Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 6: Nhẫn Nhục

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11910)
Chương 6: Nhẫn Nhục

Chương Sáu
Nhẫn Nhục

1-2.

Thiện hành tích lũy ngàn năm ,
Một giây nóng giận tiêu tan tức thì .
Ác nào sánh kịp sân si .
Hạnh tu nhẫn nhục không gì quý hơn .

3. 

Hận thù nếu cứ ôm giữ mãi ,
Chẳng bao giờ tìm thấy an vui .
Còn đâu hạnh phúc thảnh thơi ,
Bỏ ăn mất ngủ, trọn đời bất an .

4. 

Một người gia chủ nổi sân ,
Có khi bị giết bởi chân tay mình .
Những người ông đã tận tình ,
Giúp cho tài sản an bình bấy lâu .

5. 

Vì nóng giận, bạn bầu thân quyến ,
Đều bỏ ta, chẳng luyến lưu chi ,
Dù ta bố thí tràn trề ,
Tâm sân hận mãi khổ vì cô đơn .

6. 

Kẻ thù giận dữ tạo nên ,
Bao nhiêu đau khổ triền miên đọa đày ,
An vui hiện tại tương lai ,
Đều là quả phúc cho người không sân .

7. 

Được nuôi dưỡng bằng tâm bất mãn ,
Ái biệt ly, ghét chán gặp hoài .
Hận thù cứ thế dằng dai ,
Cuối cùng hủy diệt con người nơi ta .

8-9. 

Hãy nên trừ khử thức ăn ,
Duy trì lớn mạnh hận sân nơi lòng .
Gặp gì cũng cứ như không ,
Giận thì tổn đức điều mong chẳng thành .

10. 

Tại sao phải tự hành tự phạt ,
Với việc còn biện pháp cứu nguy .
Nếu không còn có cách chi ,
Thì đau khổ liệu ích gì cho ai .

11. 

Với bản thân và người bằng hữu ,
Ta cầu mong cho khỏi khổ đau .
Khỏi lời lăng nhục, ác thô ,
Nhưng còn với kẻ oán thù không đâu .

12. 

Đời vui hiếm, lắm sầu đau ,
Nếu không có khổ, ai nào xuất ly .
Tâm ơi dũng cảm lên đi ,
Dù bao đau khổ sá chi lẽ thường .

13. 

Kẻ ngoại giáo theo đường khổ hạnh ,
Chuốc vào thân những cảnh đớn đau .
Nay ta muốn đắc đạo mầu .
Sao không can đảm chịu bao oan tình .

14-15. 

Đói lòng, nóng lạnh, bọ sâu ,
Kẻ quen chịu đựng có đâu than phiền .
Nhờ quen những hại nhỏ nhen ,
Ta dần nhẫn được rối ren khổ nàn .

16. 

Những nỗi khổ trói giam đánh đập ,
Thời tiết hay bệnh tật gây nên .
Đừng nên vì chúng não phiền .
Chỉ càng thêm khổ cho mình ta thôi .

17-18. 

Trước cùng một cảnh máu me ,
Kẻ thì ngất xỉu người thì tiến lên .
Đều do tập quán mà nên ,
Vậy ta hãy tập xem khinh khổ sầu .

19-20. 

Bậc trí dù trải bao gian khó ,
Vẫn giữ tâm ổn cố bình an .
Như người chiến sĩ vinh quang ,
Bị thương vẫn tiến khi chưa tan thù .

21. 

Nhờ đau khổ, hết kiêu căng ,
Chán xa sinh tử, xót thương hữu tình .
Ăn năn tội ác, vui lành ,
Đây bao thiện đức do từng khổ đau .

22. 

Trên đời có biết bao thống khổ ,
Bệnh tật và mưa gió gây nên .
Khổ nào cũng bởi duyên sinh ,
Sao ta chỉ giận hữu tình mà thôi .

23-24. 

Ốm đau cùng những sân si ,
Dù không ai muốn vẫn thì khởi lên .
Cơn sân không tự biết mình ,
Kẻ sân không tính ta nên nổi sùng .

25-26. 

Tội áclỗi lầm đủ thứ ,
Không bỗng dưng vô cớ phát sinh .
Nhân duyên tụ hội mà thành ,
Các duyên cùng quả đã đành vô tâm .

27-31. 

Việc gì cũng bởi duyên sinh ,
Hiểu ra lẽ ấy không nên oán hờn .
Những gì sinh diệt hợp tan ,
Chỉ như huyễn hóa bóng vang thôi mà .

32. 

“ Nếu mọi sự đã là không thực ,
Ai là người chế phục cái chi .
Sao còn nói diệt sân si ” ,
Đời này thật có khổ vì nổi sân .

33. 

Khi ai vô cớ hại mình ,
Hãy nên xem đấy duyên sinh, vô thường .
Duyên kia có hợp có tan ,
Ta nên hoan hỉ dễ dàng bỏ qua .

34. 

Nếu đau khổ do ta tự chọn ,
Thì không ai lựa chọn khổ đau .
Lẽ ra không kẻ khổ sầu ,
Vậy nên tất cả quy vào duyên sinh .

35. 

Có người sơ ý bị thương ,
Vì gai nhọn hoặc dao gươm đâm mình .
Có người ham muốn dục tình ,
Đâm ra sầu khổ hại mình bỏ ăn .

36-37. 

Có người tự ải, tự trầm ,
Tự ăn độc dược do tâm khổ sầu .
Tự mình còn hại mình thay ,
Làm sao không tác hại dây đến người .

38. 

Dù không thể xót thương những kẻ ,
sân si đã giết hại ta .
Đừng nên giận họ ít ra ,
Bởi vì tất cả chỉ là duyên sinh .

39. 

Nếu là một kẻ ngu si ,
Thói ưa tác hại chỉ vì ác tâm .
Nổi sân với họ cũng lầm ,
Như sân ngọn lửa đã làm cháy ta .

40. 

Nếu sự hại phát sinh ngẫu hứng ,
Nơi một người tính vốn hiền lương .
Nổi sân vì họ cũng dường ,
Giận hư không để khói vương bụi mù .

41. 

Khi ta bị đánh bằng cây ,
Ta thường oán ghét con người đánh ta .
Kẻ kia cũng bị sử sai ,
Bởi cơn giận dữ vậy ai đáng thù .

42. 

Có lẽ xưa ta từng tác hại ,
Nên ngày nay đáng phải tổn thương .
Tư duy như vậy nguồn cơn ,
Không còn sân hận đau buồn làm chi .

43. 

Từ hai phía có đau này ,
Bên kia là gậy bên này là thân .
Kẻ mang gậy người mang thân ,
Vậy ta nên phải giận sân kẻ nào .

44. 

Tấm thân thương tích dạng người ,
Chút chi động đến cũng thời đớn đau .
Chính vì ngã ái mê ngu ,
Ta ôm giữ nó vậy giờ trách ai .

45. 

Kẻ ngu không muốn khổ đau ,
Mà sao cứ tạo nhân sầu khổ luôn .
Rồi khi hại đến bản thân ,
Do mình tự tác sao sân hận người .

46. 

Ví như quỷ sứ canh giữ ngục ,
Cùng núi đao rừng kiếm hỏa xa .
Đều do tự nghiệp mà ra ,
Gieo nhân gặt quả, đừng ta thán người .

47-48. 

Kẻ hung ác vì hại ta ,
Mà sa địa ngục chịu bao khổ nàn .
Còn ta nhờ nhẫn không sân ,
Tiêu trừ ác nghiệp phước tăng vô vàn .

49. 

Rốt cuộc ta mới là người hại ,
Kẻ ác nhân có lợi cho ta .
Sao còn sân hận người ta ,
Hỡi tâm thô bạo hồ đồ kia ơi .

50. 

Công phu Nhẫn nhục giúp ta ,
Khỏi sa địa ngục, phần ta đã đành .
Nhưng còn kẻ xấu hại mình ,
Số phần nào sẽ để dành cho y .

51. 

Nếu ta tác hại người gây hấn ,
Tội của y cũng vẫn không tan .
Mà ta lại mất bình an ,
Hạnh tu nhẫn nhục khó làm phải tiêu .

52. 

 Tâm ta đâu có dạng hình ,
Chẳng ai có thể tổn thương tâm này .
Nếu tâm chấp trước thân đây ,
Liền sinh đủ thứ ách tai khốn nàn .

53. 

Những lời thô ác khó nghe ,
Chẳng can hệ đến thịt da thân này .
Hỡi tâm ngu xuẩn kia ơi ,
Vì sao nó lại khiến ngươi khổ sầu .

54. 

Nếu ngươi bảo vì câu nói ấy ,
Làm người ta hết thấy ưa tôi. .
Nhưng dù ai ghét, thương ngươi ,
Có ai thay đổi nghiệp ngươi đâu mà .

55. 

Nếu vì thế mà ngươi mất lợi ,
Hãy nhớ như mây nổi, chiêm bao .
Chết không mang được gì theo ,
Ngoài ra ác nghiệp vẫn đeo bên mình .

56-58.

 Làm điều ác để nuôi thân ,
Cuối cùng cũng chết, sao bằng chết non .
Chiêm bao vui sướng trăm năm ,
Với trong khoảnh khắc tỉnh đồng hư vô .

59. 

Dù kẻ có rất nhiều tài sản ,
Hưởng thú vui sống trọn tuổi trời .
Nhưng khi chết vẫn đơn côi ,
Khác nào bị cướp , nước trôi , cháy nhà .

60. 

Nếu bảo nhờ tiền tài mới sống ,
Mới làm lành lánh dữ tu thân .
Nhưng ngươi vì lợi nổi sân ,
Phước bèn mất hết còn tăng tội nhiều .

61. 

Nếu vì sự sống nhu cầu ,
Chuyên làm ác nghiệp để sau đọa đày .
Một đời sống thật xấu xa ,
Thì đâu có lợi cho ta hay người .

62. 

Nếu sân hận “ Vì lời phỉ báng ,
Khiến người không tin tưởng nơi tôi ” .
Vậy sao không giận một người ,
Khi y cũng phỉ báng người khác kia . 

63. 

Người kia bị mất lòng tin ,
Không can hệ đến tôi nên chẳng phiền .
Lời thô ác bởi đảo điên ,
Sao không nhẫn được lại sinh oán hờn . 

64. 

Nếu nổi sân vì người phá tháp ,
Phá hại chùa , tượng , Pháp cao siêu .
Thật là vô lối xiết bao .
Vì chư Thiện thệ tơ hào chẳng suy .

65. 

Với ai làm hại bạn, thầy ,
Thân bằng quyến thuộc ta hay bậc hiền .
Hãy xem tất cả do duyên ,
Chẳng nên sân hận chuốc thêm đau lòng .

66. 

Thế gian đủ thứ hại mình ,
Do vô tình hoặc hữu tình gây nên .
Sao ta chỉ giận hữu tình ,
Hãy nên nhẫn chịu, chớ sinh oán cừu . 

67-68. 

Kẻ do ngu sitác hại ,
Người do ngu chấp ngã nổi lên .
Đều do oan nghiệt gây nên ,
Vậy ai có lỗi ai không trong này .

69. 

Khi đà thấy biết vậy rồi ,
Hãy nên nỗ lực tiến tu hạnh lành .
Đãi nhau bằng tấm chân tình ,
Từ tâm giải thoát, chớ hành khổ nhau .

70. 

Ví như khi mái nhà bốc lửa ,
Hãy mau tìm cách chữa cháy lan .
Như là rút bớt cỏ tranh ,
Hoặc là những thứ dễ thành mồi ngon .

71. 

Những gì do bởi tâm tham ,
Làm cho lửa giận lan tràn đến nơi .
Đốt kho công đức tơi bời ,
Chóng nên trừ khử kịp thời tâm kia .

72. 

Như kẻ bị trói tay chờ chết ,
Chịu đứt tay để được thoát nguy. .
Ta nhờ các khổ lúc tu ,
Mà may thoát khỏi ngục tù Diêm vương .

73. 

Nếu hiện tại ta không chịu được ,
Những khổ đau nhỏ nhặt hàng ngày .
Sao không sợ thói sân si ,
Cái nhân địa ngục A tỳ gớm ghê .

74. 

tham dục chẳng chán chê ,
Mà ta luống chịu trăm bề khổ đau .
Nhưng chưa được lợi ích nào ,
Cho bản thân hoặc cho bao nhiêu người .

75. 

Cái khổ này thực không đáng kể ,
Nhưng viên thành lợi ích vô biên .
Là trừ khổ hại chúng sinh ,
Vậy khi nhẫn chịu còn nên vui mừng .

76. 

Có người rất đỗi sướng vui ,
Ngợi ca công đức kẻ ngươi đang thù .
Vậy này tâm ý ta ơi ,
Hãy cùng ca ngợi cho vơi khổ sầu .

77. 

Sự tùy hỷ phát sinh như thế ,
Là suối nguồn an lạc thanh cao .
Được chư Phật cùng khen lao ,
Cách hay thu phục biết bao nhiêu người .

78. 

Nếu ngươi bảo “ Nó được khen ,
Nhưng tôi không muốn nó nên anh hào ” . ,
Vậy thì chớ trả thù lao ,
Rồi ngươi sẽ chuốc xiết bao não phiền . 

79. 

Ngươi khoái chí chúc lành kẻ khác ,
Khi họ khen công đức của ngươi .
Nhưng sao ngươi lại không vui ,
Khi nghe khen ngợi kẻ ngươi oán thù .

80. 

 Phát tâm vô thượng bồ đề ,
Là mong tất cả mọi người an vui .
Vậy nay chúng được thảnh thơi ,
Sao ngươi trở lại giận sôi trong lòng .

81. 

Lúc đầu ngươi phát tâm mong ước ,
Cho hữu tình được phước lớn lao .
Cớ sao nay lại khổ sầu ,
Thấy người hưởng chút tơ hào lợi danh .

82. 

Chúng sinh vốn cha mẹ mình ,
Đáng ngươi cấp dưỡng tận tình lo toan .
Họ nay tự lực bình an ,
Đã không mừng lại đem tâm ghét hiềm .

83. 

Không mong chúng được niềm vui nhỏ ,
Nói gì mong giác ngộ toàn vui .
Tâm bồ đề ấy còn đâu ,
Nơi người ganh ghét kẻ giàu hơn ta .

84. 

Quà kia được biếu kẻ thù ,
Hoặc đang còn ở trong kho nhà người .
Thì đâu có phải phần ngươi ,
Không chi can hệ khiến ngươi phải rầu .

85. 

Sao tự phá phước cùng công đức ,
Còn khiến cho kẻ khác mất tin .
Gia tài công đức không gìn ,
Chính ngươi đáng tự giận mình là hơn .

86. 

Ngươi không sợ những ác hành ,
Do mình đã tạo, nên thành kém may .
Thế mà còn nổi sân si ,
Vì ganh tị với phúc người hay sao .

87. 

Giả như kẻ thù ngươi bị hại ,
Có gì đâu trong ấy để vui .
Kẻ kia do đến vận xui ,
Không do ngươi muốn mà người tổn suy .

88. 

Dù người khổ như ngươi mong muốn ,
Thì cũng không đáng để vui mừng .
Không gì là địa ngục nhân ,
Cho bằng cái sự ăn mừng khổ đau .

89. 

Đấy là một cái lưỡi câu ,
Vô minh phiền não buông câu hại người .
Nếu ai mắc phải mồi này ,
Đồng sôi địa ngục khó ngày thoát ra .

90. 

Sự vinh quang cùng lời ca tụng ,
Không khiến cho kẻ nhận bình an .
Không đem trường thọ, kiện khang ,
Không làm hết bệnh đa mang chút nào .

91. 

Nếu rõ biết thế nào thật lợi ,
Thì những lời khen ngợi ích chi .
Còn như muốn đỡ sầu bi ,
Chỉ cần uống rượu trau tria giải buồn .

92. 

Nếu vì muốn được nổi danh ,
tài sản, tính mạng mình mất luôn .
Thì khi chết được tiếng thơm ,
Còn ai ở đó mà buồn với vui .

93. 

Khi sụp đổ lâu đài trên cát ,
Kẻ ngu cùng trẻ nít khóc than .
Cũng như khi mất tiếng tăm ,
Tâm ta điên đảo giống tuồng trẻ ngu .

94. 

Âm thanh đã biết vô thường ,
Thì nghe khen ngợi cũng dường như không .
Nếu vì người ấy vui lòng ,
Trong khi khen ngợi, nên lòng ngươi vui .

95-96. 

Thế thì sao lại không vui ,
Nghe ai khen ngợi kẻ ngươi oán cừu .
Dù khen ngươi hoặc kẻ thù ,
Người khen vui vẻ ngươi nào liên can .

97-98. 

Khi tâm nghĩ “ Ta được ngợi khen ” ,
Thật không thích đáng để sinh vui mừng .
Ngợi khen làm tán loạn tâm ,
Phá nhiều thiện pháp, hết tâm chán lìa .

99. 

Nếu hiện tại có người bôi bác ,
Muốn phá cho tan nát danh ta .
Chính là người đã cứu ta ,
Khỏi sa địa ngục đường tà đấy thôi .

100.

Đã cầu giải thoát luân hồi ,
Thì không trói buộc bởi đời lợi danh .
Sao còn giận tức hữu tình ,
Những người cởi mở cho mình trói trăn .

101. 

 Khi ta đến một nơi nguy khốn ,
Mà bị người đóng cổng chận ngăn .
Ấy là Phật tổ gia ân ,
Sao còn giận tức kẻ ngăn can mình .

102. 

Nếu ngươi bảo kẻ thù tác hại ,
Trở ngại bao công đức của ngươi .
Hạnh tu nhẫn nhục cao vời ,
Sao không nhân đấy tu ngay một lần .

103. 

 Nếu ta có lắm ưu phiền ,
Nên không chịu nổi kẻ hiềm khích ta .
Ấy mình tự chướng hạnh tu ,
Bao nhân phước đức nhẫn là tối cao .

104. 

 Không tổn hại, nhẫn nào sinh khởi ,
Nhẫn kẻ thù công đức phát sinh .
Vậy thù địch chính ân nhân ,
Cho ta tu phước đâu ngăn ngại gì .

105. 

Khi cho mà gặp kẻ xin ,
Thì sao gọi đấy chướng duyên cho mình .
Cũng vô lý như bảo rằng ,
Giới sư trở ngại cho mình xuất gia .

106. 

Thế gian đầy dẫy người xin ,
Cho ta bố thí gieo duyên phước lành .
Nhưng thù nghịch lại hiếm khan ,
Ta không sinh sự, ai màng hại ta .

107. 

 Thù nghịch cũng như là báu vật ,
Ta chẳng tìm mà được đến tay .
Giúp ta giác ngộ là đây ,
Hãy nên ưa mến kẻ hay hại mình .

108. 

Muốn tu nhẫn nhục cho thành ,
Kẻ thù hợp tác với mình mới xong .
Vậy bao phước đức thành công ,
Hãy nên phụng hiến kẻ từng hại ta .

109. 

Nếu bảo “ Kẻ thù đâu muốn giúp ,
Cho ta thành quả phúc thanh cao ” .
Vậy thì thánh pháp cao siêu ,
Cũng đâu muốn giúp nương theo tu hành .

110. 

 Nếu bảo : “ Thù chỉ chuyên tác hại ,
Đâu muốn gì ích lợi cho tôi ” .
Hại kèm thiện ý cứu đời ,
Thì như y sĩ, đâu thời nhẫn kham .

111. 

Nhờ một kẻ sân si tột độ ,
Nhẫn nhục thành kiên cố nơi ta .
Kẻ thù nhân tốt cho ta ,
Nên cung dưỡng họ như là Pháp thân .

112. 

Đức Mâu ni có dạy rằng ,
Chúng sinh với Phật cũng ngang phước điền .
Muốn thành lục độ vô biên ,
Hãy gieo giống phước lên trên ruộng này .

113. 

Kể bao đối tượng ta nương ,
Để tu chứng đạo , chúng sinh Phật đồng. .
Chỉ tôn Phật chẳng chúng sinh ,
Là lời chẳng có ở trong kinh nào .

114. 

Xét trên trí đức cao sâu ,
Dĩ nhiên Phật, chúng sinh nào giống nhau .
Chúng sinh giúp chứng đạo mầu ,
Nên đồng với Phật, ấy do quả lành .

115-116. 

Cúng dường tất cả chúng sinh ,
Với tâm từ mẫn, vô biên phước tồn .
Vì là nhân của quý tôn ,
Cũng như kính Phật Thế tôn vô lường .

117. 

Hằng sa công đức nan lương ,
Đồng quy nơi một kim thân Phật ngài .
Một công đức nhỏ trong đây ,
Đủ cho ba cõi quay về cúng dâng .

118. 

Nhờ chúng sinh Phật thành chính đạo ,
Nên hữu tình có tạo phần công .
Vì hai đức ấy tương đương ,
Cho nên thực đáng cúng dường chúng sinh .

119. 

Như lai đấng nói lời chân ,
Ban vui tất cả thiết thân hữu tình .
Cách nào báo Phật thâm ân ,
Cho bằng giúp chúng sinh hằng an vui .

120. 

Phật từng xả thân vào hỏa ngục ,
Cứu chúng sinh lăn lóc tam đồ .
Nhớ ân đức Phật sâu xa ,
Con nguyền tu hạnh lợi tha báo đền .

121. 

Phật xưa không tiếc thân mình ,
Đem cho tất cả hữu tình an vui .
Ngu si kiêu mạn là tôi ,
Nếu không làm kẻ tôi đòi chúng sinh .

122. 

Phật vui khi chúng sinh an ,
Chúng sinh tổn hại Phật tan nát lòng .
Hữu tình sướng, Phật an tâm ,
Làm cho chúng khổ tổn thương Phật ngài .

123. 

Như thân thể quấn trong lửa rực ,
Dù ai cho ngũ dục không màng .
Phật đà không thể hân hoan ,
Nếu ta tổn hại chúng sinh con Ngài .

124-125. 

Khi xưa con hại hữu tình ,
Khiến đau lòng Phật, nay xin sám chừa .
Từ nay con nguyện dứt trừ ,
Dù ai chà đạp xin thề nhẫn kham .

126. 

Phật với tâm đại bi vô ngại ,
Trong hữu tình thấy tánh Như lai .
Sao không kính trọng tánh này ,
Ở trong tất cả muôn loài chúng sinh .

127. 

Hãy làm cho chúng sinh vui ,
Thì ta sẽ khiến Như lai vui lòng .
Lại còn lợi lạc bản thân ,
Bao nhiêu đau khổ xóa tan trên đời .

128. 

Ví như có kẻ làm quan lớn ,
Hại dân lành, tán tận lương tâm .
Nhưng người dũng sĩ khôn ngoan ,
Dù dư sức cũng chẳng ham báo thù .

129. 

Vì quan ấy chẳng đơn cô ,
Sau ông còn có ô dù lớn lao : .
Phật đà bi mẫn gồm thâu ,
Và bao ngục tốt, lẽ nào coi khinh .

130-131. 

Hãy làm cho chúng sinh hoan hỉ ,
Như bề tôi phụng thị ác vương .
Ta không đọa bởi vua sân ,
Mà sa địa ngục nếu sân hữu tình .

132. 

Và dù bạo chúa hân hoan ,
Cũng không thể biếu niết bàn cho ta .
Quả do đức tính nhân hòa ,
Ban vui cứu khổ mọi nhà chúng sinh .

133. 

Kết quả làm hữu tình vui sướng ,
Là đời này được hưởng vinh quang .
Đời sau thoát khỏi khổ nàn ,
Hãy luôn ghi nhớ lời vàng chớ quên .

134. 

Trong vòng sinh tử liên miên ,
Sống lâu vô bệnh dung nhan tuyệt trần .
Tiếng thơm nhờ đức vô sân ,
Và bao hạnh phúc sánh bằng Luân vương.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12494)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10380)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12345)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11642)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28801)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12047)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13007)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11442)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12371)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17440)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53032)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35485)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21392)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19237)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12404)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26038)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13314)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14378)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16083)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13727)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16837)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17581)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13126)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12529)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11607)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11616)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14505)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20479)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18989)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19563)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18651)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12182)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12311)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13858)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15028)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15036)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13994)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15512)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11401)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17192)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14975)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20194)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14611)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13837)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11708)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15059)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12997)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22869)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11648)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13168)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16884)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18341)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11939)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11497)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15850)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12881)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18904)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18420)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant