Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2: Sám Hối Tội Nghiệp

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 12301)
Chương 2: Sám Hối Tội Nghiệp

Chương 2
Sám Hối Tội Nghiệp

1. 

Mong gìn giữ tâm tối tôn
Con xin dâng cúng Thế tôn vô lường
Pháp ngài vô cấu thanh lương
Thánh tăng công đức sánh dường biển khơi .

2. 

Bao nhiêu thứ hoa tươi quả quý ,
Và đủ mùi mỹ vị cao lương .
Bao nhiêu kho báu trần gian ,
Nước trong suối mát giải cơn khát lòng .

3. 

Nguy nga núi ngọc chất chồng ,
Vườn thiên khả ái rừng tòng yên vui .
Hoa tươi trái báu cây trời ,
Thướt tha buông rủ khắp nơi rừng này .

4. 

Những hương lạ cõi trời thơm ngát ,
Hương bột cùng Cây ước trang nghiêm .
Mùa màng tươi tốt tự nhiên ,
Mọi đồ trang sức đáng nên cúng dường .

5. 

Hồ ao đầy dẫy sen thơm ,
Tiếng thiên nga hót dịu êm tai người .
Bao nhiêu cảnh sắc nơi nơi ,
Nước non vô chủ cuối trời chân mây .

6. 

Bằng tâm tưởng con nay tạo tác ,
Hiến dâng ngài - chư Phật Thế Tôn .
Cùng chư Bồ tát mười phương ,
Xin thương nhận của cúng dường con đây .

7. 

Con nghèo phước đức trắng tay ,
Chẳng còn chi khác dâng ngài cho đương .
Cúi xin Từ phụ xót thương ,
Cho con được chút cúng dường này thôi .

8. 

Nguyện đem thân tâm này tất cả ,
Dâng Phật và Bồ tát ngôi cao .
Đức từ thương xót nhận thâu ,
Con xin làm kẻ tớ hầu chư tôn .

9. 

Chở che nhờ đức chư tôn ,
Lợi sanh thẳng tiến con còn lo chi .
Thân tâm ác nghiệp viễn ly ,
Nguyện muôn đời kiếp xa lìa tội khiên . 

10. 

Đây nhà tắm trang nghiêm thơm ngát ,
Ngọc lưu ly đá lát nền gương .
Lung linh thạch trụ sáng choang ,
Trên cao buông rủ bảo tràng lọng châu .

11.

 Đây bao bình đẹp báu mầu ,
Nước thơm sung mãn như bầu rượu tiên .
Nhạc âm thánh thót êm đềm ,
Xin chư tôn ngự bước lên tẩy trần .

12. 

Đây khăn sạch ướp xông hương quý ,
Trên thế gian không thứ so bì .
Xin lau ngọc thể chư vì ,
Dâng lên những tấm thượng y đẹp màu .

13. 

Trăm ngàn y phục nhuyến nhu ,
Cùng đồ trang sức nhiệm mầu tuyệt luân .
Trang nghiêm Bồ tát pháp thân ,
Văn thù , Biến cát , Quan âm các ngài .

14. 

Đây hương bột vượt ngoài tam thế ,
Con dùng thoa thân thể Như lai .
Kim thân vi diệu các ngài ,
Như vàng khéo luyện sáng ngời pháp thân

15. 

Mâu ni ruộng phước nào bằng ,
Con xin dâng cúng hoa thơm đủ màu .
Huệ, lài, sen đẹp xinh sao ,
Tràng hoa đeo cổ con đều hiến dâng .

16. 

Và mây hương ngút tầng thiên giới ,
Mùi hương thơm ngát cõi người ta .
Thức ăn vi diệu thiên hà ,
Con xin dâng cúng pháp tòa Như lai .

17. 

Những đèn trân báu con dâng ,
Ngự trên những đóa sen bằng vàng nguyên .
Đất thơm đầy rải khắp nền ,
Hoa tươi đẹp ý dâng lên các ngài .

18. 

Chúa tể đại bi Ngài xứng hiệu ,
Đây lầu cao muôn điệu ca ngâm .
Với bao báu vật rủ giăng ,
Đầy hư không giới , con dâng lên ngài .

19. 

Con xin cúng Phật Như lai ,
Lọng che dát ngọc cán tay bằng vàng .
Viền quanh đủ thứ điểm trang ,
Rất nên mỹ lệ mắt nhìn khó lơ .

20. 

Thêm những thứ rất là tao nhã ,
Đồ cúng kèm nhã nhạc điểm tô .
Như mây tan hết buồn đau ,
Nguyện cho cảnh ấy bao lâu vẫn còn .

21. 

Xin cho mưa báu tràn tuôn ,
Rưới hoa châu ngọc cúng dường Như lai .
Rưới trên bảo tháp, tượng đài ,
Trên hàng con Phật, mưa này xối chan .

22. 

Như xưa Diệu cát tường bồ tát ,
Đã cúng dâng chư Phật cách nào .
Con nay cách ấy học theo ,
Cúng dường Thiện thệ cùng bao con ngài .

23. 

Biển công đức đấng Như lai ,
Hải triều thanh vận mãi hoài ngân nga .
Xin cho vô tận âm ba ,
Hãy vang lên để ngợi ca đức Ngài . 

24. 

Con sẽ hóa thân này muôn ức ,
Như vi trần, lễ đức Như lai .
Thế tôn trong cả ba đời ,
Con đều kính lễ đồng thời Pháp , Tăng . 

25. 

Lễ ngôi xá lợi thiêng liêng ,
Lạy nguồn gốc của tâm thiên bồ đề .
Chư tăng giới hạnh kiên trì ,
Cùng hàng thánh chúng trú trì xà lê .

26. 

Từ hôm nay đến kỳ chánh giác ,
Con nguyền quay về Phật náu nương .
Xin nương Pháp bảo tối tôn ,
Nương chư Bồ tát thánh tăng cứu đời .

27.

Trước mười phương Phật Như lai ,
chư thánh chúng sẵn bồ đề tâm .
Cùng tâm bi mẫn vô ngần ,
Con xin bộc bạch những vần tâm can .

28.

 Từ vô thủy lan man lưu chuyển ,
Trong đời này hoặc những kiếp qua .
Con hằng tạo tội hà sa ,
Tự làm hoặc khuyến người ta chung làm .

29. 

Vui theo những kẻ ác nhân ,
Do tâm mê muội khôn phân chính tà .
Bây giờ khi đã tỉnh ra ,
Con xin sám hối thiết tha nguyện chừa .

30. 

Phiền não động thân và lời ý ,
Khiến xui con não hại người trên .
Ba ngôi, sư trưởng, song thân ,
Cùng là những kẻ láng giềng gần xa .

31. 

Bao nhiêu tội nghiệt hằng sa ,
Xưa nay đã tạo khó mà thứ dung .
Chắp tay quỳ trước chư tôn ,
Con xin sám hối thề không giấu gì .

32. 

Tội lỗi có khi chưa sám hết ,
Mà thân con đã chết mất tiêu .
Làm sao qua khỏi hiểm nghèo ,
Xin thương cứu độ con mau thoát nàn .

33. 

Tử thần không thể cậy tin ,
Không chờ ai hết tội khiên ai còn .
Chẳng cần có bệnh hay không ,
Cướp ngang thọ mạng bốc đồng thế thôi .

34. 

Bỏ tất cả chết rồi đi biệt ,
Bởi ngu si không biết nghĩ xa .
thân thích lẫn oan gia ,
Xưa kia con đã tạo ra tội nhiều . 

35. 

Đời qua như giấc chiêm bao ,
Chuyện đời thôi cũng như trào nước dâng .
Chỉ còn niệm tưởng trong tâm ,
Việc đi đi mãi không từng tái lai .

36. 

Thù địch cũng phôi phai như khói ,
Người chí thân không khỏi ra tro .
Thân ta rồi cũng hư vô ,
Thế gian đồng một tấn trò huyễn hư .

37. 

Đời này kể thật phù du ,
Kẻ thân cùng với oán thù chết luôn .
Nhưng bao tội lỗi đa mang ,
Do tâm yêu ghét rõ ràng còn đây .

38. 

Không nhận thức mạng này mau chóng ,
Có rồi không như bóng câu qua .
Nên con tạo đủ nghiệp tà ,
Tham sân xúi giục theo đà ngu si .

39. 

Ngày đêm cứ vậy trôi đi ,
Đời con cứ vậy từng giây hao mòn .
Thời gian đâu chảy ngược dòng ,
Làm sao không đến tử vong thân này ? .

40. 

Nghĩ đến lúc mạng này sắp hết ,
Dù vây quanh chi xiết thân bằng .
Nhưng bao thống khổ thê lương ,
Riêng mình phải chịu dễ dường ai hay ? .

41. 

Tử thần khi đã kề vai ,
Người thân, bằng hữu, đâu ai ích gì ? .
Chỉ còn phước để cứu nguy ,
Mà con quả thực chưa hề tu qua .

42. 

Hỡi các đấng chở che cứu vớt ,
Con đâu ngờ đến nước nôi này .
Cuộc đời ngắn ngủi lắm thay ,
Mà con vì nó chất đầy tội khiên .

43. 

Xem người tội trước phán quan ,
Nơi y còn nỗi kinh hoàng nào hơn .
Miệng khô , sắc mặt héo hon ,
Hình hài tiều tụy khác hơn mọi ngày .

44. 

Nói chi xiết trăm bề hãi sợ ,
Nơi tôi khi quỷ sứ bắt hồn .
Phút giây thần thức lìa thân ,
Rối ren lắm nỗi bội phần hoang mang . 

45. 

Có ai làm chỗ tựa nương ,
Cho tôi trong nỗi kinh hoàng này không ? .
Mắt nhìn dáo dác mông lung ,
Tôi tìm chỗ trú bốn phương cõi bờ .

46. 

Không thấy giữa bao la vũ trụ ,
Một nơi nào ẩn trú an thân .
Lòng thêm hãi sợ muôn phần ,
Bây giờ còn biết xoay vần sao đây ? .

47. 

Phật thương phò hộ chở che ,
Cứu sinh linh đức từ bi khôn lường .
Ban cho vô úy tâm an ,
Con quay về để tựa nương Phật ngài .

48. 

Lại quy y Pháp ngài chứng ngộ ,
Có thể trừ kinh bố tử sinh .
Quy y thánh chúng chư tăng ,
Chư Bồ tát ấy vì năng cứu người .

49. 

Trong cơn hoảng sợ tơi bời ,
Con xin đem tánh mạng này hiến dâng .
Phổ hiền bồ tát chí tôn ,
Văn thù bồ tát , xin dâng lên ngài .

50. 

Con cất tiếng bi ai thống thiết ,
Kêu cứu lên bồ tát Quan âm .
Đại bi thề nguyện rất thâm ,
Xin thương xót kẻ mê lầm là con .

51. 

Hỡi ngài kho chứa hư không ,
Hư không tạng, và ông Địa tàng . 
Cùng chư Bồ tát mười phương ,
Sẵn tâm bi mẫn, dũ lòng chở che .

52. 

Quy y Kim cương trì bồ tát ,
Đấng đủ đầy uy lực vô song .
Mà khi sứ giả Diêm vương ,
Thấy là khiếp vía tứ phương chạy dài .

53. 

Từ lâu con đã trái sai ,
Không tuân thánh giáo các ngài dạy răn .
Trước cơn lo sợ kinh hoàng ,
Xin nương bóng cả xua tan hãi hùng .

54. 

Khi trái gió trở trời thân bệnh ,
Còn phải theo lời dặn lương y .
Huống hồ chứng bệnh mê si ,
Từ bao đời kiếp bủa vi tâm này . 

55. 

Chỉ căn ác bệnh này thôi ,
Đủ tàn phá cả muôn người thế gian .
Không tìm đâu thấy thuốc thang ,
Chữa sân si bệnh cho an tâm người .

56. 

Đấng Vô thượng y vương toàn trí ,
Sẵn thuốc hay đặc trị khổ đau .
Biết mà không dụng thuốc mầu ,
Rất nên thống trách còn ngu nào bằng .

57. 

Gặp nguy hiểm nhỏ trên đường ,
Còn nên tránh né đề phòng bước chân .
Mê si hiểm gấp nghìn lần ,
Một phen đọa xuống khó hòng ngoi lên .

58. 

Đừng nghĩ chết hôm nay chưa đến ,
Cứ an nhiên lơ chuyện tu trì .
Nhưng đời ta mãi trôi đi ,
Cuối cùng tất phải đến kỳ mệnh chung .

59. 

Ai cho ta tấm bình an ,
Làm sao thoát khỏi muôn vàn sợ run .
Chết là chắc đến bên hông ,
Thì sao có thể yên tâm hưởng nhàn .

60.

Còn gì chăng những kinh nghiệm cũ ,
Hay chỉ còn ký ức trong ta .
Vì ôm chấp cái thây ma ,
Ta quên giáo huấn thầy đà bảo ban .

61. 

Chết là đi giữa cô đơn ,
Giã từ quyến thuộc, bỏ luôn xác này .
Độc hành phiêu giạt như mây ,
Sao còn bạn với thù ai ích gì .

62. 

Tạo điều ác phát sinh đau khổ ,
Làm sao ta thoát khỏi khổ nhân .
Tư duy như vậy chuyên cần ,
Ngày đêm không nghỉ thoát vòng tội khiên .

63. 

Bao nhiêu tội lỗi gây nên ,
Thuộc về bốn trọng sát sinh dâm tà .
Tội do vô ý gây ra ,
Không hành Phật giới xấu xa đủ điều .

64. 

Trước khổ báo kèm theo ác nghiệp ,
Con vô cùng khủng khiếp ăn năn .
Khấu đầu kính lạy chư tôn ,
Con xin sám hối muôn vàn tội xưa . 

65. 

Xin ngài lân mẫn thứ tha ,
Bao nhiêu tội lỗi thật là đảo điên .
Những gì không phải thiện hiền ,
Từ nay vĩnh viễn con nguyền xả ly.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11640)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11119)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11353)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12565)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10770)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17989)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11730)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9953)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10172)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12353)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15347)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11247)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12109)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12006)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11187)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12558)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12694)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16581)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19673)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12271)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11864)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13530)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11959)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11848)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11642)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12770)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14524)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12617)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12902)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18020)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11169)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13055)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10315)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15319)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12221)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11488)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14275)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19708)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14157)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24613)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10694)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant