Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 4: Không Buông Lung

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 13905)
Chương 4: Không Buông Lung

Chương 4
Không Buông Lung

1. 

Đã phát tâm bồ đề kiên cố ,
Bồ tát nên nỗ lực cần tu .
Siêng năng mỏi nhọc không từ ,
Luật nghi thề c
hẳng bao giờ trái sai .

2-3. 

Việc nào do thiếu nghĩ suy ,
Hứa rồi có thể bỏ đi cũng đành .
Làm sao xả giới cao minh ,
Phật đà thấy rõ , chính mình cũng tin .

4-5. 

Bội thề lợi lạc chúng sinh ,
Dối lừa quả báo sẽ dành mai sau
Vật hèn đã hứa không trao ,
Còn sa quỷ đói , thể theo Kinh thường .

6-7. 

Huống mời chúng hưởng vui tối thượng ,
Dối gạt nhau cõi thiện nào lên .
Xả tâm mà vẫn chứng nên ,
Là điều khó hiểu, chỉ riêng Phật rành .

8-9. 

Xả bồ đề tội chẳng khinh ,
Làm cho tất cả chúng sinh mất nhờ . 
Nếu ai dù chỉ sát na
Ngại ngăn bồ tát , quả kia khôn lường .

10-11. 

Làm bất an một người đủ khốn ,
Huống muôn người cùng tận hư không
Thọ rồi xả giới như không ,
Thì quanh quẩn mãi trong vòng trầm luân .

12-13. 

Phải nên theo giới tu lần ,
Nếu không nỗ lực chắc đành đọa sa . 
Độ sanh nhiều Phật đã qua ,
Do ta chướng nặng , hóa ra vô phần .

14. 

Nay nếu chẳng tu tâm sửa tính ,
Sẽ sa vào những cảnh khổ đau .
Bệnh nhiều , trăn trói , xẻ cưa ,
Và bao tai họa đón chờ ác nhân .

15. 

Khó thay Phật xuất thế gian ,
Làm người tin Phật, tu hành đủ duyên .
Những điều không hẹn mà nên ,
Biết sau có được như trên vẹn toàn .

16. 

Nay ta được ổn an vô bệnh , 
Không não phiền , hạnh phúc lắm thay .
Mạng căn suy giảm từng giây ,
Hình hài như bọt tan ngay mấy hồi .

17-18. 

Nếu ta vẫn cứ buông trôi ,
Đọa sa ác đạo khó thời ăn năn
Đủ duyên làm thiện không hăng ,
Đến khi khổ bức còn toan nỗi gì .

19. 

Khi ấy đã không sao hành thiện ,
Lại tích nhiều bất thiện càng tăng .
Trải qua vô tận thời gian ,
Đến tên của sự tốt lành chẳng nghe .

20. 

Thân người khó được lắm thay ,
Phật từng ví dụ duyên may rùa mù .
Lênh đênh trên biển Thần phù ,
Ván kia hồ dễ cùng rùa gặp nhau.

21-22. 

Phạm tội nặng sát na cũng đọa ,
Huống gì qua vô thỉ luân hồi .
Ở trong ác thú không thôi ,
Khó bề giải thoát còn khơi tội nhiều .

23-24. 

Ở trong nhàn cảnh không tu ,
Tự coi thường thế còn ngu nào bằng . 
Biết mà vẫn cứ trôi lăn ,
Thì khi sắp chết trăm phần khổ ưu .

25-26. 

Lửa địa ngục thiêu thân khó nhẫn ,
Lửa ăn năn càng ngấm tâm can .
Được thân người thực khó khăn ,
Lại thêm có trí biện phân dữ lành .

27. 

Mà nay vẫn đọa hỏa khanh ,
Khác nào như thể tâm mình hôn mê .
Chẳng hay mắc phải bùa chi ,
Mà sinh lú lẫn, lương tri không còn .

28-29. 

Kẻ thù ta tham sân vô dạng ,
Không chân tay cũng chẳng thông minh .
Hại ta điêu đứng mặc tình ,
Khuất thân chịu nhục, hổ mình lắm thay .

30. 

chư thiên chúng , tu la ,
Cùng nhau hợp sức bắt ta đọa đày .
Vào trong hỏa ngục a tỳ ,
Cũng không thể được, nói gì tha nhân .

31. 

Nhưng phiền não công năng ghê thực ,
Ném ta vào lửa ngục như chơi .
Dù cho cả núi Tu di ,
Cũng ra tro bụi chẳng chi sót chừa .

32. 

Thế gian tất cả kẻ thù ,
Không như phiền não kẻ thù trong tâm .
Dằng dai vô thủy vô chung ,
Hại ta đến mức khốn cùng mới thôi .

33-34. 

Thuận kẻ địch ở đời còn lợi ,
Theo não phiền chỉ hại mà thôi .
Làm sao sống được an vui ,
Giặc thù phiền não không lui , cứ lì .

35. 

Khi còn phiền não sân si ,
Những tên ngục tốt bảo trì tử sinh .
Đồ đao hành hạ tâm linh ,
Làm sao có được an bình trong tâm .

36. 

Kẻ cừu địch tham sân chưa dứt ,
Thì sao đành bỏ mất công phu .
Thế nhân hăm hở diệt thù ,
Còn quên ăn ngủ khi thù chưa tan .

37. 

Dù thân trúng phải tên đao ,
Chưa phân thắng bại ai nào thối lui .
Mặc dù những địch thù kia ,
Trước sau cũng chết theo lề tự nhiên .

38-39. 

Nay ta muốn dẹp yên phiền não ,
Dù trăm nguy ngàn khó không sờn .
Thương binh còn thấy vẻ vang ,
Nên vì đạo cả xem thường khổ đau .

40. 

Kẻ chài , đồ tể , nông phu ,
Vì cơm áo chịu gian nguy cực hình .
Ta vì an lạc quần sinh ,
Sao không nhẫn nại trăm nghìn chướng duyên .

41-42. 

Đã nguyền độ vô biên phiền não ,
bản tâm rốt ráo chưa yên .
Sao không khéo lượng sức mình ,
Từ nay ta quyết đinh ninh diệt thù .

43. 

Nâng niu kiếm báu trừ ma ,
Sân si thề diệt như là cừu nhân .
Ngộ, mê năng lực tương đương ,
Mới mong đoạn dứt thâm căn não phiền . 

44-45. 

Thà chịu khổ bị thiêu bị chặt ,
Thề quyết không khuất giặc si mê .
Giặc thường kéo đến rút đi ,
Giặc phiền não ấy một đi không về .

46. 

Tuệ quang chiếu phá si mê ,
Trục ra khỏi khối tâm kia một lần .
Còn đâu tông tích tham sân ,
Chớ nên nhu nhược không cần gắng tu .

47. 

Phiền não không ngoài , trong , giữa ,
Không ở đâu , xuất xứ huyễn hư .
Hãy vì tuệ giác tiến tu ,
Sao ta luống chịu ngục tù khổ đau .

48. 

Tư duy lẽ ấy cho sâu ,
Luật nghi Phật chế nên mau tuân hành .
Y vương lời dặn đinh ninh ,
Không theo toa thuốc sao lành bệnh đây.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12493)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10364)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12332)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11639)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28801)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12047)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13002)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11440)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12370)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17436)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53022)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35481)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21387)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10676)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19233)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12403)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26034)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13311)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14375)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16071)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13726)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16827)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17569)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13114)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12517)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11606)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11599)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14500)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20460)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18985)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19555)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18644)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12179)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12295)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13853)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15018)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15034)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13987)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15508)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11391)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17185)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14971)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20188)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14609)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13836)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11703)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15053)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12994)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22867)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11646)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13164)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16882)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18337)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11936)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11493)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15844)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12868)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18903)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18416)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant