Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

09. Quyển Thứ Chín

16 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6467)
09. Quyển Thứ Chín

KINH NHẬP LĂNG GIÀ
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy 
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

 

Quyển thứ chín
 
PHẨM THỨ MƯỜI TÁM: TỔNG

 I- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn trùng tuyên thâm nghĩa kinh này mà nói kệ rằng:
Như mùa hạ cầm thú
Lòng mê thấy sóng tràn
Các cầm thú thích nước 
Nước đó không thật chân.
Như vậy chủng tử thức 
Thấy cảnh giới động lên
Các chúng sinh ngu dại 
Thấy vật mắt có màn (che).
Suy nghĩ, được suy nghĩ 
Hay suy nghĩ (năng tư duy) lìa luôn
Thấy Thật đế phân biệt 
Biết được giải thoát liền.
Các pháp chẳng bền vững
Hư vọng phân biệt sinh
Hư vọng phân biết trống (không) 
Phân biết đó theo nương.
Năm ấm, thức các pháp...
Như bóng cây nước lồng
Như thấy huyễn hóa, mộng...
Trong thức chớ biệt phân.
Huyễn khởi bày máy móc
Mộng, chớp, mây thường luôn
Dứt ba pháp tương tục 
Giải thoát được chúng sinh.
Nương các pháp tà niệm 
Vậy nên có thức sinh
Tám chín đủ thứ thức 
Như sóng trong nước tràn.
Nương pháp huân (tập) chủng tử
Thường buộc thân chắc bền
Lòng lưu chuyển cảnh giới 
(Như) Sắt theo từ thạch nương.
Y chỉ các sinh chúng 
Lìa các giác, tính chân
Xa lìa các việc làm 
Lìa tri, khả tri pháp.
Như huyễn tam muội hành
Sinh ra hạnh Thập địa.
Ông quán pháp tâm vương
Lìa tướng tâm, cảnh, thức
Thì biết lòng chuyển luôn
Liền trụ hằng bất biến.
Trụ cung điện hoa sen 
Như tướng cảnh giới huyễn
Trụ thắng xứ đó xong 
Được các hạnh tự tại.
Như Ma ni hiện lên 
Tác độ chúng sinh nghiệp
Hữu vi, vô vi không (có) 
(Diệt) Trừ những tâm phân biệt.
Ngu si vô trí dùng 
Như thạch nữ mơ trẻ (con)
Tịch tịnhvô sinh 
Người năm ấm tương tục.
Các cảnh giới nhân duyên 
Không hữuphi hữu
Phương tiện ta nói lên 
Không thật tướng như vậy.
Ngu si cho thật chân 
Không năng tướng, khả tướng
Tất cả pháp ta thông 
Mà tất cả chẳng thông.
Ta có Nhất Thiết Trí 
Mà không Nhất Thiết Trí 
Phàm phu ngu biệt phân 
Tự nói trí thế gian.
Ta chưa từng giác biết 
Cũng chẳng giác chúng sinh.
Tất cả pháp duy tâm 
Như mao luân, các ấm
Luân tướng rốt ráo không
Chỗ nào có phân biệt?
Vốn vô thỉ sinh vật 
Trong các duyên cũng không 
Con thạch nữ, hoa không 
Hữu vi nếu hay thấy.
Bấy giờ có thể thấy 
Thấy pháp mê, trụ liền
Ta chẳng vào Niết Bàn 
Chẳng diệt các nghiệp tướng.
Phân biệt thức diệt tan 
Đây là Phật Niết Bàn
Pháp tướng chẳng phải diệt
Ngu si vọng phân biệt.
Như nước dữ khô khan 
Bấy giờ chẳng sinh sóng
Đủ thứ thức diệt tan 
Diệt mà chẳng sinh nữa.
Vô thức tướng và không 
Vốn chẳng sinh như huyễn
Có không lìa có không 
Các pháp này như mộng.
Ta nói một pháp chân (thật)
Lìa khỏi các giác quán
Cảnh giới diệu Thánh nhân
Lìa thể tướng hai pháp.
Như thấy tướng lửa huỳnh(đom đóm) 
Đủ thứ mà không thật
Thấy bốn đại thế gian 
Đủ thứ cũng như vậy.
Như nương đá, cỏ, cây 
Thị hiện các tướng huyễn
Tướng huyễn kia là không 
Các pháp thể như vậy.
Thủ trước khả thủ không 
Không giải thoát, không buộc
Như huyễn như lửa hừng 
Như mộng, màn trong mắt.
Nếu như vậy thấy thật 
Lìa phân biệt cấu xong
Liền trụ định như thật 
Thấy ta không ngờ vực.
Trong này không tâm thức
Như ngọn lửa, hư không 
Như vậy biết các pháp 
Mà chẳng biết một pháp.
Lìa có, không các duyên 
Nên chẳng sinh các pháp 
Ba cõi mê hoặc lòng 
Vậy nên đủ thứ thấy.
Mộng và pháp thế gian 
Hai pháp này bình đẳng 
Khả kiến cùng tư sinh 
Các xúc và cả lượng
Thế gian thân vô thường 
Đủ thứ sắc cũng vậy.
Tôn giả nói thế gian 
Việc sở tác như vậy
Chủng tử ba cõi lòng 
Mê hoặc chưa thấy hiện.
Biết phân biệt thế gian 
Không thật pháp như vậy.
Thấy như vậy thế gian 
Hay lìa khỏi sinh tử
Sinh và cùng chẳng sinh 
Người tu trí tuệ thấy
Diệu cảnh A - ca - ni 
Lìa chỗ các hạnh ác.
Thường hành không phân biệt 
Lìa các số pháp tâm
Được lực thông tự tại 
Đến chỗ những tam muội.
Chỗ đó Chính giác thành
Trong này thành hóa Phật 
Các pháp chẳng diệt, sinh
Thể các pháp như vậy 
Ứng hóa ức không lường 
Ra đời trong thể đó.
Người ngu nghe Phật lý 
Như vang chẳng nghĩ bàn
Xa lìa đầu, giữa, cuối 
Và lìa pháp có không.
Khắp chẳng động, thanh tịnh
Không các tướng hiện tướng
Thức tính che pháp thân 
Tất cả có trong thân
Mê hoặc là huyễn có 
Huyễn chẳng phải mê nhân(nhân của mê hoặc
Mê hoặc pháp tâm không (có)
Chẳng phải chẳng ít có.
Hai pháp buộc tâm nương
A lê gia thức khởi
Thấy như vậy chỉ tâm 
Pháp ta như nước bạo.
Như vậy quán thế gian 
Bấy giờ các tâm chuyển
Mới là con ta chân 
Thành tựu hạnh thật pháp.
Nóng, ướt và đồng, bền (chắc)
Ngu phân biệt các pháp 
Phi thật (mà) nghĩ có luôn
Không năng tướng, khả tướng.
Tám thứ vật một thân (?)
Hình tướng và các căn
Ngu phân biệt có sắc 
Mê hoặc lưới bao thân.
Các nhân duyên hòa hợp
Ngu si phân biệt sinh
Chẳng biết pháp như vậy 
Trong ba cõi chuyển vần.
Các pháp và ngôn ngữ 
phân biệt (của) chúng sinh 
Mà các pháp là không 
Như huyễn hóa, như mộng...
Các pháp như vậy xem 
Chẳng trụ thế Niết Bàn 
Tâm đủ thứ chủng tử 
Hiện thấy cảnh giới tâm.
Khả kiến phân biệt sinh 
Ngu si ưa hai pháp
Không trí, ái và nghiệp 
Là tâm, tâm pháp nhân.
Pháp sinh nương tha lực 
Nên nói, pháp tha lực
Nương pháp việc biệt phân
Lòng mê hoặc cảnh giới 
Nên phân biệt chẳng thành
Mê hoặcphân biệt.
Tâm nương nhân duyên buộc
Vậy nên sinh các thân
Nếu lìa các nhân duyên 
Ta nói, chẳng thấy pháp.
Lìa các pháp nhân duyên 
Lìa khỏi các tướng pháp
Các pháp, chẳng trụ trong
Ta nói, chẳng thấy cảnh
Như trưởng giả, quốc vương...
Đem đủ loại cầm thú
Tập họp trong đầm hoang 
Để bày cho các con.
Ta như vậy các tướng 
Đủ pháp tượng trong gương
Nội thân trí là con 
Nói lên pháp thật tế.
Như sóng dậy biển cả 
Từ nhân duyên gió sinh 
Hay khởi dậy hiện tiền 
Mà không có đoạn tuyệt.
A - lê - gia thức thường 
Nương gió cảnh giới khởi
Sóng nước thức đủ loại 
Hưng khởi sinh chẳng dừng.
Tướng năng thủ, khả thủ 
Chúng sinh thấy như thế
Các tướng khả kiến không (có) 
Mao đạo thấy như vậy 
A lê gia thức cùng 
Ý và cả ý thức
Năng, khả thủ lìa xong 
Ta nói tướng như vậy.
Trong năm ấm, ngã không 
Không người, không sinh chúng
Sinh là các thức sinh 
Diệt là các thức diệt.
Như trong họa (vẽ) thấp cao
Khả kiến không như thế
Như vậy các vật thể 
Tướng như vậy thấy không(có).
Như Càn thát bà thành 
Cầm thú khát thích nước
Thấy “Khả kiến” như trên
Trí quán không như vậy.
Lìa tưởng và khả lường (lượng)
Phi quả cũng phi nhân
Lìa năng giác, sở giác 
Lìa năng kiến, khả kiến
Giác nương ấm nhân duyên
Không người thấy “Khả kiến”
Nếu chẳng thấy khả kiến 
Làm sao tu pháp kia?
Nhân duyên, nhân, thí dụ
Lập ý và nhân duyên
Mộng, Càn thát bà, luân 
Ngọn lửa và nhật, nguyệt
Ánh sáng, huyễn vân... vân...
Ta ngăn các pháp sinh.
Như mộng huyễn mê hoặc 
(Trống) “Không” phân biệt chúng sinh 
Chẳng nương vào ba cõi 
Trong, ngoài cũng đều không.
Thấy các hữu chẳng sinh 
Mới được Vô sinh nhẫn
Được tam muội Như Huyễn
Và cả Như Ý thân,
Các (thần) thông và tự tại
Lực, đủ thứ pháp tâm.
Các pháp vốn chẳng sinh 
“Không”, không thể tướng pháp.
Người mê chẳng hiểu thông
Tùy nhân duyên sinh diệt.
Như ngu si phân biệt 
Tâm thấy được tự tâm
Thấy đủ thứ ngoại tướng 
Thật Không pháp khả kiến.
Thấy Phật tượng, tướng xương.
Và các Đại lìa tan
Giỏi hiểu tâm hay biết 
Trụ trì tướng thế gian.
Thân trụ trì tư sinh (của cải để sinh sống).
Chọn lấy ba cảnh giới 
Thức chọn thức cảnh giới 
Ý, thức, phân biệt ba.
Phân biệt, khả phân biệt 
Cảnh giới có chữ thôi
Chẳng thể thấy pháp thật
Mê chẳng thấy giác kia.
Các pháp không tự thể 
Kẻ trí thì giác ngộ
Người tu vậy mới ngưng 
Trụ ở chỗ vô tướng.
Như bức vẽ về gà 
Ngu quyết gà của ta
Nhu phàm phu dại lấy 
Ba thừa là một vậy.
Không những người Thanh Văn 
Cũng không Bích Chi Phật 
Hình sắc thấy Thanh Văn
Và thấy các đức Phật 
Các Đại từ Bồ tát 
Thị hiệnHóa thân.
Ba cõi chỉ là tâm 
Lìa hai thứ thể tướng.
Các tướng đó chuyển biến
Thì tức là Chân Như.
Pháp và hành tướng người
Nhật nguyệt quang, lửa rực
Những báu lớn ma ni 
Làm việc không phân biệt.
Như vậy pháp Thế Tôn 
Như mù thủ mao luân
Như vậy phân biệt pháp 
Ngu si hư vọng thân.
Lìa khỏi sinh, trụ, diệt 
Và lìa thường, vô thường
“Khả kiến” nhiễm, tịnh bỏ
Như vừng lông trong không.
Như người trúng Lang tảng (một loại cỏ làm thuốc) 
Thấy trên đất, hình tượng
Tất cả sắc như vàng 
Mà đó chẳng có vàng.
Như vậy người ngu dại 
Vô thỉ, pháp nhiễm tâm
Huyễn, ngọn lửa sinh có 
Người ngu cho là chân (thật).
Một con (tử) và không con
Biển cả là nhất tử (một con(?))
Cũng là vô lượng tử 
Ông quán chủng tử lòng.
Nhất tử như sạch trong 
Chuyển thành không chủng tử
Bình đẳng không biệt phân
Khởi tức là sinh tử.
Hay sinh đủ thứ con 
Vậy chủng tử gọi tên.
Nhân duyên chẳng sinh pháp
Nhân duyên chẳng diệt pháp,
Sinh pháp chỉ nhân duyên 
Tâm phân biệt như vậy.
Ba cõi chỉ giả tên 
Thật sự không pháp thể
Quán các pháp thật thể 
Mê hoặc ta chẳng ngăn.
Thật thể chẳng sinh pháp
Quán vậy giải thoát liền
Ta chẳng thấy huyễn không 
Nói các pháp là có
Điên đảo như chớp nhanh
Vậy nên nói như huyễn.
Phi bản sinh, như sinh 
Các nhân duyên vô thể (không hình thể)
Không có xứ và thể 
Chỉ có lời ngữ ngôn.
Chẳng ngăn duyên sinh diệt
Chẳng ngăn hòa hợp duyên
Ngăn những ngu si kiến 
Phân biệt nhân duyên sinh.
Thật không thức thể pháp
Sự việc, bản thức không
Ngu si sinh phân biệt 
Như ác giác thây chết.
Ba cõi chỉ là tâm 
Các Phật tử hay thấy (năng kiến)
Liền được chủng loại thân
Lìa làm hữu vi pháp.
Được Lực tự tại, thông 
Và pháp cộng tương ưng
Hiện tất cả các sắc 
Tâm pháp như vậy sinh
không tâm và sắc 
Tâm vô thỉ mê hoặc 
Bấy giờ người tu hành 
Được thấy đến vô tướng.
Trong trí tuệ xét xem 
Chẳng thấy các sinh chúng
Tướng và việc giả danh 
Ý thủ các động pháp.
Các con ta quá hơn 
Tu hành không phân biệt 
Huyễn, Càn thát bà thành
Vừng lông và ngọn lửa.
Không thật mà thấy chân
Thể các pháp như vậy.
Thấy các pháp như tâm 
Không thể tướng như vậy.
Tất cả pháp chẳng sinh 
Chỉ thấy pháp mê hoặc 
Mao đạophân biệt 
Do trụ pháp nhị biên.
Sơ thức sinh phân biệt 
Đủ thứ chủng tử huân (tập)
Thức như nước bạo khởi 
Cắt đứt thì chẳng sinh.
Đủ thứ niệm quán pháp 
Nếu chỉ sinh trong lòng
Như trong vách hư không 
Vì sao chẳng sinh được?
Nếu có ít tương quan 
Thì tâm từ duyên có
Nếu sinh từ nhân duyên 
Duy tâm, chẳng được nói.
Tâm thủ ở tự tâm 
Không pháp không nhân sinh
Pháp thể tâm thanh tịnh 
Không huân (tập) trong hư không.
Thủ tự tâm hư vọng 
Vậy nên tâm chẳng sinh
Ngoại pháp không thể thấy
Vậy nên nói duy tâm.
Bản thức chỉ là tâm 
Ý hay niệm cảnh giới 
Hay thủ các cảnh giới 
Nên ta nói duy tâm.
Tâm thường vô ký pháp 
Chọn tướng, ý nhị biên
Chọn hiện pháp là thức 
Đó là lành, chẳng lành (bất thiện).
Lìa hai thứ tướng thức 
Đệ Nhất Nghĩa môn
Nói ba thừa sai biệt 
Tướng Tịch tịnh là không.
Nếu tâm trụ tịch tịnh 
Phật địa tu hành
Là lời Phật quá khứ 
Hiện, vị lai cũng thế.
Sơ - thất địa là tâm 
Tịch tịnh Đệ Bát địa
Nhị địa là chỗ hành (hành xứ
Pháp ta là địa khác (dư địa)
Tự nội thân sạch trong 
Tự tại địa ta đó
Chỗ tự tại rốt cùng 
Hiện A Ca Ni Sấc.
Như ngọn lửa vân... vân... 
Mà phát ra ánh sáng
Đủ thứ khả lạc tâm 
Hóa làm ở ba cõi.
Hoặc Hữu trước hóa thành
Mà hóa làm ba hữu
Chỗ đó pháp tuyên dương
Tự Tại địa ta đó.
Các địa không thời gian 
Đất nước chuyển cũng vậy
Qua nhưng pháp địa tâm
trụ quả Tịch tịnh,
Thật không(có) gọi thật chân
Mà thấy được đủ thứ
Người ngu thủ đảo điên 
Là đủ thứ điên đảo.
Như trí không biệt phân 
Có việc chẳng tương ứng
Chẳng phải sắc do tâm 
Vậy nên không phân biệt.
Các thiền và không lường
tam muội vô sắc
Các tướng rốt cùng diệt 
Vậy nên trong tâm không.
Tu đà hoàn quả pháp 
Vãng laiBất Hoàn
Và các quả la hán 
Tất cả mê hoặc lòng.
Sát na, Không, Vô thường
Hữu vi, ngu phân biệt
Thí dụ, chủng tử, sông 
Nghĩa sát na phân biệt
Sát na không phân biệt 
Lìa những pháp đã làm
Tất cả pháp chẳng sinh 
Ta nói sát na nghĩa.
Có, không nói đến sinh 
Tăng - Khư... vọng tuyên nói
Tất cả pháp không nói 
Cũng người đó nói lên.
Có bốn thứ nói pháp: 
Vãng đáp, phản vấn đáp
Phân biệt sai biệt đáp 
Mặc đáp, ngăn ngoại đạo.
Thế đế tất cả có 
Đệ Nhất Nghĩa đế không 
Mà tướng thật thể không 
Đệ Nhất Nghĩa đế.
Thấy pháp hư vọng xong 
Vậy nên nói thế đế
Nhân ở ngôn ngữ sinh 
Không thật thể như vậy.
Không việc có ngữ ngôn 
Trong thế đế thật không 
Tức là việc điên đảo 
Khả kiến cũng là không.
Nếu việc điên đảo có 
Tịch tịnh rốt cùng không 
Nương vào việc điên đảo 
Và thấy các pháp sinh.
Rốt ráo định là không 
Tức là không thể tướng
Những đủ thứ sở kiến 
Huân tập não phiền sinh.
Tâm thấy ngoài mê hoặc
Hiện thủ cảnh hiện tiền
Phân biệt không phân biệt
pháp tướng thật, không (trống).
Các tướng như huyễn tượng
Như cây lá màu vàng
Là người thấy khả kiến 
Huân tập tâm vô minh.
Thánh nhân chẳng mê thấy
Chẳng thấy thật trung gian 
Mê hoặc tức là thật 
Do thật tức trung gian
Xa lìa các mê hoặc 
Các tướng nếu hay sinh
Tức là kia mê hoặc 
Như màn (che) mắt chẳng trong (sạch)
Như mờ thấy vừng lông(mao luân
Nương mê thủ các pháp.
Ở trong các cảnh giới 
Ngu si thủ là pháp.
Các pháp như vừng lông 
Ngọn lửa, nước mê hoặc 
Ba cõi như huyễn mộng 
Tu hành được giải thoát.
Phân biệt, khả phân biệt 
Hay sinh ra phân biệt
Phược (buộc), khả phược và nhân. 
Sáu thứ nhân giải thoát.
Không (có) Địa và các Đế
Không đất nước và hóa
Phật Bích Chi, Thanh Văn 
Chỉ là tâm phân biệt.
Thể người (nhân thể) và năm ấm.
Các duyên và vi trần
Thắng nhân (người thắng) tự tại làm.
Chỉ là tâm phân biệt
Mọi chỗ tâm khắp cùng 
Mọi chỗ đều là tâm
Do tâm chẳng giỏi quán 
Các tướng tâm tính không (có).
Trong năm ấm không ngã
Trong ngã, năm ấm không (có)
Phân biệt không là pháp 
Mà pháp chẳng phải không.
Như ngu si phân biệt 
Có tất cả các pháp 
Như vậy thấy có thật 
Tất có nên thấy thật.
Tất cả pháp nếu không 
Không nhiễm, tịnh cũng không 
Ngu si thấy như vậy 
Pháp đó chẳng như vậy.
Tướng mê hoặc biệt phân
tha lực phân biệt
Tướng đó sẵn có tên 
Tên là tướng phân biệt.
Tên tướng là phân biệt 
Hòa hợp việc nhân duyên
Nếu chẳng sinh tâm đó 
Là tướng Đệ nhất nghĩa.
Báo tướng Phật thể chân(thật)
Và tướng Phật biến hóa
Bồ tátchúng sinh 
Cùng đất nước mười phương.
Pháp tập khí hóa Phật 
Và tạo tác hóa Phật
Tất cả đều từ nước 
A Di Đà mà ra 
Ứng, hóa Phật nói pháp 
Báo Phật nói pháp
Kinh điển rộng tuyên dương
Ông nên biết mật ý.
Phật tử sẵn có nói 
Và với các Thế Tôn 
Là đều hóa Phật nói 
Chẳng phải người thuần(thục) nói.
Là các pháp chẳng sinh 
(Mà) Pháp đó chẳng phải không
Huyễn, Càn thát bà thành
Như mộng hóa tương tợ.
Đủ thứ chuyển theo lòng 
Chỉ tâm, phi pháp khác
Tâm sinh, đủ thứ sinh 
Tâm diệt, đủ thứ diệt.
Chúng sinh vọng phân biệt
Không vật mà thấy vật
Không nghĩa chỉ là tâm 
Không phân biệt được thoát.
Đời vô thỉ luận suông(hí luận)
Y chỉphiền não
Các phân biệt huân tu 
Vậy nên sinh tà kiến.
Thứ không phân biệt nghĩa
Chân nhưtrí cảnh
Chuyển đó là tịch tịnh 
cảnh giới Thánh nhân.
Quan sát nghĩa, suy nghĩ 
phàm phu suy nghĩ.
Niệm Chân như suy nghĩ.
Là chư Phật suy nghĩ.
Phân biệt các pháp thể 
Tất cả pháp chẳng sinh
Nương tha lực nhân duyên
Chúng sinhphân biệt.
Tha lực nếu sạch trong (thanh tịnh)
Lìa phân biệt tương ứng
Chuyển đó tức Chân như 
Lìa phân biệt là hạnh.
Chớ phân biệt biệt phân 
Phân biệtkhông thật
Phân biệt pháp mê hoặc 
Thủ, khả thủ chẳng cùng (tận).
Thấy ngoại cảnh phân biệt
Phân biệt là thể thật
Tâm phân biệt biệt phân 
Pháp đó nhân duyên sinh.
Nghĩa ngoại đạo tà kiến 
Vô nghĩa chỉ là tâm
Quan sát lượng tương ưng
Hay diệt thủ khả thủ(lấy).
Cảnh giới bên ngoài không(có) 
Ngu si vọng phân biệt
Huân tập thêm lớn lòng 
Tượng tợ sinh các pháp. 
Hai phân biệt diệt tan 
Cảnh giới Chân như trí
Vô pháp tướng phát sinh 
Chẳng nghĩ bàn Thánh cảnh.
Phân biệt và tướng danh 
Thật thể hai thứ tướng
Chánh tríChân như 
thành tựu thật thể.
Cha mẹ hòa hợp nương(theo)
A lê gia thức hợp
Như chuột, váng sữa, bình...(?)
Chung trắng, đỏ tăng trưởng.
Mụt nhọt dày, thây cong 
Chẳng sạch nương họa tiết
Gió nghiệp bốn đại tăng (trưởng) 
Như những trái thành thục (chín mùi)
Năm và ở năm năm (ngũ cập ư ngũ ngũ(?))
Và có chín thứ lỗ
Những lông che khắp cùng
Tăng trưởng sinh như vậy.
Sinh như trùng trong phân
Như người thức trong ngủ
Mắt thấy sắc, niệm khởi 
Sinh phân biệt lớn thêm.
Phân biệtchuyên niệm
Rồi hòa hợp môi răng
Miệng bắt đầu nói năng 
Như Anh vũ đùa tiếng (lộng thanh).
Các ngoại đạo nói định 
Đại thừa chẳng quyết định
Nương tâm chúng sinh định
Tà kiến chẳng thể gần.
Thừa ta, trí nội chứng 
Vọng giác chẳng phải cảnh(giới)
Sau khi Phật Niết Bàn(Diệt độ)
Vị lai sẽ có kẻ
Này Đại Tuệ! Lắng nghe!
Có kẻ trì pháp ta
Ở trong nước nam lớn (?) 
Đại đức Tỳkheo 
Tên Long Thọ Bồ tát 
Giỏi phá thấy có không (hữu vô kiến)
Pháp ta vì người nói 
Pháp Đại thừa không trên (Vô thượng).
Chứng được Hoan Hỷ địa 
Vãng sinh nước Lạc An.
Trí tuệ quan sát pháp 
Chẳng thấy pháp thể chân(thật)
Vậy nên chẳng thể nói 
Và nói thể cũng không.
Nếu nhân duyên sanh pháp
Chẳng được nói có, không
Trong nhân duyên có vật 
Ngu phân biệt có, không.
Tà kiến, hai tà pháp 
Tà biết lìa pháp ta
Tất cả danh tự pháp 
Thường học vô lượng kiếp.
Đã học lại học thêm 
Cùng chung nhau phân biệt
Nếu chẳng nói các tên 
Thì thế gian mê hoặc.
Vậy nên tạo tự danh 
Vì trừ nghiệp mê hoặc
Ba thứ phân biệt nương 
Ngu si phân biệt pháp.
phân biệt nương danh(tên)
nhân duyên hay sinh
Pháp chẳng sinh, chẳng diệt
Tự tính như hư không.
Pháp vô thể là thể 
Tướng phân biệt tức thể
Huyễn hóa và bóng hình 
Ngọn lửa, mộng, tiếng vang
Càn thát bà, vừng lửa... 
Các pháp như vậy sinh
Chẳng hai, Chân như, không(trống không)
Thật tếpháp thể.
Ta nói, phân biệt không (có)
Thành tựu pháp tướng đó
Cảnh giới rỗng miệng, lòng
Thật mới lập hư vọng (?)
Tâm rơi vào hai biên 
Vậy nên lập phân biệt.
Có, không rơi hai biên 
Do tại cảnh giới tâm
Xa lìa các cảnh giới 
Bấy giờ chính diệt tâm.
Do lìa cảnh giới thủ 
Đó diệt, chẳng có, không
Như cảnh giới Thánh nhân
Người ngu chẳng thể biết.
Trụ Chân như có diệt 
Kẻ trí có thể nhìn
Như các pháp đó trụ 
Người trí có thể nhìn 
Pháp thể chẳng như vậy 
Do tướng các pháp không 
Kẻ ngu si thấy sắt 
Phân biệt cho là vàng.
Chẳng phải vàng (mà) thấy vàng 
Ngoại đạo thủ pháp vậy.
Vốn không nói trước sinh(thỉ sinh).
Trước sinh sau hoàn(trở lại) diệt.
Từ nhân duyên có, không
Lời này ta chẳng dạy
Pháp vô thỉ vô chung 
Không tướng trụ như vậy.
Do trụ tướng thế gian 
Người tà giác chẳng biết
Pháp quá khứ chẳng không
Pháp vị lai là có
Pháp hiện tại cũng có 
Chẳng nên nói pháp sinh.
Khi chuyển và hành tướng
Các đại và các căn
Hư vọng thủ “trung ấm”(phần còn lại sau khi chết
Nếu thủ (lấy) phi giác thì
Tất cả Phật Thế Tôn 
Chẳng nói nhân duyên sinh.
Nhân duyên tức cõi thế 
Như Càn thát bà thành
Chỉ pháp duyên hòa hợp 
Nương pháp này sinh pháp.
Lìa các pháp hòa hợp 
Chẳng diệt cũng chẳng sinh
Gương và ở trong nước 
Mắt và khí (đồ) ma ni
Mà thấy các cảnh tượng (hình dáng trong gương). 
Các ảnh tượng là không
Như thú thích “không thủy”
Thấy đủ thứ sắc hình
Đủ thứ tựa như có 
Như mộng, con thạch mỡ.
Thừa ta phi Đại thừa 
Phi thanh cũng phi tự (chữ)
Phi giải thoát, phi đế 
Phi cảnh giới tịch tịnh
Mà thừa ta, Đại thừa 
Các tam muội tự tại.
Thân như ý đủ thứ 
Hoa tự tại trang nghiêm 
Nhất thể và biệt thể 
Không pháp trong nhân duyên.
Lược nói các pháp sinh 
Rộng nói các pháp diệt.
Chẳng sinh, không là một
Mà sinh, không là hai.
Chẳng sinh, không là thắng 
Sinh, diệt tức là không.
Chân như, không, thật tế
Pháp giới cùng Niết Bàn
Thân và ý đủ thứ 
Ta nói pháp khác tên (dị danh).
Kinh, Tỳ Ni, Tỳ Đàm 
Phân biệt ngã thanh tịnh 
Chẳng y nghĩa, y danh 
Đó chẳng biết vô ngã.
Phi Phật, phi ngoại đạo 
Phi ngã cũng chẳng (phải) còn (phi dư)
Từ duyên thành có pháp 
Thì sao các pháp không? (có)
Người nào thành tựu có 
Từ nhân duyên nói không?
Nói pháp sinh tà kiến 
Vọng phân biệt có, không.
Nếu người thấy chẳng sinh
Cũng thấy pháp chẳng diệt
Người đó lìa có, không 
Thấy thế gian tịch tịnh.
Chúng sinh thấy biệt phân
Khả kiến như sừng thỏ
Phân biệt là hoặc mê 
Như chim yêu ánh lửa.
Hư vọng phân biệt pháp 
Nương thấy phân biệt kia
Không nhân duyên phân biệt 
Không nhân chẳng nên chia.
Như nước mà lấy nước 
Như thủ vọng sinh yêu.
Ngu si thấy như vậy 
Thánh nhân không như vậy.
Thánh nhân thấy sạch trong
Do sinh ba giải thoát 
Lìa các pháp tử sinh 
Tu hành chỗ tịch tịnh.
Rất khoái diệu phương tiện
Biết việc diệu nước non
Ta vì các con nói 
Chẳng vì những thừa nhỏ (tiểu thừa).
Ba cõivô thường 
Không, vô ngã, lìa ngã
Tướng riêng (biệt tướng) và tướng đồng. 
Ta nói vì Thanh Văn.
Mọi pháp chẳng chấp trước
Độc hành lìa thế gian
Ta nói quả Duyên Giác 
Phi cảnh giới tư lương.
Phân biệt ngoài thật thể 
Từ tha lực nên sinh
Thấy tự thân mê hoặc 
Bấy giờ chuyển các tâm.
Thập địa tức Sơ địa 
Sơ địa tức Bát địa
Cữu địa tức Thất địa 
Thất địa tức Bát địa
Nhị địa tức Tam địa 
Tứ địa tức Ngũ địa
Tam địa tức Lục địa 
Tịch tịnh không thứ lớp
Các pháp tịch tịnh luôn 
Người tu hành không pháp
Bình đẳng pháp có không 
Bấy giờ Thánh được quả.
Thể tướng các pháp không 
Làm sao ở không (có) pháp
Mà tạo tác ngang bằng (bình đẳng)
Tịch diệt không phân biệt.
Nếu chẳng thấy các tâm 
Pháp trong và ngoài động
Bấy giờ diệt pháp xong 
Thì thấy tâm bình đẳng.
Ngu vô thỉ lưu chuyển 
Thủ pháp như ôm mang
Lừa (dối) phàm phu mà chuyển.
Như nhân quế, quế sinh.
Nương nhân đó mà quán 
Ý thủ cảnh giới chung
Nương vào chủng tử thức 
Có thể tạo tâm nhân.
Tu được và trụ giữ 
Tùy chủng loại được thân
Và sở đắc trong mộng 
Thông này có bốn giống (thứ).
Trong mộng sở đắc thông
Và với ân chư Phật
Thủ chủng loại thân được
Thông đó chẳng thật thông.
Huân tập tâm, chủng tử 
Tựa có pháp chuyển sinh
Người ngu chẳng hay biết
Vì họ, nói pháp sinh.
Phân biệtngoại vật 
Các pháp tướng được thành.
Bấy giờ lòng buồn bực 
Chẳng thấy tự mê hoặc.
Vì sao nói có sinh? 
Vì sao nói không thấy?
Chẳng thể thấy mà thấy ?
Nguyện xin nói vì con!
Vì đối với những ai? 
Nói những pháp nào có?
Vì đối với những ai? 
Nói những pháp nào không?
Tâm thể tự thanh tịnh 
Ý khởi vẩn đục chung
Ý và tất cả thức 
Hay huân tập chủng tử
A lê gia xuất thân 
Ý xuất cầu các pháp
Ý thức chọn cảnh giới 
Mê hoặc kiến tham lấy.
Pháp sở kiến tự tâm 
Ngoại pháp, không ngoại pháp
Quán như vậy mê lầm 
Chân như luôn nhớ nghĩ
Cảnh giới người tu thiền 
Nghiệp đại sự chư Phật
Ba (thứ) này chẳng nghĩ bàn 
cảnh giới kẻ trí.
Quá khứ, hiện, vị lai 
Niết Bànhư không
Ta nương thế đế nói 
Chân đế không tự danh.
Nhị thừangoại đạo 
Đều chấp trước tà kiến
Mê mất ở trong tâm 
Phân biệtngoại pháp.
Bích Chi Phật, Bồ tát 
La hán thấy chư Phật 
Chủng tử Bồ Đề bền 
Và trong mộng thành tựu.
Ở đâu? Vì những gì? 
Tại sao? Vì nhân gì?
Việc làm vì nghĩa gì? 
Nguyện xin nói vì con!
Tâm huyễn khử tịch tịnh 
Bè đảng nói có, không
Trong lòng mê bền chắc 
Nói huyễn có, huyễn không.
Tướng sinh diệt tương ứng 
Tướng, khả tưởng có không,
Phân biệt chỉ là ý 
Năm thứ thức cùng chung.
Bóng gương cùng sóng nước...
Từ tâm chủng tử sinh
Nếu tâm và cả ý 
Mà các thức chẳng sinh
Thì được Như ý thân 
Cho đến ngôi Phật địa.
Ấm, giới và các duyên 
pháp tự thể tướng
Giả danhnhân tâm 
Như mộng như mao luân.
Thế gian như huyễn, mộng
Thấy y chỉ thật chân
Các tướng thật tương ứng 
Lìa các nhân đo lường.
Nội cảnh các Thánh nhân
Thường quán các diệu hạnh
Mê che nhân đo lường 
Khiến thế gian thật giải.
Lìa mọi luận bàn suông (hí luận)
Trí chẳng trụ mê hoặc 
Thể tướng các pháp không (có).
Không và thường, vô thường.
Lòng trụ ở ngu dại 
Mê hoặc nên biệt phân
Nói về những pháp đó
Chẳng phải nói vô sinh.
Một, hai và cả hai(?) 
Bỗng nhiên tự tại
Nương thời(gian) thắng vi trần.
Duyên phân biệt thế gian.
Hạt giống đời là thức 
Y chỉ nhân đó sinh 
Như nương vách vẽ tượng(hình dáng
Biết thật là diệt tan.
Như người thấy ở huyễn 
Cũng vậy, thấy tử sinh
Người ngu nương bóng tối
Trói buộc, giải thoát sinh.
Những đủ thứ nội ngoại 
Các pháp và nhân duyên
Tu hành quán như vậy 
Chỗ tịch tịnh trụ yên.
Vô tâm trong huân tập 
Lòng chẳng huân tập chung
Lòng không tướng sai biệt
Huân tập trói buộc lòng.
Như cấu(cấu bẩn) thấy huân tập
Ý từ ở thức sinh
Như lụa, tâm cũng thế 
Nương huân tập chẳng rõ (rệt).
Như vật phi vô vật 
Ta nói hư không vậy.
Trong A lê gia thân 
Lìa khỏi vật có không
Ý thức chuyển diệt xong 
Lòng lìa khỏi pháp bẩn.
Tất cả pháp biết thông 
Nên ta nói tâm Phật.
ba cõi đoạn tuyệt 
Lìa khỏi pháp có không.
Thế gian bốn tương ứng 
Các hữu đều như huyễn 
Là hai pháp thể tướng 
Thất địa từ tâm sinh.
Địa khác cũng viên thành 
Nhị địa và Phật địa
Sắc giới, Vô sắc giới 
Dục giớiNiết Bàn.
Tất cả tâm cảnh giới 
Chẳng lìa khỏi trong thân
Nếu thấy các pháp sinh 
sinh pháp mê hoặc.
Hiểu tự tâm mê hoặc 
Là chẳng sinh các pháp,
Không sinh thể tướng pháp
Sinh tức chấp thế gian.
Thấy các tướng như huyễn
Như vậy pháp thể tướng
Thủ hư vọng tư tâm 
Chớ phân biệt các pháp.
Vì si không trí nói 
Ba thừa cùng một thừa
Và nói đến vô thừa 
Các thánh nhân tịch tịnh.
Pháp ta có hai thứ 
Tướng pháp và chứng nữa
Bốn thứ tướng châm lường
Lập lượng, pháp tương ứng.
Hình và tướng thắng chủng
Thấy mê hoặc biệt phân
Danh tựhành xứ 
Hạnh Thánh thật sạch trong (thanh tịnh).
Nương phân biệt (mà) phân biệt 
Nên có tướng phân biệt
Lìa phân biệt (mà) biệt phân 
Cảnh giới Thánh thật thể.
Chẳng biến (đổi) thật thường hằng 
Tính sự và thật thể
Chân như lìa pháp tâm 
Xa lìa khỏi phân biệt.
Nếu có pháp sạch trong (thanh tịnh)
Cũng không có nhiễm pháp
Do có thanh tịnh tâm 
Mà thấy có nhiễm pháp.
Cảnh giới Thánh sạch trong 
Vậy nên không thật sự
Là tướng các pháp thể 
Cảnh giới của Thánh nhân.
Từ nhân sinh thế gian 
Lìa khỏi các phân biệt
Như huyễn, mộng vân...vân..
Thấy pháp được giải thoát.
Huân tập nhiều não phiền (đủ thứ)
Chung tâm tương ứng sinh
Chúng sinh thấy ngoại pháp 
Chẳng phải pháp thể tâm.
Tâm pháp thường thanh tịnh 
Chẳng phải mê hoặc sinh
Mê từ phiền não khởi 
Vậy nên tâm chẳng thấy.
Mê hoặc tức thật chân 
Chỗ khác chẳng thể được
Chẳng ấm, chẳng chỗ khác
Quán ấm, hành thật chân.
Lìa thấy, giỏi thấy tướng 
Nếu thấy pháp hữu vi
Thấy tự tâm thế gian 
Người đó giỏi lìa tướng
Chớ thấy pháp duy tâm 
Chớ phân biệt ngoại nghĩa
Trụ Chân như xét xem 
Qua khỏi tâm cảnh giới 
Qua cảnh giới tâm xong 
Xa lìa các tịch tịnh
Tu hành trụ tịch tịnh 
Hành giả trụ lặng yên (tịch tịnh).
Chẳng thấy Ma ha diễn (Đại thừa)
Tịch tịnhtự nhiên
Nương các nguyện tịch tịnh
Trí vô ngã tịch tịnh.
Nên quán cảnh giới tâm 
Cũng quán cảnh giới trí
Trí tuệ quán cảnh giới 
Ở trong tướng chẳng mê.
Cảnh giới tâm: Khổ đế 
Tập là cảnh giới trí
Nhị đếPhật địa 
cảnh giới Bát nhã.
Đắc quảNiết Bàn 
Và cả tám thánh đạo
Tất cả pháp, biết thông 
Được Phật trí thanh tịnh.
Nhãn sắc và cả minh (ánh sáng) 
Hư không cùng tâm ý
Như vậy hòa hợp lại 
Thức từ Lê gia sinh
Năng thủ, khả thủ thọ (nhận) 
Vô sự cũng vô danh.
Không có nhân phân biệt 
Nếu thủ lấy ở giác
Thì trong nghĩa không danh
Trong danh, nghĩa cũng vậy.
Nhân không nhân mà sinh
Chớ phân biệt (mà) phân biệt 
Tất cả pháp không thật 
Cũng vậy lời ngữ ngôn.
Nghĩa vậy không, chẳng không.
Ngu si thấy pháp đúng
Vọng lấy mà trụ chân (thật) 
Tà kiến nói giả danh.
Một pháp thành năm thứ (?)
Như thật giỏi lìa xa
Năm thứ là pháp ma 
Có, không vượt qua khỏi.
Chẳng phải tu cảnh giới 
Là pháp ngoại đạo mà!
Chẳng cầu có pháp tà 
Cũng không tương kiến ngã.
Do là pháp mình thường 
Chỉ từ ngôn ngữ sinh 
Thật đế chẳng thể nói 
Tịch diệt thấy pháp liền.
A lê gia y chỉ 
Ý thức hay chuyển sinh
Nương hư, hư vọng thành
Chân nhưtâm pháp
Như vậy người tu hành 
Hay biết tâm tính thể
Phân biệt thường, vô thường
Ý tướng và sự việc
Sinh và cùng chẳng sinh 
Hành giả chẳng nên thủ (lấy)
Hai pháp chớ biệt phân 
Thức từ Lê gia sinh
Một nghĩa hai tâm pháp 
Chẳng biết như vậy sinh.
Thủ (lấy) một pháp, hai pháp
cảnh giới người phàm
Không người nói và nói 
Chẳng không do thấy tâm.
Chẳng thấy ở tự tâm 
Nên sinh màn lưới thấy
Các nhân duyên chẳng sinh
Các căn cũng như vậy.
Giới và năm ấm không 
Không hữu vi, không tham
Vốn không có tác nghiệp 
Phi hữu vi, chẳng làm.
Không trừ, cũng không buộc
Không buộc, không giải thoát
Không vô ký, vô vật 
Không pháp, không phi pháp
Không thời không Niết Bàn
Pháp thể cũng là không 
Không Phật, không thật đế
Không nhân cũng không quả
Không diệt, không đảo điên 
Không diệt cũng không sinh
Mười hai chi cũng không 
Biên, vô biên cũng vậy
Các tà kiến lìa khỏi 
Vậy nên nói duy tâm.
Phiền não, nghiệp và thân
Tác giả cùng quả báo
Như mộng và ngọn lửa 
Như Càn thát bà thành...
Trụ ở trong tâm pháp 
Các pháp tướng mà sinh
Trụ ở trong tâm pháp 
Mà thấy pháp đoạn, thường.
Trong Niết Bàn không ấm
Tưởng vô ngã cũng không 
Hay vào chỉ là tâm 
Giải thoát chẳng chọn tướng.
Thấy lỗi gì tha nhân 
Bên ngoài chúng sinh thấy
Tâm chẳng phải có, không 
Do huân tập chẳng hiển (rõ rệt).
Trong bẩn chẳng thấy trắng
Trong trắng chẳng thấy bẩn
Như mây che hư không 
Vậy nên tâm chẳng thấy.
Tâm hay tạo tác nghiệp 
Trí ở trong phân biệt 
Tuệ hay quán lặng yên (tịch tịnh).
Được pháp thể đại diệu.
Cảnh giới buộc, tâm nương
Trí nưong giác quán sinh
Cảnh giới thắng tịch tịnh
Tuệ hay hành ở trong.
Tâm ý và ý thức 
Ở trong tướng biệt phân
Được thể không phân biệt
Nhị thừa chẳng (phải) các con.
Tướng thắng nhân tịch tịnh
Chư Phật trí tuệ tịnh
Với thắng nghĩa hay sinh
Đã lìa các tướng hành
Phân biệt pháp thể có 
Tha lực pháp là không 
Mê hoặc thủ phân biệt 
Chẳng phân biệt tha lực.
Phi các đại có sắc 
Có sắc phi các đại
Mộng, huyễn, càn thát bà
Thú khát yêu không nước.
Ta có ba thứ tuệ 
Được y chỉ Thánh danh
Tâm trong không pháp sinh
Vậy nên tâm chẳng thấy.
Trụ giữ thân tư sinh (của sinh sống của thân) 
Chúng sinh nương huân (tập) kiến
Nương tướng phân biệt kia
Mà nói đến các pháp.
Lìa tương ứng nhị thừa 
Tuệ lìa hiện pháp tướng
Hư vọng thủ (lấy) pháp nên
Thanh Văn nhìn thấy pháp.
Hay vào chỉ là Tâm 
Trí Như Lai vô cấu
Hoặc thật và chẳng chân (thật).
Từ nhân duyên sinh pháp.
Một hai là thấy tà 
Rốt ráo hay thủ trước
Đủ thứ các nhân duyên 
Như huyễn không thật có.
Tướng như vậy đủ thứ 
Phân biệt chẳng thể thành
Nương vào tướng phiền não
Trói buộc từ tâm sinh.
Chẳng biết pháp phân biệt
Tha lựcphân biệt
Thể phân biệt có thành 
Tức là pháp tha lực.
Đủ thứ thấy phân biệt 
phân biệt tha lực
Nghĩa thế đế đệ nhất 
Đệ tam không nhân sinh (?)
Phân biệt nói tương tục 
Đoạn là cảnh thánh nhân
Người tu hành một việc 
Thấy đủ thứ chỉ tâm.
Chỗ đó không thể tâm 
Tướng phân biệt như vậy 
Người trong mắt bị màn 
Ngăn phi sắc phi sắc
Như ngu thấy tha lực
Như vàng lìa bụi trần
Như nước lìa bùn đục 
Như hư không lìa vân (mây)
Phân biệt tịnh như vậy. 
Có ba thứ Thanh Văn
Ứng, hóa và nguyện sinh 
Lìa các tham si bẩn
Tướng các Như Lai không(có).
Trong lòng chúng sinh tâm
Thấy tượng Như Lai Phật
Phân biệt không như vậy
Pháp thể tha lực có. 
Thấy có, không hai biên
Thấy nên thấy phân biệt 
Nếu không pháp phân biệt
Tha lực làm sao có? 
Xa lìapháp thể
Thật có pháp thể sinh 
Y chỉphân biệt
Mà thấy ở tha lực
Nương hòa hợp tướng, danh
Mà sinh ra phân biệt 
Việc thành tựu thường không
Tha lực phân biệt sinh. 
Bấy giờ biết thật thể
Đệ Nhất Nghĩa sạch trong (thanh tịnh). 
Phân biệt có mười thứ
Tha lực có sáu thứ 
Chân như là nội thân
Vậy nên không tướng khác.
Năm pháp là pháp chân (thật)
Và ba thứ thật tướng 
Như vậy người tu hành
Chẳng hoại Chân như pháp
Tinh tú, mây, dáng hình
Tợ như thể nhật, nguyệt 
Các chúng sinh thấy tâm
Khả kiến huân tập sinh. 
Các Đại không tự thể
Phi năng kiến, khả kiến 
Nếu sắc từ Đại sinh
(Thì) Các Đại sinh các Đại.
Như vậy Đại chẳng sinh
Trong Đại không bốn Đại
Nếu quả là bốn Đại
Thì đất, nước... là nhân 
Thật và giả Danh sắc
Cũng vậy mà huyễn sinh.
Càn thát bà và mộng
Thú thích nước thứ năm 
Nhất xiển đề năm thứ
Các tính cũng như thế. 
Năm thừa và phi thừa 
Niết Bàn có sáu thứ 
Ấm có hai mươi tư
Sắc lại có tám thứ. 
Phật có hai mươi tư
Phật tử có hai thứ 
Cửa độ có trăm thứ
Thanh Văn có ba thứ.
Nước chư Phật chỉ một
Mà Phật cũng có một 
Giải thoát có ba thứ
Lòng nghĩ có bốn thứ 
Ngã, vô ngã sáu thứ
Cảnh khả tri bốn thứ. 
Lìa khỏi các nhân duyên
Cũng lìa lỗi tà kiến 
Biết ly cấu nội thân
Pháp Đại Thừa Vô thượng.
Sinh và cả chẳng sinh
Có tám thứ, chín thứ 
Thứ lớp nhất thời thành (chứng)
Lập pháp chỉ là một. 
Vô sắc có tám thứ
Thiền sai biệt sáu thứ 
Duyên GiácPhật tử
Năng thủ có bảy thứ. 
Không có pháp ba đời
Thường, vô thường cũng vậy,
Nghiệp quảviệc làm
Như làm việc trong mộng.
Phật tùng lai (từ xưa đến nay) chẳng sinh
Phật tửThanh Văn 
Lòng lìa khỏi khả kiến
Cũng thường như pháp huyễn: 
Thai sinh, chuyển pháp luân
Xuất giaĐâu suất 
Trụ trong những đất nước
Khả kiến và chẳng sinh 
Khứ, hành và chúng sinh 
Nói pháp và Niết Bàn
Hiểu thật đế đất nước
Pháp sinh từ nhân duyên
Các rừng cây thế gian 
Vô ngã ngoại đạo hạnh. 
Thiền thừa A lê gia
Chứng quả chẳng nghĩ bàn
Tính trăng và tinh tú
Các vua A tu la 
Dạ xoa, Càn thát bà
Nhân nghiệp mà phát sinh
Chẳng thể nghĩ bàn biến(biến đổi).
Lùi nương huân tập duyên
Đoạn tuyệt các biến dịch
Thì tội phiền não diệt. 
Tất cả các Bồ tát 
như thật tu hành 
Chẳng chứa các của báu
Voi ngựa và bạc vàng 
Trâu dê cùng nô bộc...
Lúa gạo với ruộng vườn... 
Chẳng nằm “xuyên khổng sàn” (giường xuyên lỗ (?))
Chẳng được “nên đồ địa”(bùn trét đất (?)) 
Đồng đỏ trắng, bạc, vàng
Đồ dùng và chén, bát... 
Người tu hành tịnh hạnh
Tất cả chẳng được chứa. 
Quần áo Kiều-xa-gia
Tất cả chẳng được mặc. 
Cà sa Khâm-bà-la
Phân trâu, cỏ, trái, lá 
Nước bùn đất xanh, đỏ
Nhuộm hoại màu trắng đi.
Bát bằng đá, gốm, sắt
Ngọc kha và lưu ly... 
Bát như vậy cho giữ
Đủ đầy lượng Ma đà. 
Vì cắt may quần áo
Cho giữ tứ thốn đao(dao bốn tấc) 
Lưỡi cong như bán nguyệt
Chẳng được học kỹ thuật.
Người như thật tu hành
Chẳng ra chợ buôn bán 
Chạy theo người thế gian 
Và những ưu-bà-tắc 
Thường hộ giữ các căn
Biết được nghĩa như thật 
Kinh điển đọc tụng luôn
Những Tỳ ni học tập 
Chẳng xen lẫn thế gian 
Người tu hành như vậy. 
Chỗ trống cùng nghĩa trang
Dưới cây rừng, trong hang
Rừng Thi đà trong cỏ
Cho đến đất ngoài đồng 
Người tu hành như thật
Trụ những chỗ như trên. 
Ba y thường tùy thân
Chẳng chứa của tiền khác
Vì thân cần áo quần
Người khác cho, được nhận.
Ra đi vì xin ăn
Cũng chẳng nhìn phải, trái
Sáu thước trước được nhìn
An tường mà thẳng tiến. 
Như ong hút mật bông(hoa)
Xin ăn cũng như vậy. 
Tỳkheo, Tỳkheo ni
Trong chúng xen lẫn chúng
Ta vì Phật tử xướng:
Đây là “ác mạng họat” (cách kiếm sống xấu, ác) 
Người như thật tu hành.
Chẳng được ăn chỗ ấy. 
Vương tử, tiểu vương, vương
Đại thần và trưởng giả 
cầu xin uống ăn
Tất cả chẳng được đến. 
Nhà chết và nhà sinh
Nhà yêu thích, nhà thân (quen).
Chúng Tỳkheo tạp nhạp...
Người tu hành chẳng ăn. 
Chùa, nhà khói chẳng dứt
Thường là đủ thứ ăn 
Nên vì người tạo tác
Hành giả chẳng nên ăn. 
Lìa bè đảng có, không
Năng kiến, khả kiến buộc
Hành giả xem thế gian 
Lìa khỏi pháp sinh diệt
Sức tam muội tương ưng
Và các thông tự tại 
Phân biệt nếu chẳng sinh
Chẳng lâu được Như pháp.
Từ người thắng, vi trần...
Trong duyên chớ phân biệt
Hòa hợp các nhân duyên
Hành giả chẳng phân biệt.
Phân biệt các thế gian
Từ huân (tập) sinh đủ thứ
Hành giả như thật xem
Ba hữu như huyễn, mộng.
Ba hữu chớ biệt phân
Của nuôi thân trụ giữ 
Lìa bài báng có, không
Cũng lìa thấy có, không. 
Ăn uống như uống thuốc
Thân tâm thường chánh trực
Chuyên cung kính một lòng
Phật và các Bồ tát 
Người như thật tu hành
Nên biết những tướng luật
Và cả những điển Kinh
Giản trạch (chọn lựa) các pháp tướng.
Năm pháp thể và lòng
Tu hành không ngũ tướng
Thanh tịnh nội pháp thân
Các Địa và Phật địa 
Người như vậy tu hành
Trụ ở hoa sen lớn 
Chư Phật đại từ bi
Tay Như ý xoa đầu. 
sáu đường đến, đi
Các hữu sinh lòng chán 
Phát khởi hạnh thật chân
Đến trong Thi Đà lâm
Tướng hình thể nhật nguyệt
Và với tướng biển hoa 
Lửa hư không đủ thứ
Người tu hành thấy pháp.
Thấy các tướng như trên
Chọn lấy pháp ngoại đạo 
Cũng theo đạo Thanh Văn
cảnh giới Duyên Giác.
Lìa như vậy vân... vân... 
Trụ ở chỗ tịch tịnh 
Thì Phật diệu quang minh
Đi đến các đất nước, 
Xoa đỉnh đầu Bồ tát 
Tướng diệu xoa đỉnh này 
Thuận theo Chân như pháp
Bấy giờ được diệu thân. 
Có không nhân pháp thể
Lìa khỏi pháp đoạn thường
Bài báng pháp có không
phân biệt trung đạo
Phân biệt không các nhân
Không nhân là đoạn kiến
Thấy đủ thứ ngoại pháp
Là người diệt trung đạo
Chẳng xả các tướng pháp
Sợ có tướng đoạn tuyệt 
Có, không là báng pháp
Như vậy nói trung đạo
Giác chỉ là nội tâm
ngoại pháp chẳng diệt 
Chuyển hư phân biệt 
Tức là pháp trung đạo. 
Duy tâm không thể thấy
Lìa khỏi tâm chẳng sinh 
Tức là pháp trung đạo
Ta và chư Phật nói, 
Sinh và với chẳng sinh
Hữu vật, vô vật không 
Các pháp không tự thể
Chớ phân biệt hai pháp. 
Phân biệt là có pháp
Ngu phân biệt giải thoát 
Chẳng giác tâm phân biệt
Lìa khỏi hai tướng thủ. 
Giác biết tự tâm kiến
Thì lìa khỏi hai kiến 
Như thật biết xa lìa
Chẳng diệt phân biệt tướng.
Thật biết tâm khả kiến
Thì biết phân biệt sinh 
Chẳng sinh các phân biệt
Chân như lìa tâm 
Lìa các lỗi ngoại đạo
Các pháp nếu thấy sinh 
Kẻ trí kia nên lấy
Mà chẳng diệt Niết Bàn 
Biết pháp này là Phật
Ta nói và Phật khác 
Nếu thấy khác các pháp 
Là nói việc ngoại đạo
Chẳng sinh hiện ra sinh
Chẳng thoái hiện ra thoái
Như trăng nước đồng thời
Vạn ức nước nhìn thấy. 
Một thân và không lường
Rót mưa và đốt lửa 
Tâm, tâm thể chẳng khác
Nên nói chỉ là tâm. 
Trong tâm chỉ là tâm
Tâm không tâm mà sinh 
Đủ thứ tướng sắc hình
Cái thấy chỉ là tâm. 
Thân Phật và Thanh Văn
Cùng thân Bích Chi Phật...
Lại đủ thứ sắc thân
Chỉ nói là nội tâm 
Cõi Vô sắc không sắc
Cõi Sắc và địa ngục 
Sắc hiện làm chúng sinh
Chỉ là nhân duyên tâm. 
Pháp Như huyễn tam muội
Mà thân như ý sinh 
Tâm Thập địa tự tại
Bồ tát chuyển được đó. 
Tự tâm phân biệt danh
Hí luận mà lay động 
Nương thấy nghe, biết sinh
Ngu si nương tướng biết. 
Tướng là thể Tha lực
Nó nương danh phân biệt
Phân biệt là các tướng
Nương tha lực pháp sinh.
Trí tuệ quán các pháp
Không tha lực, tướng không 
Rốt ráo không thành tựu
Trí nương đâu biệt phân? 
Nếu có pháp thành tựu
Lìa khỏi pháp có, không
Lìa khỏi thể có, không
Hai thể làm sao có? 
Phân biệt hai thứ thể
Hai thứ thể nên có 
Phân biệt thấy đủ thứ.
Cảnh giới Thánh sạch trong.
Phân biệt là đủ thứ
Phân biệttha lực 
Nếu phân biệt khác thì
Rơi vào ngoại đạo thuyết.
Phân biệtphân biệt
Thấy là thể tướng (của) nhân
Phân biệt nói phân biệt
Thấy là nhân tướng sinh.
Lìa khỏi hai phân biệt
Tức là pháp viên thành 
Đất nước hóa thân Phật 
Một thừa và ba thừa
Không Niết Bàn tất cả 
“Không” lìa tất cả sinh 
Phật ba mươi sai biệt
Riêng lại có mười thứ. 
Khí dụng của mọi nước
Nương vào lòng chúng sinh
Như phân biệt tướng pháp
Hiện thấy đủ thứ pháp. 
Pháp đó không đủ thứ
Pháp Phật (pháp thân Phật) ở thế gian.
Pháp Phật là chân Phật
Còn thì nương đó sinh (hóa sinh ra)
Chúng sinh tự chủng tử
Thấy tướng Phật tất cả 
Nương mê hoặc chuyển lòng
Có thể sinh phân biệt
Phân biệt chẳng lìa chân
Và chẳng lìa khỏi tướng 
Thọ lạc và thể chân (thật)
Hóa lại làm các hóa (biến hóa).
Phật chúng ba mươi sáu (?)
Là thể Phật thật chân 
Như xanh, đỏ và muối
Sữa trắng và mật đường 
Lá, quả, hoa vân... vân...
Như những ánh sáng trăng
Phi nhất cũng phi dị
Như sóng trong nước dậy.
Như vậy bảy thức cùng
Chung hòa hợp với lòng 
Như biển cả chuyển biến
Vậy nên sóng dậy lên. 
A lê gia cũng vậy
Danh thức cũng như vậy 
Tâm ý và ý thức
Nghĩa ngoại tướng phân biệt.
Tám tướng không sai biệt
Chẳng phải năng, khả kiến
Như sóng nước biển lớn
Không có tướng sai biệt
Các thức ở trong tâm
Chuyển biến chẳng thể được
Tâm hay tạo các nghiệp
Ý là hay phân biệt 
Ý thức hay biết pháp
Năm thức hư vọng thấy 
Đủ thứ trắng, đỏ, xanh
Thức chúng sinh hiện thấy
Đối pháp tướng sóng nước
Là ta nói tịch mặc (Mâu Ni).
Đủ thứ trắng, đỏ, xanh
Trong sóng nước không vậy
Các tướng, ngu si thấy
Nói chuyển ở trong lòng 
Trong tâm không là thể
Lìa tâm không thấy ngoài
Nếu có được khả thủ
Nên có được năng thủ
Trụ giữ thân tư sinh(của cải thân sinh sống)
Nói sóng nước tương tợ 
Hiện thấy thức chúng sinh
Sóng nước chung tương tợ.
Sóng biển cả khởi lên
Hiện thấy như múa chuyển
Bản thức như vậy chuyển
Biết chẳng thủ vì sao? 
Ngu si không trí tuệ
Bản thức như sóng bể (biển)
Sóng nước đối tướng chuyển
Vậy nên nói thí dụ
Mặt trời mọc thế gian 
Bình đẳng soi sinh chúng
Như vậy đèn Thế Tôn 
Chẳngvì ngu (mà) nói pháp.
Trụ ở Chân như pháp
Chẳng nói thật vì sao? 
Nếu nói ra pháp thật
Trong lòng không pháp thật
Như trong mộng và gương
Như sóng nước trong bể 
Như cảnh giới tự tâm
Đều thấy không sau, trước
Cảnh giới nhất thời không
Vậy nên sinh thứ lớp. 
Thức hay biết các pháp 
Ý lại hay biệt phân 
Năm thức hiện thấy pháp
Tịch tịnh không thứ lớp. 
Như thầy vẽ thế gian 
đệ tử thầy vẽ 
diệu pháp ta trụ
Nói vì thật tu hành
Lìa phân biệt phân biệt 
thật trí nội thân 
Ta nói vì Phật tử
Chẳng vì những ngu nhân.
Cũng như huyễn đủ thứ
Khả kiến không như thế 
Nói đủ thứ cũng vậy
Nói cũng vậy chẳng vậy. 
Vì một người nói pháp
Chẳng nói vì người khác 
Như người bệnh chẳng đồng
Thầy thuốc cho thuốc riêng.
Chư Phật vì sinh chúng
Nói các pháp tùy lòng 
Nương chủng tử ngoại pháp
Phân biệt nói hiện pháp. 
Tâm thủ (lấy) pháp tha lực
Khả thủ là phân biệt 
Y chỉ chủng tử tâm
Quán lấy ngoại cảnh giới.
Hai thứ chuyển mê hoặc 
Lại không đệ tam nhân 
Do mê hoặc chẳng sinh
Nương pháp nào chẳng sinh?
Sáu mươi, mười tám pháp
Vậy nên chỉ nói tâm. 
Tự tâm thấy ngoại pháp
Thấy kia lìa khỏi ngã 
Nếu vào lòng biệt phân
Thì lìa các pháp tướng
Nương vào A lê gia
Hay sinh ra các thức 
Ngu si vào nội thân
Tâm thấy ở ngoại nhập. 
Thủ (lấy) tinh tú, mao luân
Như trong mơ thấy sắc 
Hữu vi, vô vi thường
Phân biệt không như vậy.
Huyễn, Càn thát bà thành
Như cầm thú thích nước 
Không vậy mà thấy có
Pháp tha lực cũng thế
Hình tướng ngã, các căn
Ta nói ba thứ tâm 
Tâm ý và ý thức
Lìa khỏi tự thể tướng 
Tâm ý và ý thức
Lìa khỏi tha thể tướng 
Tâm ý và ý thức
Không ngã, không hai thể.
Tướng năm pháp tự thể
cảnh giới Thế Tôn 
Về tướng có ba thử
Nương vào một huân (tập) nhân
Như màu sắc một thứ
Thấy đủ thứ trên tường. 
Hai thứ tâm vô ngã
Ý và các thức tướng 
Năm thứ pháp thể tướng
Tính ngã không như vậy.
Xa lìa các tướng tâm
Thức lìa khỏi ý tướng 
Thể các pháp như thế
cảnh giới của Ngã. 
Lìa khỏi các pháp thể
Là tính của Như Lai 
Nghiệp thân, miệng và ý
Kia chẳng tạo bạch pháp.
Tính Như Lai sạch trong
Lìa khỏi các tu hành 
Tự tại tịnh các thông
Trang nghiêm lực tam muội
Đủ thứ ý sinh thân
Là tính Như Lai tịnh 
Lìa bẩn, trí nội thân
Lìa khỏi các tướng nhân. 
Bát địaPhật địa
Là tính các Như Lai 
Viễn Hành, Thiện Thệ địa
Pháp Vân cùng Phật địa 
Là tính của chư Phật
Địa khác xem ba thừa
Nương riêng thân chúng sinh 
Và vì ngu phế tướng 
Vì nói bảy thứ địa
Nên Phật nói tâm địa
Các chướng thân, miệng, lòng
Trong Thất địa không thế
Trong Bát địa diệu thân
Như mơ tướng bạo thủy. 
Bát địa và Ngũ địa
Học đủ thứ kỹ thuật 
Tất cả các Phật tử
Trong ba hữu làm vua. 
Sinh và cùng chẳng sinh
Chẳng phân không chẳng không 
Thật và cả chẳng thật
Không như vậy trong lòng.
Đây thật, đây phi thật
Chớ phân biệt thật này 
Duyên GiácThanh Văn 
Chẳng vì Phật tử nói 
Có không có phi thật
Cũng không có tướng không 
Giả danh và thật pháp
Trong lòng tất cả không. 
Nương thế đế có pháp
Đệ nhất nghĩa đều không 
Không thật pháp mê hoặc
Là các pháp thế đế
Tất cả pháp, không pháp
Ta nói đến giả danh 
Ngôn ngữthọ dụng
Ngu si thấy thật chân (như thật).
Theo với pháp ngữ ngôn
Là thật có cảnh giới 
Từ ngôn ngữ pháp sinh
Thấy pháp không như vậy.
Như lìa vách, vẽ không (có)
Cũng như ảnh lìa tượng 
Bản tịnh thức cũng vậy
Vì sóng chẳng hiện lên
Như huyễn, tâm cũng vậy
Ý như người giảo hoạt 
Thức với năm thứ chung
Phân biệt thấy như thải (năm sắc xen lẫn). 
Nói là tập (quen) pháp chân
Tập (gom) sở hữu hóa làm
Là chư Phật căn bản
Còn thì ứng hóa Phật. 
Lòng mê trong khả kiến
Trong lòng khả kiến không 
Của nuôi thân trụ giữ
A lê gia hiện liền. 
Tâm ý và ý thức
Thật thể năm thứ pháp 
Hai thứ vô ngã tịnh
Lời nói Phật Như Lai
Hư vọng giác phi cảnh
Và cũng vậy Thanh Văn 
cảnh giới nội thân
Lời nói Như Lai Phật. 
Dài ngắn đợi chờ nhau
Đó đây sinh nương nhau 
Có có thể thành không 
Không có thể thành có 
phân biệt vi trần
Sắc thể chẳng phân biệt
Nói chỉ là ở tâm
Tà kiến chẳng thể tịnh 
Trong đó phân biệt không 
Chẳng không cũng như vậy.
Chỉ phân biệt có, không
Khả thuyết không như vậy 
Hợp công đức vi trần
Ngu si phân biệt sắc. 
Mỗi một vi trần không 
Vậy nên không là nghĩa 
Tự tâm thấy tướng hình
Chúng sinh thấy ngoại hữu (có ở bên ngoài) 
Pháp khả kiến ngoài không 
Vậy nên không là nghĩa. 
Tâm như huyễn, mao luân
Càn thát bà thành, mộng
Cầm thú yêu hỏa luân
Thật không mà người thấy.
Một và thường, vô thường
Hai và chẳng hai nữa 
Lỗi vô thỉ buộc ràng
Ngu siphân biệt
Ta chẳng nói ba thừa
Mà chỉ nói một thừa 
Vì nhiếp lấy sinh chúng
Vậy nên nói một thừa. 
Giải thoát có ba thứ
Cũng nó pháp vô ngã 
Trí bình đẳng, não phiền
Nương giải thoát phân biệt.
Cũng như cây trong nước
Bị sóng cuốn lênh đênh 
Như vậy si Thanh Văn
Vì các tướng phiêu đãng. 
Họ không chỗ rốt cùng
Cũng lại chẳng hoàn sinh (sinh trở lại).
Được Tịch diệt tam muội 
Chẳng hay (biết) kiếp không lường.
Định của Thanh Văn đó
Chẳng phải Bồ tát ta 
Lìa các tùy phiền não
Buộc phiền não nương theo.
Say cảnh vui tam muội
Trụ cõi Vô Lậu kia 
Như người say cõi thế
Rượu tan thì tỉnh ra. 
Người đó nhiên hậu được
Thân thể Phật pháp ta 
Như kẻ chìm bùn sâu
Thân vùng vẫy đây đó. 
Như vậy Thanh Văn say
Tam muội, chìm cũng vậy.

KINH NHẬP LĂNG GIÀ
- Quyển thứ chín hết -

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12416)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13969)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10739)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10403)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11074)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11868)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13039)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13526)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33513)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11251)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12823)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12955)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11525)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17771)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11319)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11746)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11404)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18870)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12460)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11214)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13060)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15621)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11732)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11605)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12629)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12543)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13860)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12889)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12833)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13198)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12649)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12608)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11665)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11649)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12220)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12252)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19687)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11876)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11903)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16727)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12573)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14946)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15977)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12761)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12132)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11797)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11840)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13044)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16418)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13140)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12384)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11729)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19736)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11067)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11168)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10315)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11014)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10881)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9950)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11654)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant