Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần I

20 Tháng Năm 201000:00(Xem: 8747)
Phần I

KINH THẮNG MAN PHU NHÂN HỘI
TAM TẠNG BỒ ĐỀ LƯU CHÍ Dịch từ Phạn sang Hán 
Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2006

 I

Nhân duyên phu nhân Thắng Man gặp Phật, tán thán công đức của Phật và được Phật thọ ký. 

Tôi nghe như vầy : Một thời, Phật ở tại thành Xá Vệ trong vườn Kỳ Thọ của ông Cấp Cô Độc. Khi ấy, vua Ba Tư Nặc nước Kiêu Tát Laphu nhân Mạt Lợi vừa chứng pháp xong, cùng nói với nhau rằng “Con gái Thắng Man của ta từ mẫn, sáng dạ, đa văn, trí tuệ. Nếu gặp được Như Lai thì đối với pháp thậm thâm, sẽ chóng lãnh ngộ không các nghi hoặc. Ta nay phải khéo chỉ bảo để nó phát lòng thành tín”. Bàn với nhau xong, vua và phu nhân liền viết thư xưng tán công đức chân thật của Như Lai, rồi bảo sứ quân tên Chân Đề La mang thư đến thành Vô Đấu trao cho phu nhân Thắng Man.

Đây là giới thiệu thân thế và căn tánh của phu nhân Thắng Man. Cũng là nêu bày lý do [01] vì sao có cuộc hội ngộ giữa bà với đức Phật.

PHU NHÂN THẮNG MAN là con gái của vua Ba Tư Nặcphu nhân Mạt Lợi, được gả làm vương phi cho vua nước A Du Xà. 

Vua BA TƯ NẶC lên ngôi sau Phật thành đạo không bao lâu. Lúc đầu ông là người bạo ác, bất tín. Sau được Phật giáo hóa nên rất kính tin Phật pháp và là vị đại ngoại hộ cho giáo đoàn của Phật ở thành Xá Vệ lúc đó. (Xá Vệ là thủ phủ của nước Kiêu Tát La). Còn phu nhân MẠT LỢI vốn là đứa tớ gái. Một hôm đức Phật vào thành khất thực, do thấy tướng hảo của ngài mà sinh lòng kính tin cúng dường thức ăn để cầu hết kiếp tôi đòi. Nhờ công đức ấy, bà trở thành phu nhân của vua Ba Tư Nặc. Vì những nhân duyên đó mà lòng tin của bà và vua ngày càng tăng trưởng. Tức hai vị đã hưởng được mùi vị của pháp lạc, nên nói VỪA CHỨNG PHÁP XONG. [02] Cả hai đều có lòng ngưỡng mộ và tin Phật nên cả hai đều muốn con gái mình cũng vậy. Đây là nhân duyên khiến phu nhân Thắng Man gặp Phật.

Luận Đại Thừa Khởi Tín nói “Pháp của chư Phật có nhân có duyên. Nhân duyên đầy đủ thì pháp mới được thành ... Chúng sanh cũng vậy. Tuy có lực huân tập của chánh nhân, nếu chẳng gặp được chư Phật, Bồ tát và các bậc thiện tri thức lấy đó làm duyên mà có thể tự đoạn phiền não, nhập niết bàn thì không thể có”. 

CHÁNH NHÂN là chỉ cho chủng tử Phật pháp được huân tập trong tâm người tu. Một khi chủng nhân Phật pháp được huân tập sâu dày thì mình sẽ có cái quả là dễ lãnh ngộ Phật pháp và có tấm lòng đối với muôn người không kể là thân hay sơ. Dễ lãnh ngộ Phật pháp là biểu hiện cho sự SÁNG DẠ, ĐA VĂNTRÍ TUỆ. Có tấm lòng với muôn người biểu hiện cho lòng TỪ MẪN. 

TRÍ và BI là hành trang của một vị Bồ tát, là nhân duyên của việc thành Phật. Phu nhân có đủ những chủng nhân đó. 

Thứ gì từng huân tập nhiều, đủ duyên sẽ phát khởi mạnh. [03] Nếu Phật pháp từng được huân tập sâu dày từ những kiếp trước, thì đối với pháp thậm thâm sẽ lãnh ngộ dễ dàng mà không còn nghi hoặc. PHÁP THẬM THÂM là chỉ cho pháp Đại thừa, Nhất thừa, pháp tánh chân như, tánh Phật trong mỗi chúng sanh v.v… Nghe “Tức tâm tức Phật”, nghe “Tâm Phật trong mỗi người chính là cội nguồn chân thật của tất cả pháp” v.v… mà tin ngay không chút nghi ngờ, đều là dạng “ĐỐI VỚI PHÁP thậm thâm sẽ chóng lãnh ngộ không các nghi hoặc”.[04] 

Vua BA TƯ NẶC, phu nhân MẠT LỢI và sứ quân CHÂN ĐỀ LA là DUYÊN giúp cho phu nhân gặp Phật. Xưa, chưa có điện thoại và bưu điện, không có Chân Đề La thì thư không thể đến, nên Chân Đề La là một duyên không thể thiếu. Vì thế đây nêu ra đầy đủ. Cũng giải thích lý do vì sao phu nhân làm kệ tặng áo cho ông. 

PHẬT là thiện tri thức bậc nhất trong các thiện tri thức, là duyên tối ưu trong các duyên khiến chánh nhân được phát khởi. Nhân duyên đầy đủ thì Phật đạo mới thành.

Thắng Man mở thư coi có việc gì. Bà vui mừng tột bực sanh tâm thật hiếm có, rồi hướng về Chân Đề La mà nói kệ :

Tâm khôngtrạng thái bình thường mà đã có sự đổi khác nên nói SANH. Ai từng trải qua trạng thái NGỘ một câu kinh, một lời kệ hay đi nghe pháp mà gặp trúng thầy, trúng pháp[05] … sẽ hiểu cái THẬT HIẾM CÓ nói đây. Không phải là sự hân hoan vui mừng bình thường mà còn thêm sự nhẹ nhàng, thanh thoát, rộng mở, hiền hòa, an vui … chỉ trong Phật pháp mới có hương vị đó. Phu nhân Thắng Man vừa hưởng được sự an lạc do pháp vị mang lại (mà trước giờ chưa từng có), nên nói THẬT HIẾM CÓ. 

KỆ là một dạng có âm điệu như thơ nhưng không cần vần cú và thường là 5 chữ. Sau là bài kệ

Ta nghe danh Như Lai
Thế gian rất khó gặp
Lời này nếu chân thật
Phải cho ông y áo
Nếu Phật Thế Tôn kia
Lợi ích thế gian hiện
Tất vì ta, thương xót
Khiến ta thấy chân tướng 

Phu nhân Thắng Man đọc thư xong, vui mừng hứng khởi nên ứng khẩu làm kệ. Đại ý là “Ta đã từng nghe đến tiếng tăm của Phật và cũng biết gặp được Phật không phải dễ. Song nếu ngài có công đức và hay vì lợi ích của thế gian mà hiện, đúng như trong thư đã nói, nhất định ngài sẽ thương xót mà hiện chân tướng cho ta thấy”. CHÂN TƯỚNG là chỉ cho tướng chân thật của Phật. TẤT là nhất định, chỉ cho sự đương nhiên. “Nếu ngài thật có lòng bi mẫn đối với thế gian thì nhất định ngài phải thương xót đáp ứng nhu cầu đúng đắn của ta”. Phu nhân nói với sứ quân mang thư đến như vậy. Cũng là lời thỉnh cầu gián tiếp tới đức Phật.

PHẢI CHO ÔNG Y ÁO vì không có ông lặn lội đường xa mang thư tới đây, ta không đọc được những lời quí báu này. Tuy đó là nhiệm vụ của ông, không cho ông y áo, ông cũng phải làm để giữ cái đầu, nhưng phu nhân vẫn nêu công trạng và tặng áo cho ông, biểu thị lòng biết ơn của bà đối với sứ quân. 

Lời niệm vừa dứt thì trên hư không, Phật hiện ra với thân tướng chẳng thể nghĩ bàn. Đại quang minh chiếu khắp. Thắng Man cùng quyến thuộc thảy đều tụ lại, chấp tay chiêm ngưỡng vái Phật và xưng tán đức đại Đạo sư :

Phật tâm trong mỗi chúng sanh vốn thanh tịnh viên minh. Một khi sống lại được với tâm Phật ấy thì mê tối hết, cái sáng tràn khắp xuất hiện. Trong những bức hình của Phật và Bồ tát, ta hay thấy ánh hào quang tỏa chung quanh, hoặc như trong kinh diễn tả “Ánh sáng từ giữa 2 chặn mày của đức Như Lai” v.v… là muốn nói lên những loại QUANG MINH này. Nó là ánh sáng phát ra từ TRÍ và THÂN của Phật cùng chư vị Bồ tát. Quang minh nói đây là loại quang minh chiếu khắp pháp giới nên gọi là ĐẠI QUANG MINH

Có 2 cách có thể thấy được thân Phật. 

1. Những chúng sanhcơ cảm với Phật. Một trong các cách để có cơ cảm với Phật là trong quá khứ đã từng tu tập niệm Phật tam muội, nên hiện đời không cần nương vào tam muội mà vẫn thấy được sắc thân Phật. Đây là chỉ cho sắc thân thô với 32 tướng tốt, là HÓA THÂN PHẬT. 

2. Nương tam muội mà thấy Phật. Tức tâm phải lóng lặng thanh tịnh mới thấy được thân Phật. Nói cách khác, thân tâm phải thanh tịnh thì Phật thân mới hiện tiền. Phật thân nói đây là chỉ cho BÁO và PHÁP THÂN PHẬT

BÁO THÂN có 2 thứ : TỰ THỌ DỤNG THÂNbáo thân viên mãn, do chư Phật trải qua vô số kiếp tu tập thiện căn mà tạo nên, khắp giáp cả pháp giới, thân và cõi chẳng lìa nhau, gọi là thật báo trang nghiêm độ. Thân này khi chưa thành Phật thì chư vị Bồ tát chỉ được nghe tên chứ không thể thấy. THA THỌ DỤNG THÂN là do cảm ứng với từng căn cơ của chúng sanhứng hiện. Đây là do chư Phật muốn chư vị Bồ tát thọ đại pháp lạc, tiến tu thắng hạnhtùy nghi ứng hiện. Các sự sai khác của báo thân, gọi là HÓA THÂN

Tuy phân thành nhiều thứ báo và hóa, nhưng tất cả đều là chỗ hiện của tự tâm. Phật thì thấy từ ngoài đến nhưng thật ra đều từ tâm mà hiện.[06] Tâm PhậtPhật tâm của chúng sanh không khác. Dụng của chư Phật cũng chính là dụng Phật tâm của chính mình. Tâm càng thanh tịnh thì mình càng dễ cảm ứng với dụng của chư Phật, cũng là sử dụng càng dễ cái dụng Phật thân của chính mình. Tâm càng thanh tịnh thì Phật thân càng vi diệu.

Phật hiện thân với sắc thân không thể nghĩ bàn cộng với lời ca ngợi của phu nhân Thắng Man ở đoạn sau “Sắc thân Như Lai vô tận, trí tuệ cũng như vậy, tất cả pháp thường trụ” thì biết Phật thân nói đây còn ám chỉ cho BÁO hoặc PHÁP THÂN PHẬT. Nghĩa là, một niệm đốn ngộ tự tâm[07] của chính phu nhân vừa bùng vỡ. 

Công đức bên trong đầy đủ thì thân tướng bên ngoài trang nghiêm đẹp đẽ, có lực làm cho người đối diện phải kính ngưỡng. CHIÊM NGƯỠNG là nhìn một cách kính phục, ưa thích, không rời mắt. 

Sau là những lời xưng tán đức Phật của phu nhân, được chia làm 5 đoạn, mỗi đoạn 4 câu, để dễ giải thích

Diệu sắc thân Như Lai
Thế gian không gì bằng
Cũng không thể nghĩ bàn [08]
Cho nên con kính lễ

SẮC THÂN NHƯ LAI với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp … ở thế gian không ai có được nên nói KHÔNG GÌ BẰNG. Đó là hóa thân Phật. SẮC THÂN NHƯ LAI không hình, không tướng, trùm khắp, vượt ngoài cái thấy suy tưởng của tri thức, nên nói KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN. Đó là báo và pháp thân Phật. Muốn có những sắc thân đó, phải trải qua vô số kiếp tu hành tích trữ công đức. Không có lòng nhẫn nại, ý chí trường viễn và bi nguyện rộng lớn, không thể làm được. Cho nên CON KÍNH LỄ.

Sắc Như Lai vô tận
Trí tuệ cũng như vậy
Tất cả pháp thường trụ
Cho nên con qui y

Không hình, không tướng, trùm khắp nên sắc thân ấy VÔ TẬN. Luận Đại Thừa Khởi Tín nói “Pháp thân ấy là thể của sắc nên hay hiện sắc. Bởi tánh của SẮC chính là TRÍ nên thể của sắc không hình, gọi là trí thân. Bởi tánh trí tức là sắc nên gọi là pháp thân khắp giáp tất cả chỗ”.[09] Vì SẮC và TRÍ vốn không hai, nên SẮC vô tận thì … TRÍ TUỆ CŨNG NHƯ VẬY.

Hiện nay, ai cũng thấy pháp thế gian là không thường. Có rồi mất, sanh rồi tử, không có gì còn hoài. Nghĩa là, với cái thấy hiện nay của mình, các pháp là vô thường. Một khi sống được với tâm chân thật, mình sẽ có cái thấy khác, như Luận Đại Thừa Khởi Tín nói “Vì là tâm chân thật nên là tánh của các pháp. Tự thể hiển bày soi rõ hết thảy pháp hư vọng”. Nhận rõ tướng các pháp là hư vọng thì sanh hay diệt, có hay mất, ra hay vào … thảy đều hư vọng. TƯỚNG sanh diệt của pháp thì hư vọng nhưng TÁNH các pháp (là tâm chân thật) lại thường trụ, nên nói TẤT CẢ PHÁP THƯỜNG TRUï, là chỉ cho pháp tánh hay pháp thân Như Lai bình đẳng, không tăng, không giảm, không đến, không đi, bất biến, thường trụ

QUI là hướng về, Y là nương tựa. Đây là qui y Phật và qui y pháp. Cũng là qui y Phật và pháp tự tâm.

Khéo điều tâm lỗi ác
Cùng với 4 thứ thân
Đến chỗ bất tư nghì
Con nay xin kính lễ

TÂM LỖI ÁC là chỉ cho những tạo tác thuộc về ý, là chỉ cho ý nghiệp. 4 THÂN là chỉ cho những tạo tác về thân và miệng, tức thânkhẩu nghiệp, được gói trọn trong 4 thứ sát, đạo, dâm và vọng ngữ. ĐIỀU là điều phục, là chỉ cho việc làm chủ 3 nghiệp, không để chúng phát tán thành tội lỗiluân chuyển trong 6 đường. BẤT TƯ NGHÌ là không thể nghĩ bàn. 3 nghiệp của Phật thanh tịnh hoàn toàn thì tâm và sắc chẳng phải hai. SẮC THÂN có được từ cái chẳng phải hai với TRÍ ấy, không thể dùng tri thức phân biệt[10] hiện nay của mình mà thấy được, nên nói “Điều phục đến chỗ chẳng thể nghĩ bàn”. Trước một người như vậy, không thể nào không qui ngưỡng thán phục, nên CON NAY XIN KÍNH LỄ.

Biết các pháp nhĩ diệm
Trí thânquái ngại
Với pháp không để mất
Nên con nay kính lễ

NHĨ DIỆM, Kinh Lăng Già nói “Biết nhân pháp vô ngã, phiền nãonhĩ diệm, thường thanh tịnh không tướng, mà khởi tâm đại bi”. Thiền sư Hàm Thị giải thích NHĨ DIỆMsở tri. Nhị thừa phá được phiền não chướng nhưng sở tri vi tế vẫn còn. Chỉ Phật mới thấu suốt được tận nguồn, nên nói BIẾT CÁC PHÁP NHĨ DIỆM. 

TRÍ THÂN Phật như hư không, trùm khắp, không có bờ mé, là tánh của tất cả pháp nên nói “Trí thân vô quái ngại, với pháp không để mất[11] ”. 

Kính lễ sao cho xứng
Kính lễ không gì bằng 
Kính lễ pháp tự tại
Kính lễ vượt nghĩ suy

KÍNH LỄ, bản chữ Hán là KHỂ THỦ, [12] là dập đầu sát đất mà lạy, biểu hiện cho sự thành kính, nên đây dịch thành kính lễ. Không có gì có thể kính lễ hơn được nữa, cũng không biết diễn tả lòng thành kính ấy thế nào, nên nói “Kính lễ sao cho xứng, kính lễ không gì bằng, kính lễ vượt nghĩ suy”. 

KÍNH LỄ được lặp đi lặp lại nhiều lần, ngoài việc biểu tỏ lòng thành kính, còn nói lên lòng tha thiết của phu nhân đối với bậc Tôn sư của mình, cũng là biểu tỏ lòng tin thanh tịnh đối với tánh Phật của chính mình. Đó là điều kiện tiên quyết để bà xả thân thọ 3 đại nguyện và 10 hoằng thệ sau này. 

Xin thương xót hộ trì
Khiến pháp chủng tăng trưởng
Cho đến thân tối hậu
Thường ở trước Như Lai
Phước nghiệp con đã tu 
Hiện nay đến cuối đời
Do lực thiện căn ấy
Nguyện Phật hằng nhiếp thọ 

Đây là điều mong muốn của phu nhân Thắng Man. Bà mong Phật che chởhộ trì cho đến khi bà thành Phật. Sau là giải thích vào chi tiết.

“Pháp tánh bình đẳng trong tất cả chúng sanh”. Nghĩa là, ai cũng có sẵn tánh Phật ấy. Mê nó thì làm chúng sanh. Tỉnh đó thì làm PhậtBồ tát. TÁNH PHẬT ấy gọi là PHÁP CHỦNG. 

Vì pháp Phật có cạn có sâu, nên PHÁP CHỦNG còn để chỉ cho VỐN PHẬT PHÁP được huân tập nhiều đời của người tu. Cạn, là chỉ cho phần giáo lý dạy người cách sống để người có được một đời sống an lạc hạnh phúc ở cõi trời và người. Cao dần lên là phần giáo lý của Thanh văn, Duyên giácĐại thừa. Tối cùng của Đại thừa chính là Nhất thừa. Sống lại được với tánh Phật của mình, chính là Nhất thừa, còn gọi là Phật thừa.

Người mà tập quen với chửi bới rồi, giờ nói ngừng không phải dễ. Tập quen với ma túy xì ke rồi, nói bỏ rất ít người bỏ được. Những thứ làm khổ mình như vậy, nói mình bỏ, mình còn thấy trần thân. Huống là nói bỏ ăn ngon, vợ đẹp, con ngoan, tiền tài, danh vọng … là những thứ đem đến cái vui trong hiện tại cho mình. Vào đến cửa Phật rồi, nói bỏ đi cái sở trường trong Phật pháp của mình, lại càng khó hơn ... Thứ gì đã thành ruột rà của mình, không có ý chí trường viễn, không có tâm quyết tử rất là khó bỏ. Đúng là đường thành Phật “Dài lâu nghiêm tuấn, cũng kỳ khu khúc khủyu, không kém nguy nan”.[13] Bước tới hai bước, có khi lùi đến ba bước. Phật cao nhất xích, ma cao nhất trượng.

Lòng tha thiết của bà đối với con đường thành Phật rất lớn, nhưng bà biết nó lắm khó khăn, nên đã nguyện với đức Phật “Xin Phật hãy thương xótche chở hộ trì con”. Che chở HỘ TRÌ là, khi nào con quên tu thì hóa thân của chư vị sẽ nhắc cho con không quên, khi nào con làm bậy thì tạo cái duyên nhắc con đừng làm bậy v.v... Cái quả nhắc nhở gần nhất là tâm bất an. Thành ai nghĩ quấy và làm quấy mà bị quả báo liền tay là biết đang được chư Phật thương xót hộ trì rất chặt chẽ. Nguyện với đức Phật cũng chính là nguyện với tánh Phật của chính mình. Lời nguyện ấy chính là hành trang để bà đi trọn con đường mình đã chọn. 

THÂN TỐI HẬU là thân cuối cùng trong cõi sanh tử như thân của A La Hán, Bích Chi PhậtBồ tát. THÂN TỐI HẬU nói đây là cái QUẢ của việc nuôi lớn thánh thai PHẬT TÁNH, là thân tối hậu của Bồ tát chứ không phải của A La Hán, nên nói THƯỜNG Ở TRƯỚC NHƯ LAI. Tức quả Phật đã viên mãn.

Xin Phật thương xót che chở nhưng không phải theo kiểu đưa một nải chuối hay một bó nhang tới lạy hối lộ rồi cầu đủ thứ còn việc thiện thì bỏ mặc. Vì ĐA VĂNTRÍ TUỆ nên bà hiểu, muốn có quả thì phải gieo nhân và nuôi lớn nó. Muốn được HỘ TRÌ và NHIẾP THOï, bà phải hành thiện nghiệp, là cái nhân để có cái quả thiện. Như đứa con muốn được cha mẹ thương yêu thì phải làm vừa lòng cha mẹ bằng cách thực hiện những gì cha mẹ đã dạy. Muốn được chư Phật hộ trì nhiếp thọ, suốt đời này, bà sẽ hành thiện nghiệp, lấy đó làm thứ giữ gìn sự che chở hộ trì của chư Phật.

NHIẾP có 2 nghĩa là THU VÀO và GÌN GIỮ
THỌ, cũng là THU VÀO hay LÃNH NẠP

Hình thức nào có tính cách THU VÀO GÌN GIỮ, gọi là NHIẾP THỌ. Như Thầy Trụ Trì thu nhận đệ tửđệ tử qui thuận Thầy, việc thu nhận đó là một hình thức của nhiếp thọ

Nghiệp thiện một khi được huân tập mạnh, không những đưa đến cảnh giới tốt đẹp vi diệu cho mình mà nó còn có lực khiến mình đi mãi trên con đường thiện. Như 5 giới của người Phật tử tại giagiới không trộm cắp. Người giữ giới quen rồi, khi móng tâm muốn lấy của ai thứ gì thì sự sợ hãi hay mất bình yên sẽ xuất hiện. Cái tâm không yên ấy chính là động lực làm mình không trộm cắp nữa. Vì sao? Vì thiện nghiệp đang NHIẾP THỌ mình. Thiện nghiệp nhiếp thọ mình nên thứ gì là thiện thì nó thu vào giữ đó, thứ gì không phải thiện thì nó không thu vào. Không thu vào thì không đẩy đi cũng thành đẩy đi. 

Tương tự, chúng A La Hán, một khi đã hưởng được cái lạc do tịnh tâm mang lại, thì cái lạc ấy chính là thứ nhiếp thọ các vị, khiến các vị không còn bị dục lạc của thế gian lôi kéo. Cũng vậy, một khi đã nếm được sâu xa pháp vị của Đại thừa thì thứ gì đúng là pháp vị Đại thừa, tâm sẽ nhiếp thọ, thứ gì không đúng là Đại thừa nó sẽ không nhiếp thọ. Vì thế, ai từng gieo trồng thiện nghiệp công đức của Đại thừa SÂU ĐẬM rồi, pháp vị của chư vị Nhị thừa không thể thu nhiếp họ được, đừng nói là những dục lạc của thế gian

Như vậy, công đức thiện nghiệp của mình chính là lực hộ trì che chở cho mình chứ không ai khác. Tha lực của chư Phật chính là dụng Phật tâm của mình nếu mình SỐNG LẠI hoặc TÙY THUẬN được với tâm Phật ấy. Nghĩ và thực hiện những thiện nghiệp của cõi trời người, hoặc tu theo Tam thừa đều gọi là TÙY THUẬN. Cho nên, phu nhân Thắng Man tha thiết khẩn cầu sự hộ trì của Phật bằng cách lấy việc cả đời hành thiện nghiệp của mình để giữ lấy sự hộ trì của bậc Tôn sư

Khi Thắng Man nói kệ xong, bà cùng quyến thuộc và hết thảy đại chúng đồng đảnh lễ dưới chân Phật. Lúc ấy Thế Tôn liền vì Thắng Man mà nói kệ :

Ta xưa cầu bồ đề
Từng khai thị cho bà
Nay bà gặp lại ta
Đời sau cũng như vậy 

Đây là lý do vì sao chỉ vài dòng ca tụng đức Phật của cha mẹ, phu nhân đã bộc phát niềm tin thanh tịnh đối với Phật, rồi phát đại thệ nguyện nhiếp thọ chánh pháp. Tiền kiếp, trong giai đoạn còn là Bồ tát cầu Phật đạo, Phật đã từng khai thị cho bà, nên nói “Ta xưa cầu bồ đề, từng khai thị cho bà”. Bà đã từng phát tâm và từng tu tập. Vì đức Phật là người từng nhiếp thọ bà trước đây, nên kiếp này đúng cái duyên đức Phật, bà lại bị nhiếp thọ. Nói đúng hơn là được nhiếp thọ. Việc nhiếp thọ được huân tập nhiều thì bản thân nó cũng chính là lực khiến sự nhiếp thọ càng bền vững. Vì thế, kiếp này được đức Phật nhiếp thọ nữa thì chắc chắn kiếp sau bà cũng được nhiếp thọ tiếp. Nên nói “Nay bà gặp lại ta, đời sau cũng như vậy”. 

Nói kệ xong, trước đại chúng, Phật thọ ký A Niệu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cho Thắng Man rằng “Bà nay xưng tán công đức thù thắng của Như Lai, do thiện căn này, trong vô lượng a tăng kỳ kiếp, ở nơi loài người và trời thường được làm vua tự tại, chỗ thọ dụng đều được đầy đủ, sanh ra chỗ nào cũng được thấy ta như hiện nay đang xưng tán ta không khác. Sẽ lại cúng dường vô lượng vô số chư Phật Thế Tôn.

Đây là lời thọ ký của đức Phật. THỌ KÝ, nghĩa của nó tương tự như hai từ CÔNG NHẬN. Việc thọ ký này không phải Phật muốn và phán như vậy là nó ra như vậy. Chẳng qua vì Phật có cái thấy suốt từ nhân đến quả ... Nhân ở quá khứ như vậy thì quả ở tương lai như vậy. Phật chỉ nói lại những gì mình đã thấy. Lời nói đó khi nào cũng đúng nên nó trở thành lời nói ấn chứng, gọi là thọ ký

A NIỆU ĐA LA TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ là chỉ cho quả vị Phật. Là lúc mà ta đã sống được hoàn toàn với tâm Phật của chính mình, là lúc cái mình đây cũng không còn. Đó là cảnh giới sự sự vô ngại của thế giới Hoa Nghiêm

Từ quá khứ cho đến hiện nay, rồi từ nay cho đến khi thành Phật, phu nhân còn phải trải qua vô lượng vô biên thân. Cõi người cũng có mà cõi trời cũng có. Song dù ở chỗ nào thì phu nhân cũng được đứng đầu thiên hạ về cái gọi là TỰ TẠI, nên nói ĐƯỢC LÀM VUA TỰ TẠI

TỰ TẠI là không vướng mắc, không bị thứ gì ràng buộc. Muốn tự tại được thì TRÍ PHÂN BIỆT phải hết, phải có cái nhìn như huyễn đối với thế giới, thân và tâm mà mình đang thọ nhận. Vì thế, đúng với ý nghĩa của từ TỰ TẠI, tức tự tại cả về thân lẫn tâm, thì phải là hạng Bồ tát Bất Động Địa, là địa thứ 8 trong 10 thánh Thập địa, mới có danh hiệu này.

Song cũng có thể dựa vào những duyên thấp hơn để có trường hợp tự tại. Hành thiện nghiệp của cõi trời người và nắm vững nhân quả mà sống, thì chưa đến được địa vị Bất Động, mình vẫn có cuộc sống khiến mình được tự tại. Như 5 giới của người tại gia chẳng hạn. Giới đầu tiên là KHÔNG SÁT SANH, nếu hạn chế được việc giết hại cả những sinh vật nhỏ thì mình sẽ tránh được bịnh tật. Còn không thì tùy mức độ sát, mà bịnh không đến nỗi quá nặng để mình không thể tự tại. Không TRỘM CẮP thì không tàn mạt đến nỗi quá bức xúc mà hết tự tại. Không TÀ DÂM thì không bị đau khổ về tình cảm gia đình, cũng là một duyên khiến mình được tự tại. Không nói nhiều, KHÔNG NHIỀU CHUYỆN thì cũng không có duyên khiến mình phải phiền não để không tự tại v.v... Quan trọng nhất là làm sao nắm được nhân quả

NẮM ĐƯỢC NHÂN QUẢ là biết rằng, trong thế giới đây không có gì có quả mà không có nhân. Anh bị một cái gì đó thì nhất định thứ đó phải có nguyên do, không ở kiếp này thì ở kiếp trước hay kiếp trước nữa. Một sự kiện dù tốt hay xấu thì nó luôn có cái nhân của nó. Quả xấu vì nhân ác. Quả tốt vì nhân thiện. Anh không gây nhân ăn trộm thì có lỡ rớt đồ ra đó, chúng cũng không thấy mà lượm. Còn anh đã gây cái nhân tham ô thì cất kỹ bao nhiêu, nó cũng ra cho hết. Không gây nhân xấu thì chắc chắn không có quả xấu. Còn đã gây nhân xấu thì có lo nó cũng cứ ra, thành cũng không có gì để phải lo. Nắm được nhân quả như vậy, mình sẽ có tâm bình thản với những gì xảy ra cho mình dù tốt hay xấu. Cũng không có gì lo lắng hay tính trước tính sau đối với tương lai. Cái mà mình có thể tính và làm được trong hiện tại là luôn nghĩ thiện và làm thiện. Người có được những nhân duyên đó, dù chưa đạt được địa vị Bất Động, cũng là vua tự tại ở cõi đời này. 

Xét đến trường hợp của phu nhân Thắng Man. Với thiện căntrí tuệ mà bà đang có[14] thì dù chưa đạt được địa vị Bất Động, bà vẫn cứ tự tại. Đây là lý do Phật thọ ký cho phu nhân Thắng Man trong vô số kiếp ở cõi người và trời, chỗ thọ dụng điều được đầy đủ và làm vua tự tại. ĐẦY ĐỦ nghĩa là không thiếu. Dư hay không thì không biết, nhưng chắc chắn là không thiếu. Cứ cái gì là nhu cầu cần thiết cho bản thân thì phu nhân đầy đủ, đủ để phu nhân có được sự tự tại về cả thân lẫn tâm.

Một điều hạnh phúc lớn lao nữa của bà là, sanh ra chỗ nào bà cũng được thấy Phật. Vì Phật là sở hiện của tự tâm nên ai không thấy là chuyện của ai, Phật có xuất hiện ở đời hay không là chuyện của Phật. Với phu nhân, khi nào bà cũng được thấy Phật. Không hóa thân thì báo thân, không báo thân thì pháp thân. Thấy HÓA, BÁO hay PHÁP thì cũng đều là thấy Phật. Việc thấy Phật đây cũng là cái duyên giúp phu nhân càng thêm tự tại. Sẽ không có gì để lo lắng khi thấy bên mình luôn có sự hộ trì của chư Phật. Sẽ không có gì để lo lắng khi quán sát thế giới này bằng giác tâm. Giác chính là Phật. Tâm vô quái ngại thì đương nhiên là phải tự tại.

Tất cả những quả báo tốt đẹp đó đều xuất phát từ cái nhân là XƯNG TÁN CÔNG ĐỨC thù thắng của Như Lai. Vì sao chỉ xưng tán Như Lai mà được quả báo như thế? Vì việc xưng tán công đức Như Lai của bà phát xuất từ tâm chứ không chỉ ở miệng. Tâm bà thực sự nghĩ vậy nên miệng bà nói ra như vậy. Vì xuất phát từ tâm, nên sắc thântrí tuệ của Như Lai chính là mục tiêu mà bà nhắm đến. Vì xuất phát từ tâm nên bà đã làm những gì mà Như Lai đã làm.[15] Bà đã phát 13 thệ nguyện, lấy đó làm phương châm sống của mình cho đến ngày thành Phật. Cách sống đó tạo nên các công đức thiện căn khiến bà có đời sống tự tại cả về vật chất lẫn tinh thần. Thân tâm tự tại thì Phật phải hiện tiền.

Cho nên, muốn được các công đức như phu nhân Thắng Man thì phải xưng tán Phật theo kiểu mà phu nhân đã xưng tán. Xưng tán không chỉ bằng miệng mà cả bằng tâm và thân nữa. Chỉ có miệng thôi, còn hành động lại đi ngược với những gì Phật đã dạy thì việc xưng tán ấy chẳng được công đức gì, có khi trở thành phỉ báng Phật là đằng khác.

Qua hai vạn a tăng kỳ kiếp, sẽ được thành Phật hiệu là Phổ Quang Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Cõi nước Phật đó không có các đường ác và các thứ như đau thương, già, bịnh, khổ ; Ngay cái tên bất thiệnác nghiệp đạo cũng không có. Chúng sanh cõi nước đó hình sắc đoan nghiêm, đầy đủ 5 thứ cảnh vi diệu, hưởng toàn sự khoái lạc, hơn hẳn cõi Tha Hóa Tự Tại của chư thiên. Chúng sanh cõi nước đó đều qui thuận Đại thừa. Những ai học pháp Đại thừa như thế đều được sanh về đó”. 

Đây vẫn còn trong lời thọ ký của Phật. A TĂNG KỲ KIẾP là chỉ cho khoảng thời gian từ khi phát tâm tu hành đến khi thành Phật, không tính xuể với thời gian vô tận, nhưng cũng có thể là trong một đời, không nhất định. Tổ Đạt Ma dùng 3 độc tham - sân - si để ấn định cho cái vô số a tăng kỳ kiếp này. Hết 3 độc rốt ráo thì hết vô số a tăng kỳ kiếp đó. Phu nhân sẽ thành Phật với pháp hiệuPhổ Quang Như Lai. 5 THỨ VI DIỆU là chỉ cho sự tịnh diệu trong 5 cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc. [16] 

Cõi nước đó chỉ toàn người tu theo Đại thừa. Nghĩa là, ai không tu Đại thừa thì không về đó được. “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Phải có thứ gì là ĐỒNG thì mới tương khớp với nhau, mới tìm đến nhau được. Phật gọi là đồng nghiệp. Đồng nghiệp ở đây là cùng tu Đại thừa

Phu nhân Thắng Man phát 10 hoằng thệ và 3 đại nguyện. Hội chúng thấy điềm lành, cũng phát nguyện đời đời cùng chung hạnh nguyện với bà 

Khi Thắng Man được thọ ký xong, vô lượng người và trời trong lòng đều phấn khởi. Hết thảy đều nguyện vãng sanh về thế giới của Phật kia. Lúc ấy, Thế Tôn cũng thọ ký cho họ được sanh về thế giới đó. Nghe Phật thọ ký xong, phu nhân Thắng Man chấp tay đối trước Như Lai phát 10 hoằng thệ :

THỆ tức là THỆ NGUYỆN, là thề nguyền hay tuyên thệ. Thệ nguyện rộng lớn trùm khắp tất cả chúng sanh, nên gọi là HOẰNG THỆ NGUYỆN. Sau là 10 hoằng thệphu nhân đã phát.

1. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả bồ đề, đối với các giới đã thọ không để phạm. 

Tu gì đó tu, Bồ tát lớn cỡ nào đó lớn, việc đầu tiên trong vấn đề tu hành là phải giữ giới. Vì GIỚI là tướng bên ngoài biểu hiện cho tâm bên trong. Chỉ khi trong tâm không còn phạm giới thì mới không có giới bên ngoài để thọ. Song đa phần chúng sanh thời mạt pháp thì luôn cần có giới để thọ. Ngay cả phu nhân Thắng Man, là người được Phật tán thán “Nghĩa này, chỉ có ngươi và các đại Bồ tát mới có thể vâng nhận, còn hàng Thanh vănĐộc giác thì chỉ nhờ tin mà vào”, mà lời thệ nguyện đầu tiên của bà cũng là giữ giới. Thì biết, GIỚI quan trọng thế nào đối với việc tu hành

Quá khứ qua rồi không bàn đến. Hiện tại, cho đến khi thành Phật, với những giới nào bà đã thọ, bà sẽ không để phạm. Chẳng hạn, kiếp này cái duyên của bà là Phật tử tại gia thì 5 giới của Phật tử tại gia bà sẽ không để phạm. Nếu thọ giới Bồ tát thì với giới Bồ tát bà cũng không phạm. Trong một kiếp nào đó, nếu bà thọ Sa di ni thì bà sẽ giữ những giới của Sa di ni. Nếu bà thọ giới Tỷ kheo thì bà sẽ giữ giới Tỷ kheo v.v… Trước mắt, bà phát 10 hoằng thệ này thì bà sẽ không để phạm những gì mình đã nguyện.

2. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả bồ đề, đối với các bậc Sư trưởng chẳng khởi tâm kiêu mạn.

Trong luận Tối Thượng Thừa, có người hỏi “Thế nào là tâm ngã sở?”, ngài Hoàng Bá trả lời “Là có chút tâm cho ta hơn người, tự nghĩ ta hay như thế. Tâm ngã sở ấy là bịnh trong niết bàn”. Xuất hiện tâm kiêu mạn vì có chút tâm cho ta hơn người. Chỉ cần MỘT CHÚT cho ta hơn người thôi, lòng kiêu mạn sẽ xuất hiện. Nói BỊNH TRONG NIẾT BÀN, thì biết cái bịnh này không phải chỉ xuất hiện ở người không biết tu, mà là khá phổ biến trong giới người tu, nhất là những người từng sở chứng được thứ gì đó trong việc tu hành. Tu một thời gian mà thấy mình hơn bạn hơn Thầy, cái thấy của Tổ Phật cũng không bằng mình, rồi mắng Tổ, mạ Phật, coi trời bằng vung thì biết, mình đang mắc cái bịnh trong niết bàn nói đây.

Phu nhân biết mìnhcông đứctrí tuệ hơn người. Bà cũng biết nếu không khéo, cái thấy hơn người đó của bà sẽ là cái nhân làm phát sinh lòng kiêu mạn, là một loại phiền não chướng, một loại bịnh trong niết bàn, khiến việc tu hành của bà bị đình trệ. Vì thế, lời nguyện thứ 2 là không khởi tâm kiêu mạn. Nguyện là do lòng thiết tha đối với con đường Phật đạo của mình, mà nguyện cũng là để chặn đứng một thói xấu. Bởi lời nguyện, ngoài tác dụng phát tâm của mình ra, bản thân nó cũng tạo ra những duyên giúp mình không rời được những điều mình đã hứa. 

3. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả bồ đề, đối với chúng sanh không khởi tâm oán giận.

Việc thứ ba không kém quan trọng là không khởi tâm oán giận. Bởi sân giận đốt cháy cả rừng công đức. Ký cóp bao nhiêu năm tháng, giận lên tiêu tán tất cả. Đối với những thiện nghiệp từ quá khứ đến nay, trải qua quá trình dài lâu nên mình không thấy, chỉ biết tin vào lời của người xưa. Nhưng ai đã từng ngồi thiền mới thấy nó thiêu hủy công đức của mình thế nào. Buồn hay vui mà ngồi thiền thì gắng một chút sẽ ngồi được, chứ sân giận oán hận thì không thể ngồi thiền. Nó sinh chướng rồi lùng bùng cả người, không nặng người thì nặng đầu rồi khó thở, bởi khí huyết chạy lung tung v.v… không cách gì ngồi được. Một ngày ngồi thiền là một ngày làm Phật. Một giờ ngồi thiền là một giờ làm Phật. Thiền không được không phải hủy hoại hết công đức sao? 

Ngoài ra, trí tuệ Phật hiển lộ là nhờ tâm lắng động. Sân giận lên thì như sóng thần nổi trên biển cả, che lấp cuốn trôi tất cả. Tâm chúng sanh lại huân tập rất tốt. Sân giận một lần, hai lần mà không có ý thức dứt bỏ thì nó sẽ có lực khiến mình sân hận hoài. Trí tuệ lu mờ thì mọi việc sẽ thành tăm tối. Nhân gian từng có câu “Giận mất khôn” là đó. Đây là đối với vấn đề tự lợi.

Với vấn đề lợi tha, nổi sân hay oán giận thể hiện lòng nhẫn nại của mình yếu, trí tuệ của mình kém, tình thương của mình đối với người ít ỏi. Nói ít ỏi là so với cái tôi của mình đây. Làm lợi ích cho người mà thủ 3 thứ đó làm hành trang thì khó mà thành công được. Trong Bạch Ẩn Thiền Định Ca, thiền sư Sessan nói “Sân giận cuối cùng trở thành căm thù, trở thành đố kỵtai họa cho sự sống. Không thể biết sự độc hại sẽ dừng ở đâu?”. Không biết được sự độc hại sẽ dừng ở đâu khi mình luôn có tâm giận tức với người. Vì thế, KHÔNG KHỞI TÂM SÂN GIẬN là lời thệ nguyện thứ 3 của bà.

4. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả bồ đề, đối với sắc thân và những sự tốt đẹp của người, không khởi tâm ganh ghét.

Thấy người hơn mình sinh ghét là tâm trạng của đa số người đời. Vì ai cũng có cái TÔI. Khuynh hướng của cái TÔI là luôn muốn được nổi bật, luôn muốn trong vị trí hàng đầu. Vì thế, thứ gì hơn nó, nó có khuynh hướng không ưa. “Ta dễ cảm thông với người khác khi sự bất hạnh hay tai ương chụp xuống đầu họ ... Khi một người quen hứng chịu sự bất hạnh, ta ngạc nhiên làm sao khi một cảm giác sôi sục trong ta” nhưng “Những người bạn tốt, gần đây đã trở nên xa cách vì tôn ông bên cạnh vừa xây một cửa hàng”.[17] Thông cảm và chia sẻ với những bất hạnh của người khác thì dễ, nhưng vui vẻ tán thán thật lòng về những gì người khác hơn mình rất là khó. Không phải là người đại lượng không thể làm được.

NHỮNG SỰ TỐT ĐẸP là chỉ cho những thứ như tiền bạc, tài sản, vật dụng ... nó cũng chỉ luôn cho trí tuệ, đức hạnh hay tánh tốt của một người. Thấy người tài trí hơn mình mà sinh tâm khó chịu, hoặc thấy người bố thí cúng dường nhiều thì không ưa, rồi tìm cách chê bai hay nói ra nói vô … đều biểu hiện cho tâm ganh ghét đố kỵ nói đây.

Với những việc tốt đẹp của người mà không tùy hỉ được thì chí ít là đừng ganh ghét. Vì ganh ghét hay đố kỵ ngoài việc biểu hiện tướng ngã của mình, nó còn bị quả báo không tốt. “Kinh nói, không có tội nào ác bằng đố kỵ với trí tuệ, tánh tốt và hành động thiện của người”.[18] Quả báo mình thấy rõ nhất trước mắt là sự bất ổn và mất an lạc của tâm. Ganh ghét, đố kỵ, ghen tuông … không phải là những cảm giác dễ chịuhạnh phúc đối với mình. Đó là trạng thái đau khổ của ngạ quỉđịa ngục

5. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả bồ đề, dù vật thực không được nhiều cũng không có tâm lẫn tiếc.

VẬT THỰC KHÔNG ĐƯỢC NHIỀU là chỉ cho phần vật chấtphu nhân có được trong một đời. Tùy duyên thọ thân của mỗi đời mà sự thọ dụng ở mỗi đời khác nhau. Nhưng dù trong cái duyên vừa đủ ăn thôi, bà cũng nguyện không có tâm bủn xỉn đối với chúng sanh. Thói thường của người đời là chỉ cho khi đã dư giả, không thì thứ gì không xài mới tới tay người khác. Người tu Phật thì không như vậy. Ngày mai chưa biết thế nào, nhưng trước mắt có người cần giúp đỡ, thì mình nên san sẻ những gì mình có … Đó là tâm hạnh của Bồ tát, là việc làm giúp mình xả đi sự ngăn cách giữa cái tôi của mình với cái tôi của người, mở rộng lòng từ, phá dần tâm chấp thủtrí phân biệt.

Ở bản dịch của ngài Cầu Na Bạt Đà La thì việc không lẫn tiếc này không chỉ nằm trong phạm vi của vật ngoài thân mà “Đối với nội ngoại pháp không có tâm lẫn tiếc”. NGOẠI là chỉ cho tài vật. NỘI là chỉ cho bản thân. Nếu thật sự thấy thân tâm thế giới này là mộng thì với tài sảnthân thể này, có gì mà không cho được khi điều đó mang lại lợi ích cho chúng sanh? 

6. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả bồ đề, không vì mình mà nhận chứa tài vật. Phàm có thọ nhận, đều vì thành thục chúng sanh bần khổ.

Lời nguyện này giúp phá trừ sự chấp thủ của người tu cũng là để việc lợi ích cho mọi người được tốt đẹp. Vì có ngã nên có sự chấp thủ của ngã, gọi là ngã sở. Tâm chúng sanh của mình rất buồn cười. Với tiền bạc của người thì rộng rãi thoải mái với việc bố thí lắm. Không có thì thôi, nhưng lỡ để dành được một đồng thì lập tức muốn có đồng thứ hai, thứ ba và … không biết bao giờ mới đủ cho khoảng lòng chúng sanh rộng mở của mình. Có bao nhiêu cũng thấy không đủ thì việc làm lợi ích cho thiên hạ tất sẽ hạn chế. Lấy tiền thiên hạ làm phước thì hăng, nhưng đụng đến tiền bạc của mình lập tức có so đo tính toán. Vì vậy, phải chặn đứng ngay ở niệm đầu tiên “Không vì mình mà nhận chứa tài vật. Phàm có thọ nhận cũng vì thành thục chúng sanh bần khổ mà thôi”. 

THÀNH THỤC CHÚNG SANH là dùng phương tiện vật chất giúp đỡ khiến họ nhận ra được những gì nên làm, những gì không nên làm để cuộc sống của họ được vui vẻhạnh phúc. Bởi không ai giúp mình được hạnh phúc lâu dài nếu không tự mình có suy nghĩ và hành động phù hợp với qui luật Nhân Quảthế gian. Không có suy nghĩ đúng đắn và hành động đúng đắn thì người có giúp bao nhiêu, khổ vẫn chỉ hoàn khổ.

BẦN KHỔ không phải chỉ có bần khổ về vật chất mà còn chỉ cho sự bần khổ về tinh thần. Đói cơm đói gạo mà khổ là lẽ tất nhiên. Nhưng đầy đủ cơm, gạo, nhà lầu, xe hơi mà không biết chút gì về luật Nhân Quảthế gian, cũng là một thứ khổ không thiếu cái bần của người đời. 

7. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả bồ đề, hành tứ nhiếp pháp mà chẳng cầu báo đáp, dùng tâm không tham, không lợi, không nhàm đủ, không ngăn ngại mà nhiếp thọ chúng sanh.

TỨ NHIẾP PHÁP là 4 pháp dùng để thu phục chúng sanh. Gồm có bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.

1. BỐ THÍ là tặng những thứ mình có cho người. BỐ THÍ TÀI VẬT như giúp đỡ tiền bạc cơm gạo cho những người khó khăn. BỐ THÍ THÂN MẠNG, như ngày nay có người hiến thận hay hiến máu cứu người, đều thuộc loại bố thí này. BỐ THÍ SỰ KHÔNG SỢ như giúp người khi người bị hiếp đáp hoặc gặp chuyện bất bình giữa đường v.v... Hai trường hợp này không chỉ dành cho đối tượng là người mà còn cho cả loài vật. Cuối cùngBỐ THÍ PHÁP, là cho ra những lời khuyên đúng thời đúng lúc, khiến người hồi tâm

Dù là bố thí nội tài, ngoại tài hay bố thí pháp thì quan trọng là phải đúng lúc, đúng nơi. Người đang có nhu cầu về thứ gì thì việc bố thí của mình về thứ đó mới có tác dụng. Người đang nghèo đói cần ăn, mình không cho ăn mà cứ dài dòng văn tự “Cần phải tập bố thí cho người khác mới thoát khỏi cảnh đói nghèo” thì cũng giống như ngài Xá Lợi Phất, nhè người thổi lò mà dạy quán bất tịnh. Song muốn sử dụng đúng pháp đúng thời thì cần phảiCHÁNH PHÁP TRÍ. Nó là thứ để ta tới lui nhịp nhàng trong vấn đề lợi ích cho tha nhân.

Bố thí CHẲNG CẦU BÁO ĐÁP, là bố thí rồi thì quên nó đi, coi như chưa từng làm gì cho ai hết. Chưa từng làm gì cho ai thì người có đối xử với mình thế nào, mình cũng bình thường. Việc lợi ích cho người mới được dài lâu. Bản dịch của ngài Cầu Na Bạt Đà La thì ghi “Không vì mình mà hành tứ nhiếp pháp”. KHÔNG VÌ MÌNH vì làm vì người. Chỉ vì người mà bố thí nên dù người có thế nào với mình, mình cũng không quan tâm. Chỉ biết người cần ăn thì mình giúp họ no, người cần hết sợ thì mình giúp họ hết sợ, người cần một lời an ủi thì mình tặng một lời an ủi

2. ÁI NGỮlời nói nhẹ nhàng thương yêu. Người đời có câu “Mật ngọt chết ruồi” vì phần lớn mọi người đều thích lời nói êm dịu, nhẹ nhàng, gần gũi. Nhắm vào chỗ đó nên ÁI NGỮ là một trong 4 nhiếp pháp của Bồ tát. Song sự nhẹ nhàng nói đây là vì lợi ích của người, KHÔNG PHẢI VÌ MÌNH mà nói. Đây là sự khác nhau giữa ái ngữ cũa người đời và người tu. Dùng ÁI NGỮ, không phải để mình trở thành một người đáng mến trước mắt họ, cũng không phải vì những mục đích riêng tư của mình v.v… mà chỉ vì để người tiếp thu được lời phải, khiến người có cuộc sống vui vẻ, đạo hạnh tiến bộ, nên nói KHÔNG CẦN BÁO ĐÁP.

3. LỢI HÀNH là khởi thiện hạnh làm lợi ích cho mọi người, khiến họ sinh tâm thân ái mà theo mình học đạo. Thiền sư Lai Quả nói “Lợi hành có 2 thứ : Một là trợ giúp người hành đạo. Hai là làm lợi ích cho mọi người. Như người muốn ở tùng lâm không có y áo, không có lộ phí v.v… thì tìm cách cho họ áo chăn của mình, bán y bát của mình cho họ làm lộ phí. Chỉ lo cho người đầy đủ chẳng màng đến sự cần dùng của mình. Bồ tát vì lợi ích của mọi chúng sanh khiến cho họ được hoan hỉ an vui, lấy cái lợi của mình để làm lợi cho người. Lấy cái pháp của mình đã hiểu ra dạy cho người, lấy cái hạnh mình đã làm mà tập cho người. Người sống trái đạo thì khuyên họ hối cải … Phải biết tự mình hành đạo là công nhỏ, khuyên người hành đạo là công to, thế nên cái đạo LỢI HÀNH là vô tận vậy”. 

4. ĐỒNG SỰthuận theo căn tính ưa thích của từng người mà tùy phần thị hiện cùng làm công việc như họ để khuyến hóa họ. Nghĩa là, muốn vớt người đang ngụp lặn giữ dòng thì cũng phải nhảy xuống chỗ họ mà vớt, không thể đứng trên bờ huơ tay huơ chân và miệng thì kêu inh ỏi. Do bi nguyện nên chư vị Bồ tát có thể hóa thân thành anh em, cha mẹ, vợ chồng, con cái hoặc làm cùng nghề, hoặc cùng một nghiệp với người mình muốn hóa độ. Như cùng nghiệp uống rượu, nghiệp nhiều chuyện, hay cùng một nghề giáo viên chẳng hạn. Có vậy, mới có điều kiện hướng người cùng về Chánh Đẳng Chánh Giác. Thiền sư Lai Quả nói “Muốn độ người ăn xin thì phải cùng người ấy làm nghề ăn xin để độ họ … muốn độ con heo thì cũng phải đầu thai thành con heo để mà độ … gọi là đồng sự nhiếp”. 

Suy nghĩ và hành động của mình một khi đã thành thói quen,[19] rất là khó bỏ. Như những người nghiện rượu. Có người biết rượu là độc, tương lai sẽ xơ gan, sẽ xảy ra tai nạn, là xô sát … mà thấy rượu là quên tất cả. Đó là vì thói quennăng lực rất mạnh (Phật gọi là nghiệp lực). Nó chính là động lực đẩy ta luân hồi trong sanh tử. Song thói quen này thuộc về hành động, chỉ cần mình đủ ý chí là bỏ được ngay. Nguy cơ nhất là thói quen nằm ở suy nghĩ, mà ta thường gọi là định kiến hay quan niệm. Cái kiểu “Nam vô tửu như kỳ vô phong” thì thôi, không biết đời nào mới chay tịnh được. Phải chờ một trận “sóng rượu” nào đó khiến mình chết đi sống lại với nó, mới mong thay đổi chút gì …

Với những vui, buồn, thương, giận và suy nghĩ của con người, là thứ được huân tập thành ruột thành rà từ vô thủy kiếp đến nay, lại càng khó bỏ. Nói chúng là vọng buông đi, không mấy ai chịu buông. Buông mà thấy chướng thân, chướng tâm thành không dám buông thì không có gì để nói. Nhưng có người buông được mà không chịu buông. Tiếc! Ngay cả sự vật vã, đau khổ, buồn bã, một khi quen với nó rồi, nó cũng dẫn người chạy lòng vòng như một cái thú chứ chẳng phải chơi. Bà vật vã, đau khổ, mất cân bằng vì đứa con thân yêu vừa qua đời, nhưng khi được các bậc thầy chỉ cho phương thức đơn giản để trị đau khổ thì hình như bà không muốn. Bà sợ hình ảnh của con sẽ phai mờ trong ký ức của bà thì phải … Không muốn thoát khổ thì không ai có thể giúp mình hết khổ. Cũng như không bỏ được những thói quen về thân, khẩu, ý thì không thể có được cuộc sống bình an hạnh phúc, nói gì đến việc làm Phật, làm Tổ. Ông Tổ vật lý Einstein nói “Đời nay thay đổi một tư kiến còn khó hơn phá một hạt nhân nguyên tử”. Song nếu không thay đổi được những suy nghĩ sai lầm - là nền tảng cơ bản cho một hành động sai lầm, là nguyên nhân dẫn đến khổ đau - thì làm sao có thể thành thục chúng sanh? Mới thấy, thành thục cho được chúng sanh trong tâm đã khó, nói gì là chúng sanh bằng xương bằng thịt ngoài tâm. Sức lựcvô kểthời gian thì vô tận. Không có tâm “Không tham, không lợi, không nhàm đủ, không ngăn ngại” khó mà làm được. Vì thế, nó trở thành một trong các lời thệ nguyện của phu nhân Thắng Man. 

Bản Hán của ngài Cầu Na Bạt Đà La thì ghi là TÂM KHÔNG ÁI NHIỄM thay cho tâm không tham, không lợi. TÂM KHÔNG ÁI NHIỄM, nghĩa của nó rõ ràngdễ hiểu hơn ‘Tâm không tham, không lợi’. Như với việc LỢI HÀNH, giúp người với tâm không ái nhiễm thì không vì thương mới giúp, ghét thì không. Giúp rồi cũng không lấy đó để tính ơn, tính nghĩa. Chỉ với mục đích duy nhất là làm lợi ích cho người mà thôi.

Trong cảnh ĐỒNG SỰ, nếu có tâm ái nhiễm thì thay vì hướng người đó về đạo bồ đề, mình lại bị người lôi theo nghiệp tập của người. Thay vì làm một anh say rượu để lôi những anh say rượu cùng tỉnh, mình lại thành một tay bợm nhậu của đám xỉn say. Hạnh nguyện tiêu tùng mà công phu thì sập tiệm. Vì vậy, tâm không ái nhiễm rất cần thiết cho pháp đồng sự

8. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả bồ đề, nếu gặp những ai không nơi nương tựa, bị các thứ tối tăm ràng buộc, bịnh tật, ưu não, nguy ách thì con chẳng bao giờ bỏ rơi họ, nguyện sẽ làm cho họ được an ổn, dùng nhiều điều lợi ích khiến họ hết khổ.

 BI và TRÍ là thứ sẵn đủ trong mỗi chúng sanh, chỉ do vô minh che lấpthành nhân ngã phân biệt. Song dù ở hoàn cảnh nào thì bản chất tốt đẹp kia vẫn không mất. Vì thế, ai gặp kẻ cô độc, bần hàn, đau khổ cũng thấy động lòng thương xót và muốn giúp đỡ. Song người hay gặp khổ nạn, tai ương, nghèo khổ thường là người thiện căn kém cõi. Nói THƯỜNG chứ không nói TẤT CẢ. Thiện căn kém thì tập nghiệp xấu cũng nhiều. Tham nhiều, sân nhiều, mà ngu si cố chấp cũng nhiều. Ngu si cố chấp nhiều nên nhận lãnh của người thì nhiều mà khi nào cũng sinh tâm ghét bỏ, ganh tỵ, oán thù. Cho một đòi hai, thêm trò gian dối lừa phỉnh. Chỉ biết cái gì là vừa lòng, chứ không phân biệt được cái gì là tốt cho mình, cái gì không tốt cho mình, nên khuyên lời phải ít chịu nghe. Tâm xấu xa mờ mịt nên cảnh giới chung quanh không thể thuận lòng. Không thuận lòng thì sân hậntham lam càng tăng trưởng. Nghĩa là, đủ thứ rối renrắc rốiVì vậy, lòng tốt của mình đối với người dễ sinh giới hạn, lòng nhiệt tình của mình dễ bị lụi tàn. Việc nhiếp hóa thành thất bại. Để khắc phục điều đó, bà đã nguyện “Chẳng bao giờ bỏ rơi họ, nguyện sẽ làm cho họ được an ổn, dùng nhiều điều lợi ích khiến họ hết khổ”. 

LÀM NHIỀU ĐIỀU LỢI ÍCH để họ hết khổ là dùng nhiều phương tiện làm cho họ thay đổi những quan niệm sai lầm. Vì họ chỉ hết khổ thật sự khi tự họ nghĩ thiện và làm thiện. Thay đổi một tư kiến không phải là điều dễ làm. Không phải trong một đời mà có thể làm xong. Cũng không phải chỉ thuần những thuận hạnh mà có thể làm thay đổi đi một tư kiến. Có khi phải dùng cả những nghịch hạnh để mà nhiếp hóa. Cho nên, LÀM LỢI ÍCH không có nghĩa là làm cho người được sung sướng hạnh phúc.[20] Có khi rồi cũng cần một sự đau khổ trong hiện tại là đằng khác. Chủ yếu là để người chuyển đi một tư kiến sai lầm, hầu có được một cuộc sống thiện về lâu về dài cho những kiếp sau.

9. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả bồ đề, phàm thành ấp hay tụ lạc nào mà con nhiếp giữ, nếu có các ác luật nghi hủy phạm giới cấm thanh tịnh của Như Lai thì điều phục được, con sẽ điều phục ; nhiếp thọ được, con sẽ nhiếp thọ. Vì cớ sao? Vì điều phụcnhiếp thọ thì chánh pháp được tồn tại lâu dài. Chánh pháp tồn tại lâu dài thì chúng sanh ở các cõi trời và người sẽ thêm nhiều, còn ác đạo thì giảm thiểu. Có thể khiến cho bánh xe pháp của Như Lai thường chuyển. 

Hiện thân kiếp này của bà là vương phi nên bà nói “Phàm thành ấp hay tụ lạc nào mà con nhiếp giữ”. Song dù không là vương phi thì nơi nào bà đã đặt chân đến, nơi đó chính là nơi bà thực hành hạnh nguyện của mình, nên nói NHIẾP GIỮ.

ÁC LUẬT NGHI là những hành động đưa con người đến cái quả là bịnh tật, tai họađau khổ. Theo các kinh luận thì những công việc như bùa thuật, săn bắn, làm các nghề sinh sát, hàng rượu v.v… đều gọi là ác luật nghi. Ngoài ra nó còn chỉ cho những hành động phạm giớiNhư Lai đã đặt ra, như Phật tử tại gia mà phạm 5 giới của người tại gia, Tỷ kheo mà phạm 250 giới của Tỷ kheo v.v... Luận Câu Xá nói “Ác luật nghi là điều mà người trí quở trách nhàm chán nên gọi là ác hành. Vì không ngăn hành vi ác của thân và miệng nên gọi là bất luật nghi. Nó làm chướng ngại giới luật thanh tịnh nên gọi là ác giới”. Vì lẽ đó mà đây nói “Các ác luật nghi hủy phạm giới cấm của Như Lai”.

ĐIỀU PHỤCNHIẾP THỌ đều mang ý nghĩa là dẹp đi các ác luật nghi ấy, không để nó có cơ hội phát triển. Song NHIẾP THỌ còn mang thêm tính THUẬN THEO. Không những chỉ bỏ đi các ác luật nghi mà còn quay về qui thuận Phật pháp. “Điều phục được thì con điều phục, nhiếp thọ được thì con nhiếp thọ” là, việc nào bà cũng gắng hết sức mình. Song thứ gì cũng phải tùy duyên. Không có duyên thì ngay cả Phật cũng bó tay nói là bà. Bà không phải là thứ quyết định mọi vấn đề mà chỉ là cái duyên hy vọng để cái quả gặt được trở nên tốt hơn. Vì thế, tùy sự tùy việc mà làm để đạt được kết quả tối cùng cho sự việc đó. Không đúng duyên thì trước mắt, bà cũng không điều phục, cũng không nhiếp thọ. Chờ gieo duyên, kiếp sau tính tiếp.

VÌ SAO là hỏi để hiểu vì sao phải điều phụcnhiếp thọ những thứ đó. Vì điều phục pháp ác và nhiếp thọ người qui thuận Phật pháp thì thiện pháp được tăng trưởng. Thiện pháp tùy thuận với chánh pháp. Chánh pháp nhiếp thọ thiện pháp. Thiện pháp còn thì chánh pháp còn. Chánh pháp còn thì thiện pháp còn. Nên nói “Điều phục và nhiếp thọ thì chánh pháp được tồn tại lâu dài”. 
Pháp thế gianpháp duyên khởi. Pháp này luôn liên quan mật thiết đến pháp kia. Cái xấu của pháp này kéo theo cái xấu của pháp kia. Cái tốt của pháp này cũng kéo theo cái tốt của pháp kia. Chặn đứng được pháp ác này thì sẽ chặn bớt được pháp ác khác. Pháp thiện này tăng trưởng thì pháp thiện khác cũng tăng trưởng. Vì thiện pháp tùy thuận với chánh pháp nên thiện pháp tăng trưởng thì chánh pháp tồn tại lâu dài

Như chuyện ma túy xì ke chẳng hạn. Ma túy thì thường đi liền với trộm cắp, giết người, đỉ điếm, bệnh tật và tham nhũng. Ngăn chặn được ma túy thì cũng ngăn chặn được những thứ còn lại. Người sống thiện, không dính vào những việc xấu thì dễ gần gũi và chấp nhận giới luật cũng như những lời Phật dạy trong kinh hơn là những người phạm vào các giới luật v.v… Như người không nghiện rượu, không tà dâm v.v… thì dễ dàng chấp nhận 5 giới của Phật tử tại gia hơn là một chàng bợm nhậu hay một cô nàng đang ngoại tình. Do đó việc nhận lãnh chánh pháp của Như Lai cũng dễ dàng hơn. Nên nói “Có thể khiến cho bánh xe pháp của Như Lai thường chuyển”.

10. Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả bồ đề, nhiếp thọ chánh pháp chẳng để mất. Vì cớ sao? Vì để mất chánh pháp tức là mất Đại thừa. Để mất Đại thừa tức là mất Ba la mật. Để mất Ba la mật thì buông Đại thừa. Chư Bồ tát nào nếu đối với pháp Đại thừa không có tâm quyết định, nhiếp thọ chánh pháp không kiên cố thì chẳng thể kham nhận cảnh giới siêu vượt phàm phu, là tổn thất rất lớn.

Đây là lời hoằng thệ cuối cùng của bà : Nhiếp thọ chánh pháp chẳng để mất, là thọ nhận và gìn giữ chánh pháp không để mất. CHÁNH PHÁP là tất cả những gì mà Như Lai và chư vị Bồ tát đã nói và đã chứng. Phần nói là những thứ như kinh, luật, luận của Tam thừa. Phần chứng là phần thể nghiệm của bản thân về những gì được nói đó. CHÁNH PHÁP nói đây là chỉ cho Đại thừa. Vì Đại thừa thu nhiếp hết các thừa dưới mà phần thâm nghĩa của Đại thừa lại chính là Phật thừa. Song những gì thuộc về hữu vi như kinh, luật, luận, pháp môn thì vô thường. Chỉ có pháp vô lậu vô vi mới thường hằng bất biến. Vì vậy, chánh pháp hay Đại thừa nói đây là phần trực nghiệm chủng vô lậu của bản thân, là muốn nói đến phần thâm nghĩa của Đại thừa. Một khi trực nghiệm được phần thâm nghĩa của Đại thừa thì gom thâu đầy đủ. Tất cả pháp đều là Phật pháp

ĐẠI THỪA là gì?

Trên văn từ định nghĩa, Đại thừa có rất nhiều nghĩa. Hãy nghe Bồ tát Long Thọ nói về nghĩa Đại thừa trong luận Thập Nhị Môn “Đối với Nhị thừa thì trên nên gọi là Đại thừa. Hay diệt trừ các khổ của chúng sanh cho việc lợi ích lớn nên gọi là Đại. Chư Phật là bậc tối đại mà thừa này hay đến nên gọi là Đại v.v… Phần thâm nghĩa của Đại thừa chính là KHÔNG. Nếu thông suốt nghĩa này là thông suốt Đại thừa, đầy đủ các Ba la mật, không có chướng ngại”. 

Câu cuối là câu đáng để ta ghi nhận : Thông suốt nghĩa KHÔNG thì thông suốt ĐẠI THỪA, đầy đủ các Ba la mật. THÔNG SUỐT, nghĩa là phải tự mình trực nhận, tự mình kinh nghiệm qua. Còn chưa suốt được thì phải mượn phần văn tự sau để tạm thông về cái KHÔNG đó.

KHÔNG là chỉ cho cái KHÔNG của tâm mình. Những thứ cảm giác như vui, buồn … hay những dòng suy nghĩ mình đang sở hữu đây không phải là tâm mình. Phật gọi chúng là vọng tưởng. KHÔNG, nghĩa là LY[21] hết những thứ đó đi. Nhưng không phải là trạng thái không tịch của các vị Nhị thừa, còn có cảnh giới để chứng đắc. Trạng thái không tịch đó, Tổ cũng gọi là vọng mà là vọng giác. Khi tâm không bị vướng vào hai thứ trên, nó sẽ trở lại trạng thái nguyên thủy của nó : Thanh tịnh, trùm khắp, với vô vàn công đức chẳng thể nghĩ bàn, đầy đủ 4 đức thường, lạc, ngã, tịnh. Đạt được cái KHÔNG đó là thâm nhập được cội nguồn chân thật của tất cả pháp. Cái không ấy chính là THỂ TÁNH của tất cả thế gian và mọi loài chúng sanh. Kinh luận gọi cái không ấy là tánh không, là chân như, là chân không diệu hữu, là Phật, là Như Lai. Phần thâm sâu của Đại thừa chính là cái KHÔNG này. Cái không ở NHÂN,[22] gọi là tánh không hay Phật tánh. Cái không ở QUẢ,[23] gọi là chân không diệu hữu hay Như Lai.[24] Chính là Phổ Quang Như Laiphu nhân được thọ ký trong tương lai. 

Nghĩa là, sau một quá trình dài vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp NHIẾP THỌ CHÚNG SANH trong tâm và NHIẾP THỌ CHÚNG SANH ngoài tâm, bà sẽ trở về được tâm chân thật của chính mình, gọi là thành Phật

Như vậy, lời nguyện NHIẾP THỌ CHÁNH PHÁP CHẲNG ĐỂ MẤT với một dọc dài những danh từ và lý luận … gom lại chỉ có một ý nghĩa duy nhất : Mất chánh pháp thì không thể thành Phật với pháp hiệuPhổ Quang Như Lai mà Phật đã thọ ký. Vì thế, từ khi phát những lời hoằng thệ này cho đến khi thành Phật, bà nhất quyết nhiếp thọ chánh pháp không để mất. Không mất nhiếp thọ chúng sanh trong tâm thì trí Phật được hiển lộ. Không mất nhiếp thọ chúng sanh ngoài tâm thì bi nguyện được tròn đầy. Bi trí cả hai đều đầy đủ thì viên mãn quả Phật.

Giờ nói về việc “Mất Đại thừa là mất Ba la mật”. 
Trong luận Đại Thừa Khởi Tín, BA LA MẬT là đối tượng tu hành của hạng Giải Hạnh Phát Tâm. Là những người đã có niềm tin sâu sắc và thâm hiểu được ít nhiều về tánh Phật của mình dù chưa thực chứng được Phật tánh là gì. Pháp tu của những vị này là LY TƯỚNG, tức không còn đặt nặng vào những hình tướng bên ngoài như kính Phật, cúng dường Tăng hay chỉ dừng ở mức độ tàm quí và loại bỏ các niệm ác. Các vị đã bước qua giai đoạn phá trừ sự sanh khởi của tâm. Niệm thiện hay niệm ác đều buông, để đưa tâm về chỗ vô trụ vốn sẵn của nó. 

BA LA MẬT, là cứu cánh hay đến bờ kia. Pháp nào đưa người tu đến bờ giác ngộ rốt ráo gọi là Ba la mật. Muốn được gọi là Ba la mật thì pháp ấy phải hội đủ 5 điều kiện : Không nhiễm trước, không luyến tiếc, không tội lỗi, không phân biệthồi hướng chân chính.[25] 

Với những điều kiện của BA LA MẬT trên, nếu không nhiếp phục được chúng sanh trong tâm và không có bi nguyện sâu dày thì khó mà thực hiện được các Ba la mật. Vì thế nói “Nhiếp thọ chánh pháp chẳng để mất vì để mất chánh pháp tức là mất Đại thừa. Để mất Đại thừa tức là mất Ba la mật”. Không thực hiện được các hạnh Ba la mật, tức buông phương tiện tu hành và buông luôn việc “đến bờ kia”, nên nói “Để mất ba la mật thì buông Đại thừa”. 

“Đối với pháp Đại thừa không có tâm quyết định” là nói đến niềm tin của mình đối với Đại thừa chưa dứt khoát. Nay Đại thừa, mai Tiểu thừa, ngày kia đi làm việc phước thiện. Nay tu pháp này, mai lựa pháp khác v.v… chẳng trụ đâu được lâu, cứ “Phất phơ như lông trong hư không”. Tâm không quyết thì vui đâu gá đó. Làm việc gì cũng như sốt rét cách ngày, gặp khó liền nản, nên nói “Nhiếp thọ chánh pháp không kiên cố”. 

Tu hànhniềm tin không vững vàng thì trên sự chẳng thể khả quan, kết quả cũng không thể có. CẢNH GIỚI SIÊU VIỆT PHÀM PHU là chỉ cho phần thâm nghĩa của Đại thừa. Cảnh giới PHÀM PHU nói đây cũng chỉ luôn cho trạng thái không tịch của Nhị thừa

Thế Tôn! Nếu hiện tạivị lainhiếp thọ chánh pháp thì chư vị Bồ tát sẽ được đầy đủ lợi ích rộng lớn không có bờ mé. Con phát các thệ nguyện này, dù thánh chủ Thế Tôn đã chứng tri, nhưng với các chúng sanh căn lành cạn mỏng, có người sẽ khởi lưới nghi. Vì 10 điều thệ nguyện này khó thành tựu nên các người đó đêm dài tập quen với pháp bất thiện, sẽ chịu nhiều khổ não. Vì muốn lợi ích hơn cho họ, nay đối trước Phật con xin chân thành phát nguyện. Bạch Thế Tôn! Con nay phát 10 thệ nguyện này, nếu chân thật chẳng hư dối thì trước đại chúng đây, hoa trời sẽ rơi, âm thanh vi diệu của trời sẽ trổi.

Đây là lời gút kết của phu nhân Thắng Man. Nếu như 10 điều bà nguyện đây là chân thật không hư dối thì xin cho hoa trời mưa xuống, nhạc trời trổi lên để chứng minh điều bà đã thệ nguyện. CHÂN THẬT KHÔNG HƯ DỐI là, bà đã phát nguyện thì nhất định bà sẽ làm được và những lời hoằng thệ đó là phương tiện đúng đắn dẫn bà đến cứu cánh. Bà xin như vậy để làm gì? Để khuyến dụ mấy vị căn lành cạn mỏng, là chỉ cho mấy vị còn vướng nặng ở tướng bên ngoài. Vì sao lại chấp vào tướng bên ngoài? Vì không đủ trí tuệ.

Những gì phu nhân vừa nói, Phật đều chứng tri vì Phật có trí tuệ nhìn thấu tất cả. Nhưng với người căn lành cạn mỏng thì khác. Vì không đủ trí tuệ nên các vị chỉ biết dựa vào những hình thức bên ngoài. Với hình tướng của một người nữ lại là một vị vương phi giàu sang phú quí, nói đến chuyện tu hành đã là khó, huống là nguyện làm những điều quá khó làm. Vì thế những hiện tướng như hoa trời rơi, âm thanh vi diệu trổi là việc cần thiết. Bà phải nương vào những ảnh tượng đó để khuyến dụ tha nhân. Phần sau chứng minh điều bà làm không hề dư thừa.

Phu nhân Thắng Man ở trước Như Lai vừa dứt lời xong, thì trên hư không mưa hoa liền rơi, âm thanh vi diệu cõi trời liền trổi với lời khen ngợi “Lành thay, phu nhân Thắng Man! Đúng như lời bà nói, chân thật không có đổi khác”. Khi chúng hội thấy điềm lành đó, tâm không còn nghi hoặc mà rất vui mừng, đồng thanh xướng lên “Nguyện cùng phu nhân Thắng Man sanh ra chỗ nào cũng cùng chung hạnh nguyện”.

Phật Thế Tôn thọ ký cho họ được như sở nguyện

Dù trước đó Phật đã xác nhận phu nhân sẽ thành Phật ở cõi đó vào thời gian đó, nhưng khi Thắng Man phát lời thệ nguyện, hội chúng nghe thì nghe, mà tin thì không dám tin. Đúng như điều bà đã dự đoán. Những lời bà nói ra chỉ có Phật mới chứng tri được, còn chúng hội thì phải “Thấy điềm lành đó, tâm không còn nghi hoặc mà rất vui mừng, đồng thanh xướng lên rằng …”. Nhờ thấy điềm lành đó, chúng hội mới chịu tin. Song nhờ vậy, ta mới thấy mình có phần : Người dù căn lành cạn mỏng bao nhiêu cũng có thể thọ 10 hoằng thệ này. Chỉ cần có niềm tin và có quyết tâm thì sẽ làm được. Không phải chỉ người có trí tuệ như phu nhân Thắng Man mới dám thệ nguyện.

ĐIỀM LÀNH nói đây là chỉ cho những duyên giúp cho một vị Bồ tát thực hành bi nguyện của mình được vuông tròn. Nếu thực là một vị có công phu đắc lực, có lòng tha thiết đối với vấn đề lợi ích cho tha nhân, thì mình sẽ có được những phần duyên trợ giúp này. Nó không hẳn chỉ nằm ở việc hoa trời rơi hay nhạc trời nổi mà rất nhiều hình thức bình thường khác. Có khi chỉ là một duyên bình thường khiến lời nói của mình có giá trị để người phát niềm tin thuận theo, khiến việc nhiếp hóa được dễ dàng.

Cha anh bạn tôi là một người rất thực tế. Nói thực tế vì ông không tin vào việc phước thiện, không tin vào những thứ mà mắt thường không cảm nhận được. Như nói đến tiền bạc thì không thể do bố thí cúng dường mà được giàu sang. Phải là tích chứa, thâu gom và làm cật lực mới có tiền. Quan niệm như vậy nên ông không thích bố thí cúng dường, cũng không thích con cháu mình bố thí cúng dường. Hai chữ ‘thực tế’ muốn nói đây là như vậy. 

Anh không muốn cha vướng vào những suy nghĩ không đúng, có thể trải dài sự nghèo khó vào những kiếp sau, nên trong những buổi chuyện trò anh hay nói về phước đức, là cái quyết định rất nhiều đối với đời sống thường nhật của một con người. Nghe thì nghe, nhưng tin thì tôi biết ông cụ không tin.

Nhân duyên đến, cây đèn lớn như một dĩa bay trên trần nhà bỗng nhiên rớt xuống. Nó rớt vào lúc mà người xích lô vừa đi ra và ông cụ chưa kịp bước tới. Câu mà ông cụ buộc miệng nói sau đó là “Không có phước thì chết rồi! Mình không chết mà thằng xích lô chết, mình cũng chết”. Nghĩa là, trong thâm tâm, ông cụ đã ít nhiều công nhận phước đức là thứ quyết định ít nhiều ở cuộc đời này, không hẳn chỉ có sức lực của con người. Đó là dấu hiệu thay đổi đầu tiên cho một tư kiến, là cái nhân để có những cái quả khác trong tương lai.

Thật ra, những loại điềm lành đó không hẳn chỉ do công đức hạnh nguyện của người nhiếp hóa mà còn có phần phước đức của người được nhiếp hóa nữa. Thấy được điềm lành đó để tin mà làm theo còn phụ thuộc vào phần phước đức của người được thấy. Không có phước báu và căn lành của chính mình thì không đủ duyên để gặp được những điều như vậy, để niềm tin hình thành mà phá đi những tư kiến không đúng. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32599)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30229)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30311)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12037)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12157)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11496)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12585)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34451)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9722)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52115)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10626)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10384)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10591)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10343)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9518)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12526)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12652)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16116)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13734)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11957)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13696)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9121)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11664)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11188)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16105)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11949)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15549)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11406)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13928)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12513)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14861)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13031)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20539)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20154)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17465)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13855)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11907)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant