Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 7: Tinh Tấn

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 12329)
Chương 7: Tinh Tấn

Chương Bảy
Tinh Tấn

1. 
 
Kế nhẫn nhục cần tu tinh tấn,
Tâm bồ đề mới vững trú luôn .
Gió lay quả phúc tràn tuôn ,
Không siêng kh
ó động mạch nguồn tâm linh .

2. 

Siêng là hăng với việc lành ,
Không bao giờ tự bỉ thối lui .
Cũng không biếng nhác nằm dài ,
Hay là tham đắm việc đời lăng xăng .

3. 

Do ham hưởng thú vui làm biếng ,
Ưa ngủ nhiều thành tánh trong ta .
Luân hồi sinh tử khó ra ,
Vì không chán khổ, mê sa thói lười .

4. 

Sao chưa biết được lẽ này: ,
Lưới mê đã vướng khó ngày thoát ra. .
Bào thai ngục ấy lại sa ,
Để thêm tái diễn bi ca khổ sầu .

5. 

Không thấy sao bao người thân thích ,
Đã dần theo thần chết ra đi .
Vẫn tham say ngủ li bì ,
Như trâu bất động trước người đồ phu .

6-7. 

Niêm phong ngõ thoát không chừa, ,
Tử thần rình rập, đang chờ nạn nhân .
Đợi khi nước đã đến chân ,
Mới lo thì đã muộn màng ích chi .

8-9. 

Bất kể việc ta còn dang dở ,
Thần chết liền chiếu cố thân ta .
Bà con tuyệt vọng lân la ,
Đau buồn sưng mặt lệ sa đầm đìa .

10. 

Hãi hùng nghe tiếng âm ty ,
Cuống cuồng phóng uế lấp che thân mình .
Ăn năn tội lỗi bình sinh ,
Nhưng đà quá muộn trước tình thế nay .

11. 

Trước thần chết tâm này hoảng hốt ,
Như cá nằm trên thớt bất an .
Huống chi thống khổ muôn vàn ,
Ở trong địa ngục ác hành tạo nên .

12. 

Như thịt da trẻ sơ sinh ,
Nước sôi chạm đến, cực hình nào hơn .
Sao ta có thể an nhiên ,
Khi mình đã tạo tội khiên quá nhiều .

13. 

Tai họa đến cho người biếng nhác ,
Mong quả lành không quyết gắng công .
Khi thần chết đến bên hông ,
Miệng kêu khổ đến thiên thông thét gào .

14. 

Thân người như chiếc xuồng nan ,
Đưa ta vượt biển muôn vàn hiểm nguy .
Khó tìm khi đã mất đi ,
Chớ ham ngủ kẻ ngu si biếng lười .

15. 

Sao bỏ luống niềm vui chính pháp ,
Suối nguồn bao pháp lạc cao siêu .
Thú vui thấp kém đuổi theo ,
Chỉ đưa ngươi đến đủ điều rối ren .

16. 

Hãy can đảm trữ hành trang: ,
Tập thiền tự chủ thân tâm cho thường; .
Quán ta bình đẳng tha nhân ,
Đổi trao địa vị bản thân với người .

17. 

Đừng nên khiếp nhược thối lui ,
Nghĩ rằng ta chẳng có tài cán chi .
Làm sao giác ngộ được gì ,
Hãy nghe kinh giáo Như lai dạy rành .

18-19. 

Chỉ cần có đức siêng năng ,
Dù cho ruồi muỗi ( cũng ) chứng thành ngôi cao .
Huống là nhân loại như ta ,
Nếu không xả giới quyết là chứng nên .

20. 

Nếu ngươi sợ bỏ tay chân ,
Như trong Giới luật khuyên nên gắng làm .
Thật là lo sợ viễn vông ,
Kẻ ngu chưa biết biện phân chính tà .

21. 

Ngươi đã trải qua vô số kiếp ,
Nào bị đâm bị đốt, xả cưa .
ngu si vẫn như xưa ,
Bồ đề vô thượng vẫn chưa viên thành .

22-23. 

Nay ta vì hạnh bồ đề ,
Như người chữa bệnh không nề đớn đau .
Chịu đau nhỏ trừ hại to ,
Khổ này có hạn, không lo kéo dài .

24. 

Phương pháp này Y vương chẳng dụng ,
Chữa lành vô số chứng nan y .
Dược phương ngài rất tinh vi ,
Không gây đau đớn chút gì chúng sinh .

25. 
Dạy tu bố thí trước tiên ,
Đem cho vật thực Phật khuyên nên hành .
Đã quen thí vật linh tinh ,
Dần cho cả máu thịt trên thân mình .

26. 
 
Khi đối tự thân mình đã rõ ,
Không khác gì cọng cỏ lá rau .
Thì không khó nhọc chi đâu ,
Xả thân bố thí mình đầu chân tay .

27.

 Ác hành khi đã cạn vơi ,
Thì không còn khổ, trọn đời an nhiên .
Dứt tà phân biệt, hết phiền ,
Thân tâm thanh tịnh tội khiên sạch làu .

28. 

Phước đức trang nghiêm thân tươi mát ,
Tuệ sáng ngời Bồ tát tâm an .
Vì đời nguyện trú tử sanh ,
Đâu còn chán ghét thế gian não phiền .

29. 

Bồ đề năng lực vô biên ,
Tiêu trừ ác nghiệp tiền khiên bao đời .
Lại tăng phước tận trùng khơi ,
So Thanh văn chúng chẳng ai sánh bì .

30. 

Hãy ngự trên bồ đề tuấn mã ,
Làm tiêu tan tất cả chán chường .
Chớ lùi hãy vững dây cương ,
Từ an vui đến vô vàn an vui .

31. 

Dục , tín , hỉ , xả không lơi ,
Khiến ta lợi lạc cho người thế gian .
Dục là mong thoát tai nàn ,
Việc làm thiếu dục không xong được nào .

32. 

Lực tinh tấn muốn tăng thêm mãi ,
Phải cố trừ giải đãi ươn hèn .
Mong cầu, hỉ, xả, tự tin ,
Tiến lên tự chủ cần chuyên thiện hành .

33. 

Nguyện trừ vô số tội khiên ,
Vì thân ta, lẫn vô biên hữu tình .
Dứt điều ác tận ngọn ngành ,
Phải bao đời kiếp tu hành mới xong .

34. 

Nhưng nếu ta chưa từng phát khởi ,
Một niệm trừ tội lỗi mầm tà .
Khổ nàn chắc sẽ đọa sa ,
Làm sao không khiến tim ta hãi hùng .

35. 

Vô biên công đức nguyền tu ,
Đem bao lợi ích cho ta lẫn người .
Chỉ duy một đức trong đây ,
Cũng cần vô số kiếp dày công tu .

36. 

Thế mà nay ta chưa có được ,
Chút phần nào công đức phải tu .
Một đời vô nghĩa luống qua ,
Lạ thay chẳng tiếc thân kia khó còn .

37. 

Ta chưa vì Phật hiến dâng, ,
Chưa bày yến tiệc mời từng chúng sinh .
Chưa theo giáo lý thực hành ,
Chưa tầng thỏa mãn hữu tình khát khao .

38.

Với người sợ, chưa bao che nổi ,
Chưa mang vui sướng tới kẻ sầu .
Riêng mình chắc phải khổ đau ,
Nhập thai , già chết , sầu ưu não nề .

39. 

Bao nhiêu thống khổ ê chề ,
Đều do tôi đã chưa hề ham tu .
Thuốc hay sao lại chối từ ,
Khi đà biết rõ ngục tù đớn dau .

40. 

Phật đã dạy mong cầu là gốc ,
Làm phát sinh bao đức tốt lành .
Muốn cầu diệu pháp quang minh ,
Tư duy khổ quả nghiệp nhân cho tường .

41. 

Bao nhiêu khiếp sợ, đau thương ,
Xa lìa ân ái, ghét thường kề bên .
Cầu không toại ở không yên ,
Đều do ta đã gây nhân bao đời .

42. 

Đến đâu cũng được thảnh thơi ,
Là do phúc trước chiêu vời quả son .
Việc lành ta đã vuông tròn ,
Mong người thoát khổ nỗi lòng ước ao .

43. 

Kẻ ác nhân mong cầu hạnh phúc ,
Vẫn gặp đầy nhung nhúc khổ đau .
Vì chưng khổ báo thường theo ,
Chân trời góc biển không đâu thoát nàn .

44a. 

Tu nhân tích chứa phúc lành ,
Hóa sinh vào đóa bạch liên thơm lừng .
Trong hoa mát mẻ thênh thang ,
Diệu âm pháp hỷ chứa chan thân mình .

44b. 

Thân tâm tràn ngập quang minh ,
Phật quang chiếu xúc hoa liền mở ra. .
Hân hoan kính lễ Di Đà ,
Tôi thành Con Phật trước tòa Như Lai .

45. 

Tạo nghiệp ác ghê thay thống khổ ,
Bị đọa vào những chỗ rên la .
Nước đồng sôi rưới tuột da ,
Giữa nền sắt nóng ngã ra nát nhừ .

46. 

Vậy nên ta phải chuyên tu ,
Mong cầu thiện pháp siêng lo việc lành .
Hãy đọc kinh Kim cang tràng ,
Dạy tu tự tín, thực hành điều hay .

47. 

Mỗi khi muốn bắt tay vào việc ,
Khả năng mình hãy xét trước tiên .
Không kham nên bỏ ngay liền ,
Làm thì cho đến vẹn tuyền mới thôi .

48. 

Bởi vì nếu cứ thối lui ,
Thói quen ảnh hưởng nhiều đời vị lai .
Khổ đau cứ thế nối dài ,
Việc lành dang dở quả thời dở dang .

49. 

Với thiện hành hãy nên tự tín ,
Nghĩ mình ta nhất định đảm đương .
Khả năng đoạn hoặc chứng chân ,
Trong ta có sẵn, chớ thường tự khinh .

50. 

Người đời khó đạt lợi mình ,
Xiết bao phiền não xích xiềng buộc thân .
Huống là lợi kỷ lợi nhân ,
Như ta đã được phúc phần xuất gia .

51. 

Thế nhân vẫn cần cù việc vặt ,
Sao ta đành ngoảnh mặt an thân .
Cho rằng việc chẳng tương ưng ,
Siêng năng thiện sự nhớ đừng kiêu căng .

52. 

Với con rắn độc chết nhăn ,
Quạ kia lẫm liệt uy phong đại bàng .
Đức tin yếu kém nơi lòng ,
Thì suy sụp bởi sai lầm nhỏ nhoi .

53. 

Kẻ yếu kém bỏ rơi nỗ lực ,
Khó giải trừ phước đức hiếm khan .
Với người cố gắng tinh chuyên ,
Dù bao trở ngại không phiền não chi .

54. 

Đức tin tôi sẽ kiên trì ,
Vượt qua đọa lạc tiêu trừ ác duyên .
Lỗi lầm nếu thắng lướt mình ,
Làm sao ra khỏi tử sinh luân hồi .

55. 

Phải chiến thắng não phiền tội ác ,
Đừng để cho tội ác thắng ta .
Như lai pháp tử giống nhà ,
Kiên trì tự tín mới ra con nòi .

56. 

Những người ngã mạn hợm mình ,
Là không có đủ tự tin nơi lòng .
Tự tin nên khỏi long đong ,
Như người ngã mạn khó hòng an tâm .

57. 

Trong ngã mạn ngoài kiêu căng ,
Sẽ sa đường ác gian nan lâu dài .
Mất toi phúc lạc kiếp người ,
Làm thân nô bộc trọn đời hẩm hiu .

58. 

Ngu si xấu xí hao gầy ,
Đến đâu cũng bị mọi người rẻ khinh. .
Kẻ tu khổ hạnh hợm mình ,
Không vào trong số tự tin thiện hành .

59. 

Ai muốn thắng quân thù ngã mạn ,
kiên trì tự tín trong tâm .
Chính là chiến thắng vẻ vang ,
Chóng thành nguyện ước thế gian mong chờ .

60. 

Giữa rừng phiền não bao vây ,
Trăm ngàn nhẫn chịu không hề nóng nôn .
Như sư tử giữa bầy chồn ,
Quyết không để giặc não phiền hại ta .

61. 

Kẻ lâm nạn giữ gìn đôi mắt ,
Giữa chợ đời dễ gặp khốn nguy .
Nếu ta mắt tuệ bảo trì ,
Ma quân phiền não chẳng hề đáng lo .

62. 

Thà bị thiêu đốt, chặt đầu ,
Còn hơn khuất phục giặc ngu não phiền .
Ở nơi đâu, mọi thời gian ,
Thề không làm việc bất ưng vô nghì . 

63. 

Như con trẻ trò chơi theo đuổi ,
Tôi cũng thề săn đuổi thiện hành .
Đam mê thích thú hết mình ,
Không bao giờ chán, nhiệt tình hăng say .

64. 

Thế nhân nỗ lực cầu vui ,
Mà không chắc được niềm vui mong cầu .
Lợi tha mang lại an vui ,
Nếu không làm chẳng có vui được nào .

65. 

Người đời không chán ham năm dục ,
Mãi ham mê liếm mật đầu gươm .
Dẫn sanh an lạc niết bàn ,
Thiện hành công đức đáng ham gấp mười .

66. 

Để viên thành phước cao thâm ,
Hãy siêng hành thiện với niềm hân hoan .
Như voi lao xuống đầm sen ,
Giữa trưa nóng bức ngâm mình khoái thay .

67. 

Khi thân tâm đã mệt nhoài, ,
Thì nên dưỡng sức, tạm thời xả buông .
Việc gì khi đã làm xong ,
Cũng nên xả để tính sang việc ngoài .

68. 

Như chiến sĩ sa trường lão luyện ,
Phản công ngay đường kiếm kẻ thù .
Trước gươm nhọn của si ngu ,
Khéo nên kềm chế giặc thù vô minh .

69. 

Khi đánh nhau lỡ làm rơi kiếm ,
Vội vàng ta sẽ lượm nhặt lên .
Mất đi chính niệm hiện tiền ,
Sợ sa hỏa ngục nên liền chính tri .

70. 

Độc khi đã thấm vào thân ,
Do tuần hoàn máu, sát nhanh thân này .
Độc phiền não cũng như đây ,
Làm cho tội ác lấp đầy bản tâm .

71-72. 

Hãy gìn giữ bản tâm chuyên chú ,
Như bưng dầu bị cổ kề gươm .
Hoặc như rắn độc bên lưng .
Xua tan biếng nhác bốc đồng nổi lên .

73-74. 

Mỗi khi lỡ phạm lỗi lầm ,
Hãy nên tự trách, thề không bao giờ .
Mọi thời chính niệm siêng tu ,
Mong thành đạo nghiệp, minh sư phải tầm .

75-76. 

Muốn năng lực để làm thiện sự ,
Không buông lung lời dạy nhớ ghi .
Như bông theo gió nhẹ bay ,
Tâm vui mọi việc khéo hay viên thành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11613)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11923)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11091)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12052)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10744)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9934)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10160)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12337)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15323)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14313)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12076)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15313)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11986)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12065)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10594)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12542)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13145)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14775)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12639)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16525)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19623)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13095)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12645)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12233)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11818)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10879)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13471)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11928)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11830)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11619)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12749)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14493)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15650)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13596)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12876)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9850)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17994)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11147)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9054)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12157)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10284)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12173)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15284)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16577)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12186)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11449)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14254)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19658)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24567)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10667)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant