qui y, người nghe tự nhiên chẳng sinh ra nghi ngờ, kinh sợ mà sinh ra thân hữu tưởng, thiện tri thức tưởng, bất bố úy tưởng... còn nói rằng, được chỗ qui y, được chỗ yên ổn, được thầy dẫn đường tốt. 

 Này Đại Tuệ! Do chẳng ăn thịt, có thể sinh ra lòng tin của chúng sinh như vậy, còn nếu ăn thịt thì chúng sinh liền mất đi tất cả lòng tin và liền nói rằng, thế gian không có người có thể tin được. Họ liền cắt đứt tín căn. Vậy nên, này Đại Tuệ! Bồ tát vì hộ lòng tin của chúng sinh thì tất cả các thứ thịt đều chẳng nên ăn.

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Các đệ tử của ta vì hộ thế gian, ngăn bài báng Tam Bảo nên chẳng nên ăn thịt. Vì sao vậy! Vì thế gian có người thấy ăn thịt nên hủy báng Tam Bảo nói lên lời như vầy: Ở trong Phật pháp, chỗ nào sẽ có Sa môn, Bàlamôn tu phạm hạnh chân thật thì bỏ món nên ăn gốc của Thánh nhânăn thịt chúng sinh giống như La sát ăn thịt no bụng ngủ say chẳng động, y vào phàm nhân ở đời, giàu có thế lực, tìm kiếm thịt để ăn như vua La sát làm kinh sợ chúng sinh. Vậy nên, nơi nơi xướng lên lời như vầy: Chỗ nào có Sa môn, Bà la môn tu tịnh hạnh chân thật thì chỗ đó không pháp, không Sa môn, không Tỳ ni, không người tịnh hạnh. Sinh ra vô lượng vô biên lòng ác, chẳng lành như vậy.v.v... đoạn dứt pháp luân của ta, tuyệt diệt Thánh chủng... tất cả đều do lỗi của người ăn thịt. Vậy nên, này Đại Tuệ! Đệ tử của ta vì hộ người ác hủy báng Tam Bảo, thậm chí chẳng nên sinh ra ý niệm “nhục tưởng”, huống gì là ăn thịt.

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Bồ tát vì cầu cõi Phật thanh tịnh, giáo hóa chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt mà nên quan sát các thứ thịt như thây chết của người, mắt chẳng muốn thấy, chẳng dùng nghe hơi, huống gì có thể ngửi mà đặt vào trong miệng. Tất cả các thứ thịt cũng lại như vậy. 

 Này Đại Tuệ! Như thiêu đốt thây chết mùi hơi thối bất tịnh cùng với thiêu đốt thịt khác, thối bẩn không khác thì làm sao trong đó có đồ ăn hay chẳng có đồ ăn! Vậy nên, này Đại Tuệ! Bồ tát vì cầu cõi Phật thanh tịnh giáo hóa chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt.

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Bồ tát vì cầu lìa khỏi sinh tử nên phải chuyên tâm niệm hạnh từ bi, thiểu dục tri túc, chán khổ thế gian, mau cầu giải thoát, phải bỏ rối loạn ồn ào, đến với không nhàn, trụ ở rừng thây chết, chỗ A lan nhã, vùng tha ma, ngồi một mình dưới gốc cây suy nghĩ, quan sát các thế gian, không có một thứ gì đáng vui: Vợ con quyến thuộc tưởng như cùm khóa, cung điện đài quán tưởng như lao ngục, quan sát những trân bảo tưởng như đống phân, thấy đồ ăn thức uống tưởng như mũ máu, nhận đồ ăn thức uống như bôi thuốc trị ung nhọt, mục đích được toàn mạng, buộc niệm vào Thánh đạo, chẳng vì tham vị. Rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi, nén (kiệu)... mùi hôi đều bỏ chẳng ăn. 

 Này Đại Tuệ! Nếu người như vậy thì chính là người tu hành chân chính, đủ sức thọ sự cúng dường của tất cả người trời. Nếu ở thế gian chẳng sinh chán lìa, tham trước nhiều vị: rượu, thịt, cay, nồng... có được liền ăn ngấu nghiến thì chẳng nên nhận của tín thíthế gian

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Có các chúng sinhquá khứ từng tu vô lượng nhân duyên, có thiện căn nhỏ, được nghe pháp của ta. Kẻ tín tâm xuất gia ở tại trong pháp của ta mà đời quá khứ từng làm quyến thuộc của La sát, sinh ra trong loài cọp, sói, sư tử, mèo, chồn thì tuy ở tại pháp ta nhưng tập quán ăn thịt còn nên thấy người ăn thịt thì vui mừng, gần gũi. Họ vào trong thành ấp, tụ lạc, tháp chùa mà uống rượu, ăn thịt, lấy làm hoan lạc. Nhưng người trong thiên hạ xem họ giống như quỉ La sát dành ăn thây chết bằng nhau, không có khác mà chẳng tự biết, rồi đánh mất chúng của ta, thành quyến thuộc của La sát. Họ tuy mặc áo cà sa, cạo bỏ râu tóc nhưng kẻ có mạng nhìn thấy họ thì lòng sinh kinh sợ như sợ La sát. Vậy nên, này Đại Tuệ! Nếu kẻ thờ ta làm thầy thì tất cả các thứ thịt đều chẳng nên ăn.

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Những thầy chú thuật của thế gian tà kiến mà nếu họ ăn thịt thì chú thuật chẳng thành. Vì để thành tà thuật mà còn chẳng ăn thịt, huống là đệ tử của ta vì cầu đạo Thánh Vô Thượng của Như Lai, cầu xuất thế giải thoát! Tu đại từ bi, tinh cần khổ hạnh còn sợ chẳng được thì chỗ nào sẽ có giải thoát như vậy vì người ngu si đó ăn thịt mà được! Vậy nên, này Đại Tuệ! Những đệ tử của ta vì cầu niềm vui giải thoát xuất thế thì chẳng nên ăn thịt.

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Ăn thịt có thể khởi sắc lực, người ăn vị nhiều tham trước nên phải quan sát kỹ càng! Tất cả thế gian kẻ có thân mạng đều tự quí trọng, sợ nỗi khổ chết, hộ tiếc thân mạng, người và súc vật không khác biệt, thà phải ưa tồn tại tấm thân ghẻ lở hoang dã, chẳng thể bỏ mạng để thọ những niềm vui của trời. Vì sao vậy! Vì sợ khổ của cái chết vậy. 

 Này Đại Tuệ! Do sự quan sát chết đó là khổ lớn, chính là pháp đáng sợ, tự thân sợ chết thì làm sao mà phải ăn thịt người khác được! Vậy nên, này Đại Tuệ! Muốn ăn thịt thì trước tự nghĩ đến thân, thứ đến là quan sát chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt.

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Phàm người ăn thịt thì chư thiên xa lìa, huống gì là Thánh nhân!! Vậy nên Bồ tát vì thấy Thánh nhân phải tu từ bi, chẳng nên ăn thịt. Này Đại Tuệ! Người ăn thịt ngủ nghĩ cũng khổ, khi thức dậy cũng khổ. Hoặc ở trong mơ, thấy đủ thứ ác, kinh sợ dựng tóc gáy, lòng luôn bất an. Không có lòng từ nên thiếu thốn các thiện lực. Nếu người ấy, một mình ở chỗ không nhàn thì bị nhiều phi nhân, rình mò tìm cơ hội, cọp, sói, sư tử cũng đến rình mò muốn tìm cơ hội mà ăn thịt, lòng luôn kinh sợ chẳng được yên ổn.

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Lòng tham của những kẻ ăn thịt khó thỏa mãn, ăn chẳng biết lường, chẳng thể tiêu hóa, tăng thêm bốn đại, hơi của miệng tanh tao, lại bên trong có nhiều ác trùng không lường, thân nhiều ghẻ lở, hắc lào, bệnh tật đủ thứ, chẳng sạch, phàm phu hiện tại chẳng ưa nghe thấy, huống gì là có thể được thân người thơm sạch không bệnh trong đời vị lai

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta nói, kẻ phàm phu vì cầu tịnh mạng mà ăn tịnh thực còn nên sinh ra lòng tưởng như ăn thịt con, huống gì là cho phép ăn chẳng phải đồ ăn của Thánh nhân. Thánh nhân lìa khỏi thì dùng thịt có thể sinh ra vô lượng những lỗi, mất đi tất cả công đức xuất thế thì làm sao nói rằng, ta cho phép những đệ tử của ta ăn những thứ thịt, máu vị bất tịnh.v.v... Kẻ nói rằng, ta cho phép thì tức là bài báng ta. 

 Này Đại Tuệ! Ta cho phép đệ tử ăn đồ ăn mà các Thánh nhân ăn, chẳng phải là Thánh nhân xa lìa đồ ăn. Thức ăn của Thánh có thể sinh ra vô lượng công đức, xa lìa các tội lỗi

 Này Đại Tuệ! Thức ăn của Thánh nhân quá khứhiện tại như là gạo lúa nước, đại mạch, tiểu mạch, đậu, đủ thứ dầu, mật, cây mía, nước cốt cây mía, bột kiển đà, can đề.v.v... tùy lúc được thì cho phép ăn vì sạch. 

 Này Đại Tuệ! Ở đời vị lai, có người ngu si nói đủ thứ Tỳ ni rằng, được ăn thịt. Nhân ở đời quá khứ người ấy huân tập ăn thịt, ái trước vị thịt, tùy theo tâm mình thấy nên nói lời như vậy, chẳng phải Phật, Thánh nói vì món ăn ngon

 Này Đại Tuệ! Chẳng ăn thịt thì nhân vào quá khứ, cúng dường chư Phật, gieo trồng căn lành, có thể tin lời của Phật, kiên trụ Tỳ ni, tin các nhân quả, đến với thân miệng có thể tự tiết chế, điều lượng, chẳng vì tham trước các vị của thế gian. Thấy người ăn thịt có thể sinh từ tâm

 Này Đại Tuệ! Ta nhớ, thuở quá khứ, có vị vua tên là Sư Tử Nô ăn đủ thứ thịt, ái trước vị của thịt, theo thứ lớp thậm chí ăn cả thịt người. Nhân vì vua ấy ăn thịt người nên cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc đều xa lìa hết. Tất cả thần dân trong đất nước, tụ lạc đều liền mưu phản, cùng chung cắt đứt mạng của vua ấy. Do người ăn thịt có những lỗi như vậy. Vậy nên chẳng nên ăn tất cả thịt. 

 Lại nữa, này Đại Tuệ! Vua trời Tự Tại hóa thân làm chim câu. Thích Đề Hoàn Nhân là chúa của chư thiên, nhân tập khí ăn thịt ở đời quá khứ nên hóa thân làm chim ưng đuổi bắt chim bồ câu này. Chim bồ câu bay đến đậu vào ta. Lúc bấy giờ, ta làm Thi Tỳ Vương, thương xót chúng sinh ăn nuốt nhau nên cân thịt của thân mình cho chim ưng thay cho thịt bồ câu, cắt thân thịt chẳng đủ đặt lên trên cân, chịu khổ não lớn. 

 Này Đại Tuệ! Như vậy từ vô lượng đời đến nay huân tập ăn thịt, thân mình, thân người khác có lỗi như vậy, huống gì là người thường ăn thịt không hổ thẹn

 Này Đại Tuệ! Lại có vị vua khác chẳng ăn thịt thì cưỡi ngựa dạo chơi, vì ngựa nổi kinh sợ, dẫn vào núi sâu, thất lạc thị tùng, chẳng biết đường về. Vì vua ấy chẳng ăn thịt nên sư tử, cọp, sói nhìn thấy không có lòng hại, rồi cùng với sư tử cái chung làm dục sự, cho đến sinh ra con là Ban Túc Vương.v.v... Do đời quá khứ huân tập ăn thịt và làm nhân vương cũng thường ăn thịt, ở tại thôn Thất Gia, nhiều người ưa ăn thịt, ăn thịt thái quá liền ăn cả thịt người nên họ sinh ra những con trai, con gái hầu hết là La sát

 Này Đại Tuệ! Chúng sinh ăn thịt y vào quá khứ huân tập ăn thịt nên phần nhiều sinh vào trong những loài La sát, sư tử, cọp, sói, báo, mèo, chồn, cú vọ, diều hâu, chim ưng.v.v... Những loài có thân mạng đều tự hộ thân, chẳng cho chúng được tiện lợi. Chịu khổ đói khát thì thường sinh ra ác tâm, nghĩ đến việc ăn thịt kẻ khác, mạng chung lại rơi vào đường ác, thọ sinh thân người khó được, huống gì là sẽ có được đạo Niết Bàn

 Này Đại Tuệ! Ông phải biết, người ăn thịtvô lượng những tội lỗi như vậy. Người chẳng ăn thịt thì tức là gom tụ công đức không lường. 

 Này Đại Tuệ! Mà các phàm phu chẳng biết tội lỗi của ăn thịtcông đức của chẳng ăn thịt như vậy. Ta nay lược nói về chẳng cho phép ăn thịt! 

 Này Đại Tuệ! Nếu tất cả mọi người chẳng ăn thịt thì cũng không có người giết hại chúng sinh. Do người ăn thịt nếu chẳng có ăn thì đi khắp nơi nơi tìm mua, người vì tài lợi thì giết để buôn bán. Vì người mua nên giết, vậy nên người mùa cùng người giết không khác. Vậy nên ăn thịt có thể làm chướng ngại đạo Thánh. 

 Này Đại Tuệ! Người ăn thịt ái trước vị thịt, đến nỗi không có vật nuôi thì ăn cả thịt người, huống gì là hươu, nai, trĩ, thỏ, ngỗng, heo, dê, gà, chó, lạc đà, lừa, voi, ngựa, rồng, rắn, cá, ba ba... loài có sinh mạng sống dưới nước, trên đất đã bắt được mà chẳng ăn! Do ái trước vị thịt nên thiết lập các phương tiện giết hại chúng sinh, tạo tác đủ thứ lưới giăng, cạm bẫy... Lưới bao núi, lưới giăng dưới đất, ngăn sông, chận biển... khắp nơi trên đất, trong nước đều vây lưới, đặt bẫy, đào hầm hố, đặt cung, dao, tên độc... xen lẫn không còn chỗ trống. Đủ thứ chúng sinh sống trong hư không, trên đất, dưới nước đều bị giết hại vì ăn thịt vậy. 

 Này Đại Tuệ! Thợ săn, kẻ giết mổ, người ăn thịt.v.v.. lòng ác bền vững có thể làm điều bất nhẫn, thấy hình thể chúng sinh béo tốt, da thịt mơn mởn thì sinh lòng “thực vị”, lại chỉ thị cho nhau rằng, của này có thể ăn, lòng chẳng sinh một ý niệm bất nhẫn. Vậy nên ta nói, người ăn thịt đoạn giống Đại Từ.

 Này Đại Tuệ! Ta quan sát thế gian, không có thứ thịt nào mà chẳng phải là sinh mạng. Tự mình chẳng giết, chẳng dạy người giết, người khác chẳng bị giết, chẳng từ sinh mạng đến mà có thịt này thì không có chỗ này. Nếu có thứ thịt chẳng từ sinh mạng mà ra này lại là món ăn ngon thì ta vì lý do gì chẳng cho phép người ăn! Tìm khắp thế gian, không có thứ thịt như vậy. Vậy nên ta nói, ăn thịt là tội, đoạn dứt giống Như Lai nên chẳng cho phép ăn.

 Này Đại Tuệ! Sau khi ta Niết Bàn, vào đời vị lai, lúc pháp sắp diệ, ở trong pháp của ta, có người xuất gia, cạo bỏ râu tóc, tự xưng: “Ta là Thích tử Sa môn”, mặc áo cà sa của ta mà si dại như đứa trẻ, tự xưng là luật sư mà rơi vào nhị biên, đủ thứ hư vọng giác quán, loạn tâm, tham trước vị thịt, theo tự tâm kiến nói trong Tỳ ni nói rằng, được ăn thịt, cũng bài báng ta rằng, các đức Phật Như Lai cho phép người ăn thịt, cũng nói rằng, nhấn cấm chế mà được phép ăn thịt, cũng bài báng ta rằng, Như Lai Thế Tôn cũng tự ăn thịt

 Này Đại Tuệ! Ở trong tất cả Kinh, như Tượng Dịch, Ương Quật Ma, Niết Bàn, Đại Vân.v.v.. của ta chẳng cho phép ăn thịt, cũng chẳng nói, cho thịt vào vị ăn. 

 Này Đại Tuệ! Ta nếu cho phép các đệ tử Thanh Văn lấy thịt làm thức ăn thì nhất định ta chẳng được miệng thường khen ngợi người tu từ bi làm hạnh như thật, cũng chẳng khen ngợi người tu hạnh đầu đà trong rừng Thi Đà, cũng chẳng khen ngợi người tu hành Đại thừa trụ ở Đại thừa, cũng chẳng khen ngợi người chẳng ăn thịt. Ta chẳng tự ăn, chẳng cho phép người khác ăn. Vậy nên ta khuyên người tu hạnh Bồ tát, khen ngợi chẳng ăn thịt, khuyên xem chúng nên như con một thì tại sao xướng lên rằng, ta cho phép ăn thịt. Ta vì đệ tử tu hạnh ba thừa mau được quả nên ngăn chận tất cả thịt, chẳng cho phép ăn thì tại sao nói rằng trong Tỳ ni của ta cho phép người ăn thịt

 Lại nữa, nói rằng trong Kinh khác của Như Lai nói, có ba thứ thịt cho phép người ăn thì phải biết người đó chẳng lý giải được Tỳ ni mà cắt đứt thứ lớp nên xướng rằng, được ăn. Vì sao vậy! Này Đại Tuệ! Vì thịt có hai thứ, một là người khác giết, hai là tự chết. Do người đời nói rằng, có thịt được ăn, có thịt chẳng được ăn. Voi, ngựa, rồng, rắn, người, quỉ, khỉ vượn, heo, chó và trâu thì nói chẳng được ăn, còn các loài khác thì được ăn. Người giết mổ chẳng hỏi được ăn hay chẳng được ăn mà cứ giết hết tất cả, bày bán khắp nơi nơi! Chúng sinh không có lỗi mà bị giết hại ngang ngược! Vậy nên ta cấm chế thịt người khác giết hay tự tử đều chẳng được ăn. Nghe thấy nghi ngờ thì gọi là người khác giết, chẳng nghe thấy nghi ngờ thì gọi là tự tử. Vậy nên, này Đại Tuệ! Trong Tỳ ni của ta xướng lên lời như vầy: Phàm thịt sẵn có ở tất cả Thích tử Sa môn đều là thức ăn bất tịnh, làm ô uế mạng thanh tịnh, chướng ngại Thánh đạo phận, không có phương tiện mà có thể được ăn. Nếu có nói rằng, trong Tỳ ni của Phật nói có ba thứ thịt là chẳng cho phép ăn, chẳng phải là cho phép ăn. Ông phải biết là người kiên trụ ở Tỳ ni là người chẳng bài báng ta. 

 Này Đại Tuệ! Nay trong Kinh Lăng Già này, tất cả thời gian, tất cả các thứ thịt, cũng không phương tiện mà có thể được ăn. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ta ngăn ăn thịt chẳng phải vì một người mà hiện tạivị lai, tất cả chẳng được ăn. Vậy nên, này Đại Tuệ! Nếu người ngu si kia tự nói là Luật sư mà nói rằng, trong Tỳ ni cho phép người ăn thịt, cũng bài báng ta rằng, Như Lai tự ăn thì người ngu si đó thành tội chướng lớn, mãi mãi rơi vào chỗ không lợi ích, chỗ không Thánh nhân, chỗ chẳng nghe pháp, cũng chẳng được thấy đệ tử của bậc Thánh hiền hiện tại, vị lai, huống là sẽ thấy được các đức Phật Như Lai

 Này Đại Tuệ! Những người Thanh Văn thường nên ăn gạo, lúa mì, dầu, mật, đủ thứ mè, đậu có thể sinh ra tịnh mạng. Đồ đó là phi pháp chứa nuôi, phi pháp thọ lấy thì ta nói bất tịnh, còn chẳng cho ăn, huống gì là cho phép ăn máu thịt bất tịnh

 Này Đại Tuệ! Các đệ tử Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ tát của ta ăn được pháp thực thì chẳng phải ăn uống thức ăn, huống gì là Như Lai!? Này Đại Tuệ! Pháp thực, pháp trụ của các đức Phật Như chẳng phải là thân ăn uống, chẳng phải ăn uống thức ăn, chẳng phải thân trụ ở tất cả các đồ ăn thức uống, lìa khỏi các của cải đời sống ưa có.v.v... xa lìa tất cả tội lỗi của phiền não tập khí, giỏi phân biệt tâm, trí tuệ của tâm Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Kiến, thấy các chúng sinh thương xót bình đẳng. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ta thấy tất cả các chúng sinh bình đẳng giống như con một thì làm sao mà cho phép dùng thịt làm thức ăn! Ta cũng chẳng tùy hỉ, huống gì là tự ăn. 

 Này Đại Tuệ! Như vậy, hành hẹ tỏi nén hôi thối bất tịnh có thể làm chướng ngại đạo Thánh, cũng làm chướng ngại chỗ thanh tịnh của người trời thế gian, huống gì là quả báo cõi thanh tịnh của chư Phật. Rượu cũng như vậy, có thể làm chướng ngại Thánh đạo, có thể làm tổn hại nghiệp thiện, có thể sinh ra những tội lỗi. Vậy nên, này Đại Tuệ!. Người đến với Thánh đạo thì rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi nén.v.v.. những thứ có thể tạo vị nồng đều chẳng nên ăn!

 Bấy giờ, đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ rằng:

 Đại Tuệ Bồ tát hỏi 

 Rượu, thịt, tỏi, nén, hành...

 Phật rằng, là bất tịnh 

 Tất cả chẳng cho ăn!

 Quỉ La sát ăn nuốt 

Chẳng phải của Thánh ăn

 Người ăn, Thánh quở trách 

lưu bố ác danh.

 Nguyện Phật phân biệt nói

 Tội phước ăn, chẳng ăn!

 Này Đại Tuệ! Nghe kỹ! 

Ta nói lỗi trong ăn.

 Rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi 

 Là chướng đạo Thánh nhân

 Ta xem trong ba cõi 

 Chúng được đạo Thánh nhân

 Từ thế giới vô thỉ 

 Đắp đổi không phải thân

 Làm sao ở trong ấy 

 Mà có ăn, chẳng ăn.

 Quan sát chỗ thịt đến 

 Xuất xứ chẳng sạch trong

 Sinh máu mủ hòa tạp 

 Phân, giải(nước đái) mủ... hòa chung.

 Người tu hành tịnh hạnh 

Phải quán, chẳng nên ăn

 Đủ thứ thịt, hành hẹ... 

 Uống rượu cũng chẳng nên

 Đủ thứ tỏi và nén... 

 Người tu xa lìa luôn.

 Dầu mè xa lìa khỏi 

 Giường thủng lỗ chẳng nằm(ngủ)

 Các trùng nhỏ bay lên 

 Đoạn hại mạng người khác.

 Ăn thịt lớn sức thân 

 Do lực sinh tà niệm

 Tà niệm sinh dục tham 

 Nên chẳng cho ăn thịt

 Do ăn thịt sinh tham 

 Lòng tham say mê hoặc 

 Mê say lớn ái dục 

 Chẳng giải thoát tử, sinh

 Vì lợi giết sinh chúng 

 Vì thịt tìm của tiền

 Nghiệp ác hại người đó 

 Ngục Khiếu Hoán vào trong.

 Ba thứ gọi tịnh nhục 

 Chẳng nghi, chẳng kiến, văn(thấy, nghe)

 Đời không thịt như vậy 

 Ăn thịt rơi vào trong

 Hoạn xứ uế đáng chán 

 Thường sinh trong điên cuồng

 Sinh vào nhà đồ tể 

 Chiên đà la, thợ săn

 Hoặc sinh nữ La sát 

 Và những chỗ ăn thịt.

 La sát và mèo, chồn... 

 Ăn thịt sinh trong đó.

 Kinh Tượng Dịch, Đại Vân

 Niết Bàn, Thắng Man nữa

 Và Nhập Lăng Già Kinh 

 Ta chẳng cho ăn thịt.

 Phật, Bồ tát, Thanh Văn 

 Các vị cũng quở trách

 Ăn thịt không thẹn thùng

 Đời đời điên cuồng mãi.

 Trước nói, nghi, kiến, văn

 Đã đoạn tất cả thịt,

 Vọng tưởng chẳng hiểu biết

 Nên thực nhục tưởng sinh.

 Như lỗi tham dục đó 

 Giải thoát Thánh ngại ngăn

 Rượu, thịt, hành, tỏi, nén...

 Thánh đạo đều bị ngăn.

 Chúng sinh vị lai thế 

 Với thịt, ngu nói rằng:

 Thịt này sạch không tội 

 Phật cho chúng ta ăn!

 Ăn sạch như dược tưởng 

 Giống như ăn thịt con

 Tri túc sinh lìa chán 

 Tu hành đi xin ăn.

 Kẻ từ tâm an trụ 

 Ta nói, lìa chán luôn

 Sư tử, sài làng, cọp 

 Thường hay đi, dừng chung.

 Ăn thịt, thấy thì sợ 

 Làm sao có thể ăn!

 Vậy nên người tu hành 

 Từ tâm chẳng ăn thịt.

 Ăn thịt đoạn từ tâm

 Lìa Niết Bàn giải thoát 

 Trái lời dạy Thánh nhân Nên chẳng cho ăn thịt

 (Muốn) Sinh Phạm chủng chẳng(thịt) ăn. 

Và những tu hành đạo.

 Trí tuệgiàu sang 

 Ấy do chẳng ăn thịt.

 

PHẨM THỨ MƯỜI BẢY: ĐÀ LA NI

 

 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ tát rằng:

 - Này Đại Tuệ! Ông nên lắng nghe , thọ trì chú Kinh Lăng Già của ta! Chú này, các đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã nói, nay nói và sẽ nói. 

 Này Đại Tuệ! Ta nay cũng nói Ta vì các pháp sư thọ trì, đọc tụng Kinh Lăng Già mà nói chú rằng:

 Đâu đế đâu đế - Chúc đế chúc đế - Tô pha đế tô pha đế - Ca đế ca đế - A ma lị - A ma đế - Tỳ matỳ ma lê - Ni di ni di - Hề di hề di - Bà mê bà mê - Ca lê ca lê - Ca la ca lê - A tề ma tề - Già tề đâu tề - Nhượng tề - Tô phất tề - Cát đệ cát đệ - Ba đệ ba đệ - Hề mễ hề mễ địa mễ địa mễ - La chế la chế - Ba chế ba chế - Bàn đệ bàn đệ - A chế di chế - Trúc trà lê đâu trà đệ - Ba la đệ - Át kế át kế - Chước kế chước kế lê lợi - Nhỉ dương mễ - Hề mễ hề mễ - Trú trú trú trú - Trừu súc trừu súc - Trừu trừu trừu trừu - Trừ trừ trừ trừ - Tô bà ha.

 Này Đại Tuệ! Đó gọi là câu văn chú trong Lăng Già Đại Kinh. Thiện nam tử, thiện nữ nhân, Tỳkheo, Tỳkheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di.v.v... có thể thọ trì đọc tụng câu văn này và vì người diễn nói thì không có người nào có thể tìm ra tội lỗi của những người ấy. Hoặc trời, con gái trời, hoặc rồng, con gái rồng, hoặc dạ xoa, con gái dạ xoa, A tu la, con gái A tu la, Ca lâu la, con gái Ca lâu la, Khẩn na la, con gái Khẩn na la, Ma hầu la già, con gái Ma hầu la già, Phù đa, con gái Phù đa, Cưu bàn trà, con gái Cưu bàn trà, Tỳ xá xà, con gái Tỳ xá xà, Ô đa la, con gái Ô đa la, A ba la, con gái Ô ba la, La sát, con gái La sát, Trà già, con gái Trà già, Ô châu hà la, con gái Ô châu hà la, Già tra phước đa la, con gái Già tra phước đa la, hoặc người, chẳng người, hoặc con gái người, con gái chẳng phải người... chẳng thể tìm thấy tội lỗi của những người ấy. Nếu có quỉ thần ác làm tổn hại người mà muốn mau chóng khiến cho những ác quỉ đó đi thì tụng một trăm biến chú Đà la ni này. Những quỉ ác đó kinh sợ gào khóc chạy vội mà đi.

 Đức Phật lại bảo Đại Tuệ Bồ tát rằng:

 - Này Đại Tuệ! Ta vì hộ trì pháp sư hộ pháp này lại nói Đà la ni!

 Đức Phật nói chú rằng:

 - Ba đâu di - Ba đầu di đề tỳ - Hề ni hề ni hề nỉ chư lê - Chư la - Chư lệ - Hầu la - Hầu lệ - Do lê - Do la - Do lệ - Ba lệ - Ba la - Ba lệ - Văn chế - Sân điệt tần điệt bàn thệ mạt điệt trì na - Ca lê tô ba ha.

 Này Đại Tuệ! Câu văn chú Đà la ni này, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì đọc tụng, vì người diễn nói thì không người nào có thể được cùng tạo tác tội lỗi. Hoặc trời hoặc con gái trời, hoặc rồng hoặc con gái rồng, Dạ xoa, con gái Dạ xoa, A tu la, con gái A tu la, Ca lâu la, con gái Ca lâu la, Ma hầu la già, con gái Ma hầu la già, Càn thát bà, con gái Càn thát bà, Phù đa, con gái Phù đa, Cưu bàn trà, con gái Cưu bàn trà, A bạt ma la, con gái A bạt ma la, La xoa, con gái La xoa, Ô thát a la, con gái Ô thát đa la, Già tra phước đơn na, con gái Già tra phước đơn na, hoặc người, hoặc chẳng phải người, hoặc con gái người, con gái chẳng phải người... tất cả những lời đó chẳng thể tìm được tội lỗi của những người ấy. 

 Này Đại Tuệ! Nếu có người có thể thọ trì đọc tụng câu văn chú này thì người đó được gọi là tụng tất cả Kinh Lăng Già. Vậy nên ta nói câu Đà la ni này, vì ngăn chận tất cả các La sát, hộ trì tất cả thiện nam tử, thiện nữ nhân hộ trì Kinh này. 

KINH NHẬP LĂNG GIÀ 
- Quyển thứ tám hết - 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12469)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10335)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12319)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11615)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28771)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12022)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12978)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11427)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12342)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17423)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52974)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35454)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21354)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10662)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19204)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12382)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25983)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13294)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14343)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16057)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13706)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16813)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17526)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13105)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12507)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11586)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11574)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14471)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20398)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18935)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19514)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18594)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12160)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12283)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13824)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14950)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15018)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13958)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15499)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11375)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17134)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14935)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20161)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14591)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13804)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11676)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15021)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12969)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22832)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14533)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11618)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13144)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16848)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18311)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11925)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11481)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15818)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12856)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18876)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18380)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant