Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm Hai: Thắng Nghĩa

18 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7217)
Phẩm Hai: Thắng Nghĩa
KINH GIẢI THÂM MẬT
HT. Thích Trí Quang dịch giải 23.10.1988 PL 2532
Đệ Tử Thượng Thiện Hạ Thanh, Long Beach CA, USA Ấn Tống

Phẩm hai: Thắng Nghĩa (19)

Vào lúc bấy giờ, ở trước đức Thế tôn, đại bồ tát Như lý thỉnh vấn hỏi đại bồ tát Giải thâm nghĩa ý: Tối thắng tử, nói các pháp bất nhị (20) thì các pháp là những gì? tại sao lại bất nhị? Đại bồ tát Giải thâm nghĩa ý trả lời đại bồ tát Như lý thỉnh vấn: Thiện nam tử, các pháp đại khái có hai, một là hữu vi, hai là vô vi. Trong đây, hữu vi không phải hữu vi vô vi, vô vi không phải vô vi hữu vi, (nên nói là bất nhị).

Đại bồ tát Như lý thỉnh vấn lại hỏi đại bồ tát Giải thâm nghĩa ý: Tối thắng tử, như thế nào gọi là hữu vi không phải hữu vi vô vi, vô vi không phải vô vi hữu vi? Đại bồ tát Giải thâm nghĩa ý trả lời đại bồ tát Như lý thỉnh vấn: Thiện nam tử, nói hữu vi thì đó là cái đức Bổngiả thiết; nếu là cái đức Bổngiả thiết thì cái ấy biến kế chấp trước và ngôn ngữ diễn tả (21) ; nếu là cái biến kế chấp trước và ngôn ngữ diễn tả thì cuối cùng chỉ là bao cách biến kế chấp trước và ngôn ngữ diễn tả chứ không phải chân thật, vì vậy mà không phải là hữu vi (22) . Nói vô vi thì cũng sa vào ngôn ngữ (23) ; ngoài hữu vi vô vi mà nói gì chút ít đi nữa thì cũng là như thế (24) . Thế nhưng không phải không sự thể mà có nói phô; sự thể ấy là gì, là các thánh giả, bằng sự thấy biết rất thánh, tách rời ngôn ngữ nên thể hiện sự chánh biến giác (đối với pháp tánh); rồi chính nơi pháp tánh tách rời ngôn ngữ ấy, các ngài muốn làm cho người khác cũng thể hiện chánh biến giác, nên giả thiết ngôn từ mà nói là hữu vi (25) .

Thiện nam tử, nói vô vi thì đó cũng là cái đức Bổngiả thiết; nếu là cái đức Bổngiả thiết thì cái ấy biến kế chấp trước và ngôn ngữ diễn tả; nếu là cái biến kế chấp trước và ngôn ngữ diễn tả thì cuối cùng chỉ là bao cách biến kế chấp trước và ngôn ngữ diễn tả chứ không phải chân thật, vì vậy mà không phải là vô vi (26) . Nói hữu vi thì cũng sa vào ngôn ngữ (27) ; ngoài vô vi hữu vi mà nói gì chút ít đi nữa thì cũng là như thế (28) . Thế nhưng không phải không sự thể mà có nói phô; sự thể ấy là gì, là các thánh giả, bằng sự thấy biết rất thánh, tách rời ngôn ngữ nên thể hiện sự chánh biến giác (đối với pháp tánh); rồi chính nơi pháp tánh tách rời ngôn ngữ ấy, các ngài muốn làm cho người khác cũng thể hiện chánh biến giác, nên giả thiết ngôn từ mà nói là vô vi.

Lược Giải.-

Đoạn này nói thắng nghĩa (Tâm hay Như) thì ly ngônbất nhị.

Chính Văn.-

Lúc ấy đại bồ tát Như lý thỉnh vấn lại hỏi đại bồ tát Giải thâm nghĩa ý: Tối thắng tử, như thế nào gọi là sự thể các thánh giả, bằng sự thấy biết rất thánh, tách rời ngôn ngữ nên thể hiện sự chánh biến giác (đối với pháp tánh), rồi chính nơi pháp tánh tách rời ngôn ngữ ấy, các ngài muốn làm cho người khác cũng thể hiện chánh biến giác, nên giả thiết ngôn từ mà hoặc nói là hữu vi, hoặc nói là vô vi? Đại bồ tát Giải thâm nghĩa ý trả lời đại bồ tát Như lý thỉnh vấn: Thiện nam tử, như nhà ảo thuật, hay đồ đệ của nhà ảo thuật, đứng giữa ngã tư, gom cỏ lá ngói gạch, và những vật liệu cùng việc, làm ra những ảo trạng tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh, ma ni, chân châu, lưu ly, loa bối (29) , bích ngọc, san hô, kho tàng tiền của, kho tàng thóc gạo... Những kẻ thuộc loại ngu đần, hiểu sai, không trí thức, thì thấy nghe những ảo trạng trên các vật liệu rồi, nghĩ rằng những gì mình thấy nghe thật là tượng binh cho đến kho tàng thóc gạo..., lại y như sự thấy nghe ấy mà cố chấpdiễn tả, cho rằng chỉ sự thấy nghe ấy là đúng, ai nói khác đi là dốt và láo cả. Những kẻ như vậy sau đó rất cần quan sát lại. Còn những người thuộc loại không ngu đần, hiểu đúng, có trí thức, thì thấy nghe những ảo trạng trên các vật liệu rồi, nghĩ rằng những gì mình thấy nghe toàn không thật tượng binh cho đến kho tàng thóc gạo..., thế nhưng có những ảo trạng mê hoặc thị giác, nên tưởng đây là bản thân con voi và đây là chi tiết trên bản thân ấy, cho đến tưởng đây là bản thân kho tàng thóc gạo và đây là chi tiết trên bản thân ấy (29B) ; họ không y như sự thấy nghe mà cố chấpdiễn tả, cho rằng chỉ sự thấy nghe ấy là đúng, ai nói khác đi là dốt và láo cả. Nhưng họ muốn làm cho người khác cũng biết sự thật như vậy nên cũng sử dụng ngôn từ. Những người như vậy sau đó không cần quan sát nữa.

Tương tự như vậy, những kẻ thuộc loại ngu phu, thuộc loại dị sinh (30) , chưa được tuệ giác siêu việt thế gian của các vị thánh giả, thì không thể thấu hiểu pháp tánh tách rời ngôn ngữ của các pháp, nên thấy nghe các pháp hữu vi vô vi rồi, nghĩ rằng cái mình thấy nghe được đó quyết định thật là hữu vi vô vi, lại đúng như sự thấy nghe ấy mà cố chấpdiễn tả, cho rằng chỉ sự thấy nghe ấy là đúng, ai nói khác đi là dốt và láo cả. Những kẻ như vậy sau đó rất cần quan sát lại. Còn những người không thuộc loại ngu phu, đã thấy chân lý của thánh giả, đã được tuệ giác siêu việt thế gian của thánh giả, thì thấu hiểu một cách đúng như sự thật về pháp tánh tách rời ngôn ngữ của các pháp, nên thấy nghe các pháp hữu vi vô vi rồi nghĩ rằng cái mình thấy nghe được đó quyết định không thật hữu vi vô vi, thế nhưng có hành tướng (31) của sự phân biệt (32) như ảo trạng mê hoặc tuệ giác (33) , nên có ý tưởng bản thân hữu vi vô vi, có ý tưởng chi tiết nơi bản thân hữu vi vô vi; nghĩ như vậy nên không y như sự thấy nghe mà cố chấpdiễn tả, cho rằng chỉ sự thấy nghe ấy là đúng, ai nói khác đi là dốt và láo cả. Nhưng họ muốn làm cho người khác cũng biết sự thật như vậy nên cũng sử dụng ngôn từ. Những người như vậy sau đó không cần quan sát nữa.

Ấy vậy, Thiện nam tử, trong sự thể này các vị thánh giả, bằng sự thấy biết rất thánh, tách rời ngôn ngữ nên thể hiện sự chánh biến giác (đối với pháp tánh), rồi chính nơi pháp tánh tách rời ngôn ngữ ấy, các ngài muốn làm cho người khác cũng thể hiện chánh biến giác nên giả thiết ngôn từ mà nói là hữu vi, nói là vô vi.

Lược Giải.-

Đoạn này giải thích tại sao thắng nghĩa ly ngônthánh giảngôn thuyết.

Chính Văn.-

Đại bồ tát Giải thâm nghĩa ý muốn lặp lại ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

Pháp tánh bất nhị

tách rời ngôn ngữ

Thế tôn nói

thì rất sâu xa,

không phải ngu phu

có thể hiểu biết.

Với pháp tánh ấy,

những kẻ ngu phu

thì bị mê hoặc

vì sự ngu dốt,

nên thích nắm lấy

hai pháp y cứ (34) ,

vận dụng ngôn từ

hý luận đủ cách.

Họ thành những kẻ

thuộc nhóm bất định,

hay còn hơn nữa.

thuộc nhóm tà định,

nên đã trôi lăn

ở trong cái khổ

của sự sống chết

cực kỳ lâu dài;

nay lại trái nghịch

đối với tuệ giác

cùng với ngôn luận

rất là chính xác,

nên trong vị lai

họ phải sinh vào

loài bò loài dê

các loài tương tự.

Lược Giải.-

Đoạn này dùng văn chỉnh cú mà trùng tuyên C1 trong B1 của A2.

Nói Tâm Siêu Việt Tầm Tư

Chính Văn.-

Bấy giờ đại bồ tát Pháp dũng thưa Phật: Kính bạch Thế tôn, phía đông cõi này, qua bảy mươi hai hằng sa thế giới hệ, có thế giới hệ tên Đủ tiếng khen lớn, đức Thế tôn giáo chủ hiệu Tiếng khen rộng lớn. Trước đây con từ cõi Phật ấy mà đến cõi này. Tại cõi Phật ấy, con từng thấy một nơi có bảy mươi bảy ngàn ngoại đạo, gồm cả các bậc thầy của họ, cùng ngồi với nhau. Để nghĩ về sắc thái của thắng nghĩa các pháp, họ chung nhau bàn luận, cân nhắc, xem xét. Suy tầm khắp cả mà rốt cuộc họ không biết được thắng nghĩa của các pháp, chỉ có những cái biết phức tạp, mâu thuẫn, bất định, nên họ chống nhau, cãi nhau, miệng lưỡi xuất ra giáo với lao mà đâm thọc nhau, quấy phá nhau, rồi họ giải tán. Lúc ấy con nghĩ riêng như vầy, sự xuất thế của các đức Thế tôn thật rất hiếm có, bởi vì nhờ sự xuất thế ấy mà đối với cái thắng nghĩa siêu việt lĩnh vực tầm tư (35) vẫn có những người thấu suốt chứng ngộ.

Đại bồ tát Pháp dũng kính bạch như vậy rồi, đức Thế tôn dạy ngài: Thiện nam tử, đúng như vậy, đúng như ông nói; đối với thắng nghĩa siêu việt tầm tư, Như lai đã chánh biến giác, chánh biến giác rồi Như lai nói rõ cho người.

Lược Giải.-

Đoạn này nói mục đíchgiá trị xuất thế của Phật: sự xuất thế ấy là để nói về thắng nghĩa, làm cho có người cũng chứng ngộ được thắng nghĩa ấy.

Chính Văn.-

Pháp dũng, Như lai nói thắng nghĩa thì thánh giả tự chứng ngộ từ bên trong, còn đối tượng tầm tư thì dị sinh chuyền cho nhau mà hiểu biết; thế nên, Pháp dũng, do điều này mà ông nên biết thắng nghĩa siêu việt lĩnh vực tầm tư. Pháp dũng, Như lai nói thắng nghĩa thì tuệ giác vô tướng lĩnh hội, còn tầm tư thì chỉ biết đối tượng hữu tướng; thế nên, Pháp dũng, do điều này mà ông nên biết thắng nghĩa siêu việt lĩnh vực tầm tư. Pháp dũng, Như lai nói thắng nghĩa thì không thể nói phô, còn tầm tư thì chỉ biết bằng nói phô; thế nên, Pháp dũng, do điều này mà ông nên biết thắng nghĩa siêu việt lĩnh vực tầm tư. Pháp dũng, Như lai nói thắng nghĩa thì tuyệt hết mọi sự biểu thị, còn tầm tư thì chỉ biết bằng sự biểu thị; thế nên, Pháp dũng, do điều này mà ông nên biết thắng nghĩa siêu việt lĩnh vực tầm tư. Pháp dũng, Như lai nói thắng nghĩa thì tuyệt hết mọi sự tránh luận (35B) , còn tầm tư thì chỉ biết bằng sự tránh luận; thế nên, Pháp dũng, do điều này mà ông nên biết thắng nghĩa siêu việt lĩnh vực tầm tư.

Lược Giải.-

Đoạn này lấy 5 mặt mà nói thắng nghĩa siêu việt tầm tư.

Chính Văn.-

Pháp dũng, nên nhận thức rằng, tựa như có kẻ suốt đời đã quen mùi vị cay đắng, thì đối với mùi vị của mật và đường, kẻ ấy không thể tầm tư, so sánh, tin hiểu. Hoặc như những kẻ trong bao thì gian khẳng định dục vọng, lửa dục nung đốt, thì đối với cái vui siêu thoát tinh tế do từ bên trong đã loại bỏ ngũ dục (35C) , kẻ ấy không thể tầm tư, so sánh, tin hiểu. Hoặc như những kẻ trong bao thì gian khẳng định ngôn từ, ưa thích ngôn từ hoa dạng của thế gian, thì đối với cái vui lặng thinh thánh thiện do sự yên tĩnh từ bên trong, kẻ ấy không thể tầm tư, so sánh, tin hiểu. Hoặc như những kẻ trong bao thì gian khẳng định sự biểu thị của thấy nghe hay biết (36) , ưa thích những sự biểu thị có tính thế gian (36B) , thì đối với niết bàn toàn hảo do hủy diệt mọi sự biểu thị và cái thân ngũ uẩn, kẻ ấy không thể tầm tư, so sánh, tin hiểu. Hoặc như những kẻ mà trong bao thì gian khẳng định về ngã sở, chiếm hữu và tránh luận, ưa thích mọi sự tránh luận của thế gian, thì đối với sự không ngã sở, chiếm hữu và tránh luận của nhân loạiđại lục Bắc câu lô, kẻ ấy không thể tầm tư, so sánh, tin hiểu. Tương tự như vậy, Pháp dũng, những kẻ tầm tư thì đối với thắng nghĩa siêu việt cái biết của tầm tư, họ không thể tầm tư, so sánh, tin hiểu.

Lược Giải.-

Đoạn này thí dụ về 5 mặt đã nói ở trên. Thí dụ mà cũng chỉ việc. Ngài Chân đế phối hợp 5 sự này với 5 cái vui: xuất gia, tách rời, yên lặng, chánh giácniết bàn (Vạn 34/339B dẫn).

Chính Văn.-

Để lặp lại ý nghĩa đã nói, lúc ấy đức Thế tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.

Chứng ngộ từ trong,

vô tướng lĩnh hội,

không thể nói phô,

tuyệt hết biểu thị,

đình chỉ tránh luận,

thắng nghĩa như vậy

siêu việt hết thảy

sắc thái tầm tư.

Lược Giải.-

Đoạn này dùng văn chỉnh cú mà trùng tuyên C2 trong B1 của A2.

Nói Tâm Phi Nhất Dị

Chính Văn.-

Lúc bấy giờ đại bồ tát Thiện thanh tịnh tuệ thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, Ngài thật kỳ diệu, cho đến Ngài thật khéo nói, ấy là Ngài nói thắng nghĩa rất nhỏ, rất sâu, khó thấu, vượt qua đặc tính đồng nhất hay dị biệt đối với các hành. Bạch đức Thế tôn, chính tại cõi này, con từng chứng kiến một nơi có các vị Bồ tát đồng đẳng tu hành chính xác về địa vị Thắng giải hành (37) cùng ngồi với nhau, chung nhau nghĩ bàn thắng nghĩa đối với các hành (38) là một hay khác nhau. Trong đó, một số nói thắng nghĩa với các hành hoàn toàn là một; một số nói không phải thắng nghĩa với các hành hoàn toàn là một, mà là tuyệt đối khác nhau; một số nghi hoặc, do dự, nói các vị ấy ai thật ai dối, ai đúng ai sai, khi một số nói thắng nghĩa với các hành là một, một số nói thắng nghĩa với các hành khác nhau. Bạch đức Thế tôn, chứng kiến như vậy, con nghĩ riêng, rằng các thiện nam tử này ngây thơ, không sáng, không khéo và không đúng; đối với thắng nghĩa rất nhỏ, rất sâu và siêu việt nhất dị đối với các hành, họ không thấu hiểu.

Đại bồ tát Thiện thanh tịnh tuệ kính bạch như vậy rồi, đức Thế tôn dạy ngài: Thiện nam tử, đúng như vậy, đúng như ông nói; các Thiện nam tử ấy ngây thơ, không sáng, không khéo và không đúng; đối với thắng nghĩa rất nhỏ, rất sâu và siêu việt nhất dị đối với các hành, họ không thấu hiểu. Lý do là vì, đối với các hành, không phải khi nhận thức như vậy mà gọi là thấu hiểu hay chứng ngộ thắng nghĩa.

Lược Giải.-

Đoạn này mở đầu nói về thực thể với hiện tượng; thực thể ấy là thắng nghĩa (Như hay Tâm).

Chính Văn.-

(Trước hết), Thiện thanh tịnh tuệ, nếu thắng nghĩa với các hành là một thì đáng lẽ hiện nay tất cả dị sinh đã thấy đế lý, đã được niết bàn yên ổn, đã chứng bồ đề tối thượng; nếu thắng nghĩa với các hành khác nhau thì đáng lẽ người đã thấy đế lý không thể trừ khử các hành, không trừ khử các hành thì không thể giải thoát tướng phược (39) , không giải thoát tướng phược thì không thể giải thoát trọng phược (40) , không giải thoát hai phược ấy thì không thể được niết bàn yên ổn, cũng không thể chứng bồ đề tối thượng. (Nhưng), vì hiện nay các loại dị sinh không phải đã thấy đế lý, không phải đã được niết bàn yên ổn, không phải đã chứng bồ đề tối thượng, nên cho thắng nghĩa với các hành là một thì phi lý, nói thắng nghĩa với các hành là một thì do đạo lý này mà ông nên biết họ nói không đúng; (mặt khác), vì hiện nay không phải những người thấy đế lý không thể trừ khử các hành mà là trừ khử được, không phải không thể giải thoát tướng phược mà là giải thoát được, không phải không thể giải thoát trọng phược mà là giải thoát được, giải thoát được hai phược nên cũng được niết bàn yên ổnchứng bồ đề tối thượng, nên cho thắng nghĩa với các hành khác nhau thì phi lý, nói thắng nghĩa với các hành khác nhau thì do đạo lý này mà ông nên biết họ nói không đúng.

Thứ nữa, Thiện thanh tịnh tuệ, nếu thắng nghĩa với các hành là một thì đáng lẽ các hành là tạp nhiễm thắng nghĩa cũng tạp nhiễm; nếu thắng nghĩa với các hành khác nhau thì đáng lẽ không phải cọng tướng của các hành gọi là thắng nghĩa (41) . (Nhưng), vì hiện nay thắng nghĩa không phải là tạp nhiễm, (mặt khác), vì cọng tướng của các hành gọi là thắng nghĩa, nên cho thắng nghĩa với các hành là một hay khác nhau thì đều phi lý, nói thắng nghĩa với các hành là một hay khác nhau thì do đạo lý này mà ông nên biết họ nói không đúng.

Sau nữa, Thiện thanh tịnh tuệ, nếu thắng nghĩa với các hành là một thì đáng lẽ thắng nghĩa là phi sai biệt các hành cũng phi sai biệt, đáng lẽ hành giả tu quán, thấy nghe hay biết các hành rồi sau đó không còn tìm biết thắng nghĩa; nếu thắng nghĩa với các hành khác nhau thì đáng lẽ không phải cái được hiển lộ bởi các hành vô ngã vô tánh chính là thắng nghĩa, đáng lẽ tạp nhiễmthanh tịnh cùng lúc dị biệt mà song lập (42) . (Nhưng), vì hiện nay các hành là sai biệt chứ không phải phi sai biệt, vì hành giả tu quán, thấy nghe hay biết các hành rồi sau đó còn tìm biết thắng nghĩa, (mặt khác), vì chính cái được hiển lộ bởi các hành vô ngã vô tánh gọi là thắng nghĩa, vì không phải tạp nhiễmthanh tịnh cùng lúc dị biệt mà song lập, nên cho thắng nghĩa với các hành là một hay khác nhau thì đều phi lý, nói thắng nghĩa với các hành là một hay khác nhau thì do đạo lý này mà ông nên biết họ nói không đúng.

Lược Giải.-

Đoạn này có 3 đoạn nhỏ nói thắng nghĩa siêu việt nhất dị. Tựu trung đáng chú ý nhất là 2 điểm: cọng tướng của các hành là thắng nghĩa (ghi chú 41) và nhiễm tịnh không song lập (ghi chú 42). Điểm trước là bản thể với hiện tượng, điểm sau chính là nghĩa bản tịnh (chứ không có bản nhiễm).

Chính Văn.-

Thiện thanh tịnh tuệ, như sắc trắng nơi loa bối, không dễ gì nói là một hay khác nhau với loa bối. Như sắc trắng nơi loa bối, sắc vàng nơi vàng cũng vậy. Như khúc nhạc nơi âm thanh đàn hầu, không dễ gì nói là một hay khác nhau với âm thanh đàn hầu. Như hơi thơm nơi trầm đen, không dễ gì nói là một hay khác nhau với trầm đen. Như vị cay nơi hạt tiêu, không dễ gì nói là một hay khác nhau với hạt tiêu. Như vị cay nơi hạt tiêu, vị bùi nơi trái ha lê cũng vậy. Như sự láng mịn nơi lụa tơ tằm, không dễ gì nói là một hay khác nhau với lụa tơ tằm. Như váng sữa nơi sữa chín, không dễ gì nói là một hay khác nhau với sữa chín. Như sự vô thường nơi các hành, sự khổ não nơi hữu lậu, sự vô ngã nơi các pháp, không dễ gì nói là một hay khác nhau với các hành, hữu lậu và các pháp. Sự thác loạn và tạp nhiễm nơi tham, không dễ gì nói là một hay khác nhau với tham; như nơi tham, nơi sân và nơi si cũng vậy. Tương tự như vậy, Thiện thanh tịnh tuệ, không thể qui định thắng nghĩa với các hành là một hay khác nhau.

Thiện thanh tịnh tuệ, đối với thắng nghĩa siêu việt một khác các hành như vậy, rất nhỏ và cực kỳ rất nhỏ, rất sâu và cực kỳ rất sâu, khó biết và cực kỳ khó biết, Như lai đã thể hiện chánh biến giác. Chánh biến giác rồi, Như lai nói rõ cho người.

Lược Giải.-

Hai đoạn này, một, dùng 10 ví dụ để nói sự phi nhất dị của thắng nghĩa, một, nói với thắng nghĩa ấy Phật đã tự giác lại giác tha.

Chính Văn.-

Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

Thắng nghĩa các hành (43)

siêu việt một khác,

phân biệt một khác

là biết không đúng.

Chúng sinh thì bị

tướng phược trọng phược (44) ;

siêng tu chỉ quán

mới giải thoát được.

Lược Giải.-

Đoạn này dùng chỉnh cú mà trùng tuyên C3 trong B1 của A2.

Nói Tâm Phổ Biến Nhất Vị

Chính Văn.-

Lúc ấy đức Thế tôn hỏi trưởng lão Thiện hiện: Thiện hiện, trong chúng sinh giới, trưởng lão biết bao nhiêu người có tăng thượng mạn, do tăng thượng mạn chi phối mà xác định sự hiểu biết của mình (45) ? bao nhiêu người không tăng thượng mạn mà xác định sự hiểu biết của mình? Trưởng lão Thiện hiện thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, trong chúng sinh giới, con biết chỉ có một số người không tăng thượng mạn mà xác định sự hiểu biết của mình, nhưng có vô số người có tăng thượng mạn, do tăng thượng mạn chi phối mà xác định sự hiểu biết của mình. Bạch đức Thế tôn, có một lần con ở chỗ thanh vắng trong rừng cây lớn. Bấy giờ có nhiều vị Bí sô cũng ở trong rừng ấy, gần con. Các vị Bí sô này, trong phần sau của ban ngày, lần lượt hội lại, căn cứ sự hiện quán có thủ đắc mà nói các pháp, xác định sự hiểu biết của mình. Tựu trung, một số do thủ đắc về uẩn: thủ đắc đặc tính của uẩn, thủ đắc sự phát sinh của uẩn, thủ đắc sự tận diệt của uẩn, thủ đắc sự tác chứng về sự tận diệt của uẩn, nên xác định sự hiểu biết của mình. Như một số do thủ đắc về uẩn, một số do thủ đắc về xứ và một số do thủ đắc về duyên khởi thì cũng như vậy. Một số do thủ đắc về thực: thủ đắc đặc tính của thực, thủ đắc sự phát sinh của thực, thủ đắc sự tận diệt của thực, thủ đắc sự tác chứng về sự tận diệt của thực, nên xác định sự hiểu biết của mình. Một số do thủ đắc về đế: thủ đắc đặc tính của đế, thủ đắc sự biến tri về đế, thủ đắc sự vĩnh đoạn về đế, thủ đắc sự tác chứng về đế, thủ đắc sự tu tập về đế, nên xác định sự hiểu biết của mình. Một số do thủ đắc về giới: thủ đắc đặc tính của giới, thủ đắc chủng loại của giới, thủ đắc đa dạng của giới, thủ đắc sự tận diệt của giới, thủ đắc sự tác chứng về sự tận diệt của giới, nên xác định sự hiểu biết của mình. Một số do thủ đắc về niệm trú : thủ đắc đặc tính của niệm trú, thủ đắc sự năng trị và sự sở trị của niệm trú, thủ đắc sự tu tập về niệm trú, thủ đắc sự chưa phát sinh thì làm cho phát sinh của niệm trú, thủ đắc sự đã phát sinh thì làm cho kiên cố, bội phần tu tập cao lên và rộng ra của niệm trú, nên xác định sự hiểu biết của mình. Như một số do thủ đắc về niệm trú, những số do thủ đắc về chính đoạn, do thủ đắc về thần túc, do thủ đắc về căn, do thủ đắc về lực, do thủ đắc về giác chi, thì cũng như vậy. Một số do thủ đắc về tám chi thánh đạo: thủ đắc đặc tính của tám chi thánh đạo, thủ đắc sự năng trị và sự sở trị của tám chi thánh đạo, thủ đắc sự tu tập về tám chi thánh đạo, thủ đắc sự chưa phát sinh thì làm cho phát sinh của tám chi thánh đạo, thủ đắc sự đã phát sinh thì làm cho kiên cố, bội phần tu tập cao lên và rôểng ra của tám chi thánh đạo, nên xác định sự hiểu biết của mình (46) . Bạch đức Thế tôn, con chứng kiến như vậy thì nghĩ riêng như vầy, các vị trưởng lão này căn cứ sự hiện quán có thủ đắc mà nói các pháp, xác định sự hiểu biết của mình như thế, thì biết các vị toàn là tăng thượng mạn, bị tăng thượng mạn chi phối, nên không thể thấu hiểu đặc tính phổ biến toàn thể và đồng nhất tính vị của thắng nghĩa. Vì thế nên đức Thế tôn thật kỳ diệu, cho đến đức Thế tôn thật khéo nói, ấy là Ngài nói thắng nghĩa rất nhỏ và cùng cực rất nhỏ, rất sâu và cùng cực rất sâu, khó biết và cùng cực khó biết, phổ biến toàn thể và đồng nhất tính vị. Bạch đức Thế tôn, các vị Bí sô tu học trong chánh pháp mà còn khó thấu hiểu đặc tính phổ biến nhất vị của thắng nghĩa, huống chi những người ngoại đạo.

Lược Giải.-

Đoạn này cho thấy C4 này cốt nói tiểu thừa nhiều hơn, cũng như C3 trước đây nhắm nhiều hơn vào ngoại đạo (nhất là các thuyết bản thể luận).

Chính Văn.-

Bấy giờ đức Thế tôn bảo trưởng lão Thiện hiện: đúng như vậy, trưởng lão Thiện hiện; đối với thắng nghĩa rất nhỏ và cùng cực rất nhỏ, rất sâu và cùng cực rất sâu, khó biết và cùng cực khó biết, phổ biến toàn thể và đồng nhất tính vị, Như lai đã thể hiện chánh biến giác. Chánh biến giác rồi, Như lai nói rõ cho người.

(Trước hết), Thiện hiện, Như lai đã nói cái thanh tịnh sở duyên (47) nơi toàn thể năm uẩn chính là thắng nghĩa; Như lai đã nói cái thanh tịnh sở duyên nơi toàn thể mười hai xứ, mười hai duyên khởi, bốn thực, bốn đế, mười tám giới, bốn niệm trú, bốn chính đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chitám thánh đạo, chính là thắng nghĩa. Cái thanh tịnh sở duyên ấy, nơi toàn thể năm uẩn, Nó là đồng nhất tính vị, không có dị biệt; như nơi toàn thể năm uẩn, thì nơi toàn thể mười hai xứ, cho đến nơi toàn thể tám thánh đạo, Nó cũng là như vậy, đồng nhất tính vị, không có dị biệt. Thế nên, Thiện hiện, do đạo lý này mà trưởng lão hãy nhận thức thắng nghĩaphổ biến toàn thể, đồng nhất tính vị.

Thứ nữa, Thiện hiện, các vị Bí sô tu quán, thấu hiểu chân như thắng nghĩa vô ngã nơi một uẩn, thì không cần tìm cầu chân như thắng nghĩa ấy riêng biệt nơi các uẩn khác, nơi mười hai xứ cho đến nơi tám thánh đạo. Và chính cái trí thích ứng với chân như thắng nghĩa bất nhị này làm căn cứ mà thẩm cứu tiến chứng chân như thắng nghĩa phổ biến toàn thể và đồng nhất tính vị (48) . Thế nên, Thiện hiện, do đạo lý này mà trưởng lão hãy nhận thức thắng nghĩaphổ biến toàn thể và đồng nhất tính vị.

Sau nữa, Thiện hiện, như năm uẩn thì triển chuyển khác nhau, như mười hai xứ cho đến tám thánh đạo thì cũng triển chuyển khác nhau, nếu chân như thắng nghĩa vô ngã của toàn thể các pháp ấy mà cũng khác nhau, thì chân như thắng nghĩa này đáng lẽ cũng có nhân tố, do nhân tố xuất sinh; nếu do nhân tố xuất sinh thì đáng lẽhữu vi, nếu là hữu vi thì đáng lẽ không phải thắng nghĩa, nếu không phải thắng nghĩa thì đáng lẽ phải tìm cầu thắng nghĩa nào khác nữa. (Nhưng), Thiện hiện, do chân như thắng nghĩa vô ngã không có nhân tố, không phải nhân tố xuất sinh, cũng không phải hữu vi, mà đích là thắng nghĩa, (nên) chứng ngộ thắng nghĩa ấy rồi thì không còn tìm cầu thắng nghĩa nào khác nữa, mà (thấy) chỉ có thường xuyên, vĩnh viễn, Như lai xuất thế hay không xuất thế, pháp tánh các pháp vẫn an lập, pháp giới các pháp vẫn an trú (49) . Thế nên, Thiện hiện, do đạo lý này mà trưởng lão hãy nhận thức thắng nghĩaphổ biến toàn thể và đồng nhất tính vị.

Lược Giải.-

Đoạn này có 3 đoạn nhỏ nói thắng nghĩaphổ biếnnhất vị.

Chính Văn.-

Thiện hiện, tựa như trong toàn thể hình sắc khác nhau, đa dạng và đa số, hư không vẫn không hình sắc, không phân biệt, không biến đổi, mà là phổ biếnnhất vị. Tương tự như vậy, nơi toàn thể các pháp khác đặc tính và khác sắc thái, thắng nghĩa vẫn là phổ biếnnhất vị.

Lược Giải.-

Đoạn này nói thắng nghĩa phổ biếnnhất vị bằng ví dụ hư không.

Chính Văn.-

Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

Chính cái thắng nghĩa

phổ biến nhất vị

Như lai nói là

không có khác nhau.

Nếu có kẻ nào

phân biệt khác nhau,

kẻ ấy u mê

thượng mạn chi phối.

Lược Giải.-

Đoạn này trùng tuyên C4 trong B1 của A2. Phẩm hai của Giải thâm mật chấm hết ở đây, cho thấy cái Tâm của Phật nói siêu việt như thế nào. Từ sau đây cho đến hết Giải thâm mật, sẽ cho thấy cái Tâm siêu việt ấy là thế nào.

Nói Tâm Ấy Là Cảnh Sở Quán

D1. Nói Tâm Ấy Là Căn Bản Của Các Pháp (Phẩm 3)

D2. Nói Các Pháp Của Tâm Ấy Biểu Hiện

Đ1. Nói Tính Cách Có Của Các Pháp (Phẩm 4)

Đ2. Nói Tính Cách Không Của Các Pháp (Phẩm 5)

E1. Mở Đầu Nói 3 Vô Tánh

E2. Giải Thích 3 Vô Tánh

E3. Tiếp Nhận Lý Giải

E4. Đối Chiếu Đề Cao

E5. Danh HiệuLợi Ích Của Pháp Thoại

Nói Tâm Ấy Là Căn Bản Của Các Pháp

Chính Văn.-

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15663)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10973)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53436)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12870)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16389)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15257)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19048)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19812)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15418)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15237)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15057)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20180)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23719)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15348)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12946)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19843)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13167)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28926)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11601)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18182)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16522)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13124)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12688)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13119)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12878)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12765)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12897)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13433)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11586)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14132)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17642)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22271)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13343)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14191)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105544)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14498)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19630)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38293)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15415)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34539)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 15944)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11264)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15563)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13901)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12737)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13567)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12393)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19285)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13048)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13367)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21472)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17855)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21751)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14080)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15962)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15982)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18967)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24590)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant