Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chú Thích

20 Tháng Năm 201000:00(Xem: 8102)
Chú Thích

KINH THẮNG MAN PHU NHÂN HỘI
TAM TẠNG BỒ ĐỀ LƯU CHÍ Dịch từ Phạn sang Hán 
Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2006

 

CHÚ THÍCH

01 Lý do : Nhân duyên 

02 Bản khác là “Tin Phật chưa lâu”. Nghĩa là, tuy đời này đến với Phật pháp chưa bao lâu, nhưng đã có niềm tin đối với Phật. Văn của hai bản tuy thấy khác nhưng cùng một ý nghĩa

03 Thứ gì được lặp lui lặp tới thành thói quen rồi, khi đủ điều kiện nó sẽ hiện ra. Đây giải thích vì sao có các thần đồng về âm nhạc, toán học v.v… cũng giải thích vì sao có người nghe đến Phật và kinh thì ưa mà có người thì không, có người tin hiểu pháp Đại thừa, có người tin hiểu pháp Nguyên thủy … Đều do sự huân tập trước đây. 

04 Bản khác “Nhất định sẽ mau hiểu pháp, tâm được vô ngại”. 

05 Gặp được pháp và vị thiện tri thức mà mình đã từng có nhân duyên từ những đời trước. 

06 Nghiên cứu luận Đại Thừa Khởi Tín – phần HUÂN TẬP KHỞI TỊNH PHÁP CHẲNG DỨT - sẽ thấy 2 loại sở kiến báo và hóa thân này. 

07 Tuy đều là ngộ nhưng có thô và tế. Thô là chỉ cho niềm tin hoặc báo thân Phật. Tế là chỉ cho pháp thân Phật, tức tự tánh chân như của chính mình. Duy Thức Học gọi cảnh giới tự tánh chân như ấy là VÔ CHẤT TÁNH CẢNH.

08 “Vô tỷ, bất tư nghì” : Không có gì bì đọ, cũng chẳng thể nghĩ bàn. 

09 Đã giải thích rõ trong luận Đại Thừa Khởi Tín – dịch và giải Chân Hiền Tâm

10 Chỉ cho tâm phân biệt hiện nay của mình, luôn luôn có chủ thể và đối tượng để nhận thức. Đó chính là ý thức.

11 Bản Hán của ngài Bạt Đà La là “Nhiếp trì tất cả pháp”.

12 Bản Hán của ngài Bạt Đà La ghi là KÍNH LỄ.

13 Lời của HT Trụ trì thiền viện Thường Chiếu

14 Được biểu hiện ở địa vị vương phi hiện tại và qua 10 lời thệ nguyện cùng 3 đại nguyện sau của bà.

15 Nghiệm chính bản thân mình thì sẽ thấy điều này.

16 Theo Vãng Sanh Yếu Tập, nó là điều vui thứ 4 ở cõi Cực Lạc, gọi là “Ngũ diệu cảnh giới lạc” - Tự điển Phật Học Huệ Quang.

17 Bạch Ẩn Thiền Định Ca. 

18 Bạch Ẩn Thiền Định Ca.

19 Thói quen về suy nghĩ thì gọi là định kiến, về hành động gọi là tập nghiệp.

20 Với người đời, những gì thuận với tánh dục của mình là mình hạnh phúc. Song thuận theo cái dục ấy có khi đưa đến kết quả tốt, nhưng có khi dẫn đến kết quả rất xấu. Vì thế, khiến người được hạnh phúc sung sướng không hẳn đã là làm lợi ích cho người.

21 LY nghĩa là không có các thứ đó hay không dính với các thứ đó (Do nhận ra được thực tướng của chúng). Nhờ vậy, chư vị Bồ tát mới có phương tiện làm lợi ích cho chúng sanh

22 Vì chỉ mới trực nghiệm được phần THỂ. 

23 Vì đã đầy đủ cả thể, tướng và dụng.

24 Được nói đầy đủ trong luận Đại Thừa Khởi Tín.

25 Như pháp bố thí, muốn gọi là BỐ THÍ BA LA MẬT thì phải hội đủ 5 điều kiện : 1/ Cho mà không được nhiễm trước : Không vì thương mà cho, không dính mắc vào việc cho ấy v.v… 2/ Cho mà không luyến tiếc : Cho rồi thì thôi, không suy nghĩ đúng sai gì nữa. 3/ Cho mà không gây tội lỗi : Cho không theo kiểu quăng ra hay nặng nhẹ cho xứng với thứ mình cho, cũng không sanh tâm kiêu ngạo 4/ Cho mà không phân biệt : Không phải người mình thương mình mới cho, ghét thì miễn. Không phải người thân của tôi tôi mới cho. Cho là cho, như Phật tặng vợ tặng con của ngài. 5/ Cho mà hồi hướng chân chính : Tất cả công đức có được từ việc bố thí đều hồi hướng cho con đường Phật đạo, không phải để tìm quả báo sung sướngcõi trời và người.

26 So với cái thấy của phàm phu thì cái thấy của Nhị thừa được xếp vào loại chánh trí. Song so với trí tuệ của các vị Bồ tát đăng địa và chư Như Lai thì trí Nhị thừa vẫn bị cho là thiên lệch. Đây là mặt DUYÊN KHỞI của vạn pháp. Một khi đã nói đến tốt, xấu, chánh, tà thì phải nói đến DUYÊN. Còn tánh của pháp thì không có tính tốt, xấu, chánh, tà. Chỉ tùy duyên mà hiển tướng.

27 Còn gọi là duyên sanh. Pháp ở thế gian không có gì TỰ xuất hiện mà phải NHỜ duyên mới xuất hiện được nên gọi là duyên khởi. Như con gà không thể tự xuất hiện. Phải có các DUYÊN như gà mái, gà trống, lương thực, thời tiết v.v… mới có gà con. Vì pháp xuất hiện là nhờ duyên nên gọi là DUYÊN KHỞI, là do duyên mà khởi, do duyên mà thành. 

Trong các phần DUYÊN để tạo ra pháp mới đó, có một DUYÊN QUYẾT ĐỊNH và những DUYÊN PHỤ TRỢ. Như gà thì phải từ giống gà ra chứ không thể từ nước hay từ thóc. Duyên quyết định đó, gọi là NHÂN. Các duyên phụ còn lại gọi là DUYÊN. Chính hay phụ đều phải đầy đủ, pháp mới xuất hiện. Vì thế, ta có khái niệm NHÂN DUYÊN

Đã đủ nhân và duyên thì pháp chắc chắn thành hình. Pháp thành hình ấy gọi là QUẢ. Trường hợp này, tất cả duyên phụ và nhân chính đều gọi chung là NHÂN. Gọi chung là NHÂN vì do đối với QUẢ mà nói. Vì tất cả đều là thứ góp phần sinh ra QUẢ. Vì thế, ta có khái niệm NHÂN QUẢ. 3 thứ Nhân Quả, Nhân DuyênDuyên Khởi này tuy có 3 tên khác nhau nhưng vẫn có phần dung thông không khác. 

28 Đó là với những người đã đủ duyên. Những người mà duyên chưa đủ thì chưa chắc đã tin mà làm theo …

29 Thô là chỉ cho Nhân Duyên, Nhân Quả. Tế là chỉ cho chỗ “4 tướng đồng thời có, đều không tự dựng lập”. 4 tướng đây là chỉ cho 4 tướng sanh - trụ - dị – diệt của tâm. Của tâm mà cũng là của vạn pháp. Hội được chỗ Nhân Quả đồng thời này là hội được chỗ sanh ra thức tâm. Mới hay, vạn pháp chỉ là tướng của tâm, còn “Tâm chân thật chính là tánh của tất cả các pháp”. Muốn nắm được phần này thì nghiên cứu 9 tướng bất giác trong luận Đại Thừa Khởi Tín - Dịch và giải Chân Hiền Tâm. 

30 Như thấy nước trên sa mạc, không hiểu đó là ảo ảnh lại tranh tàn giết chóc để lấy bằng được nước đó.

31 Thế gian là có, là không, là không có không không, là vừa có vừa không. 

32 Với loại tập khí sâu dày, không đau khổ thấu xương thấu tủy không dễ gì bỏ được.

33 Không khác nhưng không phải một. Nhờ cái KHÔNG KHÁC này nên dù lực oai thần của Phật sẵn đó mà chỉ có bà mới nương vào đó giảng nói được, còn người khác thì không nương được.

34 Phương tiện là những thứ giúp trí vô sư hiển bày, không phải là thứ tạo ra trí vô sư ấy. Trí ấy sẵn đủ trong mọi chúng sanh, chỉ vì bị vô minh che lấp mà không sử dụng được nó. 

35 Không có bờ mé. 

36 Đây, nói về những người có chất lượng Đại thừa, không phải là người chỉ có danh xưng Đại thừa

37 Đây là nêu tạm phần thô để ta hình dung. Phần phiền não tương tục này còn phần tế. Dưới sẽ giải thích rõ. 

38 Luận Đại Thừa Khởi Tín - Dịch và giải Chân Hiền Tâm. 

39 Theo luận Đại Thừa Khởi Tín thì tâm bất tương ưng này phân thành 3. Do vô minh nghiệp tướng mà có cái thấy hư vọng và hiện cảnh giới hư vọng. Do vô minh mà có CĂN BẢN NGHIỆP BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM, tương đương với phần VÔ MINH TRỤ ĐỊA nói đây. Cái thấy hư vọng ấy gọi là NĂNG KIẾN BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM. Phần hiện cảnh giới hư vọng gọi là HIỆN SẮC BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM. Qua được 3 cái nhiễm ấy thì thành Phật. Cái định của A La HánBích Chi Phật đều là cảnh giới của phần Năng Kiến, tùy thô tế mà có A La Hán hay Bích Chi Phật. Chỉ có Phật mới phá được phần Căn Bản

40 Ngoài Phật, tất cả đều gọi là chúng sanh.

41 Gặp những duyên phù hợp với tập khí của mình, như người nghiện rượu gặp lại rượu, người có chủng tử âm nhạc trong tàng thức gặp lại âm nhạc.

42 Phần này, Bồ tát Long Thọ giải thích rõ trong luận Đại Trí Độ. 

43 Tâm do bất giác mà thành thức. Bởi thức này không có bờ mé, thâu gom tất cả, lại là thứ ẩn tàng khó thấy, nên gọi là thức tạng.

44 THỦ còn gọi là PHIỀN NÃO. Nên Thành Duy Thức Luận nói nghiệp hữu lậu làm nhân, phiền não làm duyên, sinh ra thân phần đoạn của chúng sanh. Thành Duy Thức Học phân cái THỦ này thành 4 loại. 

45 Theo kinh Lăng Già Tâm Ấn, phải đến địa vị thứ 3 trở đi mới có ý sanh thân.

46 Luận Thành Duy Thức

47 Luận Thành Duy Thức trang 128 – Bản dịch của HT Thiện Siêu.

48 Phần tu hành này đã giải thích rõ trong luận Đại Thừa Khởi Tín.

49 Muốn biết chi tiết xin xem luận Đại Trí Độ tập II, trang 165. Bản dịch của HT Thiện Siêu.

50 Muốn biết chi tiết về phần này, xin xem luận Đại Trí Độ tập II trang 120. Bản dịch của HT Thiện Siêu. 

51 Luận Đại Thừa Khởi Tín

52 Như một khi nhận ra vàng giả thì dù sử dụng nó thế nào, mình cũng không còn bị nó làm lầm để đến nỗi tan thân mất mạng.

53 Nói theo nhà thiền là kiến tánh hay chứng được nhất niệm vô sanh.

54 Âm Hán : Sanh dị phân biệt

55 Muốn rõ hơn về phần này thì nghiên cứu luận Đại Thừa Khởi Tín hoặc Duy Thức Học.

56 Kinh Đại Niết Bàn, phần Tứ Y.

57 Vốn, nghĩa là bản chất của nó không có sanh tử

58 Ngài Hiền Thủ nói “Nay Tịnh độ của Nhất thừa tuy chỉ có ở Phật mà chẳng xả thân nghiệp chúng sanh cùng các pháp. Tuy chẳng xả mà chẳng đồng phần hạn. Tuy chẳng đồng mà tức là đó. Giống như trong mộng mà thấy các vật thế gian, chỉ là giác tâm lượng. Tuy là giác tâm lượng mà không như mộng kế. Tuy chẳng như mộng kế mà chẳng bỏ các pháp được thấy trong mộng”. 

59 Muốn rõ phần này thì nghiên cứu luận Đại Thừa Khởi Tín

60 Không lìa đây muốn diễn tả tình trạng như nước và sóng. Do duyên gió mà nước biến thành sóng, tướng nước không phải là tướng sóng nhưng bản chất của sóng vẫn là nước. Không phải KHÔNG LÌA là tham sân si không bao giờ hết. Hết duyên gió thì sóng không còn. Hết duyên vô minh thì tham sân si không còn. Chỉ là một Như Lai Tạng thanh tịnh

61 “Thấu suốt về cái LÝ của mọi sự mọi vật” là muốn nói đến tính chi phối bao quát của nó mà gọi là LÝ, không hẳn là nói đến chỗ rốt ráo

62 Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ của thiền sư Hàm Thị. Bản dịch của TT Phước Hảo. Phần thức ấm thuộc Ngũ ấm ma

63 Đây là nói đến sự trực nghiệm của tâm, không phải là niềm tin hay ngộ theo kiểu trong đầu bực ra các kiến giải.

64 Dịch thuận theo văn là “Mà tướng ngã nhân chẳng thể đến được, còn có sở liễu”.

65如來藏者。身見有情。顛倒有情。空見有情。非所行境 

66 Kinh Niết Bàn nói Phật tánh thường, là do đối trị cái chấp vô thường của hàng Thanh văn. Vì có chấp mới lập kinh ra để phá cái chấp ấy. 

67 Với người thường thì khó cảm nhận chỗ này. Nhưng ai từng hàng phục vọng tâm sẽ thấy rất rõ. Như người từng miên mật với pháp Biết Vọng của Hòa thượng Thanh Từ chẳng hạn. Sẽ thấy rõ cái đi và đến không vướng bận như mây trên hư không, như bụi lấm tấm trong hư không này.

68 Trích trong Bạch Ẩn Thiền Định Ca. 說空性義隱覆真實


KINH THẮNG MAN PHU NHÂN HỘI
Chân Hiền Tâm dịch & giải
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
Nhà số 4 – lô 1 – Trần Duy Hưng – Hà Nội
ĐT : 04-5566701 – Fax : (04).5566702
Chịu trách nhiệm xuất bản
NGUYỄN THANH XUÂN
Biên tập : Đỗ Thị Quỳnh
 Trình bày : Thủy Tiên
Bìa : 
Đối tác liên kết : Thủy Tiên ĐT : 8443138
In 1000 bản, khổ 14,5cmx20,5cm tại Xí nghiệp In Số 5, Q.5, Tp.HCM. Số xuất bản 145-2005/CXB/02-94/T6. In xong và nộp lưu chiểu quí I năm 2006. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14765)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11830)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12766)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10348)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12069)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15298)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11087)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10540)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12476)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16428)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14314)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11790)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14809)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12031)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16858)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11589)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12738)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11347)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12061)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52132)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15471)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13969)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11443)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13185)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12789)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13224)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17916)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12454)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12656)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54212)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14431)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57978)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14505)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20144)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13792)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15405)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17496)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11935)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13490)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14672)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12493)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12157)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12065)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13291)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12543)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13660)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13322)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25601)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12180)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14560)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11864)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42074)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28348)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38809)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14724)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12699)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16241)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant