Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 9: Trí Tuệ

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11808)
Chương 9: Trí Tuệ

Chương Chín
Trí Tuệ

( Suốt chương này, những câu " trong ngoặc kép ” là luận điệu những học thuyết trong và ngoài Phật giáo phản bác hoặc chất vấn Trung quán . Tiếp theotrả lời của luận chủ theo lập trường Trung quán . Xem phần dịch văn xuôi để rõ chi tiết ) .

1. 

Bao điều Phật dạy kể trên .
Cốt làm trí tuệ phát sinh nơi lòng .

Muốn ra khỏi biển trầm luân ,
Cần sinh tuệ giác Tính không sáng ngời .

2. 

Lẽ phải đời gọi là tục đế ,
Thắng nghĩachân lý siêu phàm .
Không do phân biệt nơi tâm ,
Còn phân biệt vẫn trong vòng trầm luân .

3. 

Thế gian những kẻ ngu phàm ,
quan điểm khác với hàng thiền gia .
Những gì tục đế nói ra , 
Bị hành giả phái Du già bác ngay .

4a.

Thiền gia cũng khác nhau tuệ lực ,
Càng lên cao thấy bực dưới sai .
Như màn ảo thuật hiển bày 
Thế tình như huyễn với người tu tâm .

4b. 

Nếu ai hỏi vị ấy rằng ,
“ Đã như huyễn hóa thì cần tu chi ” . 
Muốn thành Phật quả chân như ,
Nên dùng huyễn pháp đi tu ấy mà .

5. 

Việc gì cũng xem là có thật ,
Người thế gian phân biệt linh tinh .
Thiền gia xem tợ huyễn hình ,
Đây là đầu mối luận tranh hai nhà .

6. 

Cảnh gì hiện trước mắt ta ,
Làm nên tục đế, gọi là giả danh .
Chỉ do điên đảo mà thành ,
Như dơ bảo sạch không nên tin vào .

7a. 

Muốn dẫn đạo cho người thế tục ,
Phật dạy rằng các pháp vô thường .
Thật thì các pháp vốn không ,
Có đâu để diệt trong từng sát na .

7b. 

Vậy nên hiểu vô thường tục đế ,
Không phải là thắng nghĩa sâu xa .
“ Nói tồn tại chỉ sát na ,
Phải chăng cũng trái tục gia lối nhìn ” .

8a. 

Không lầm cái thấy nhà thiền ,
Cho rằng các pháp chỉ bền sát na .
Chấp thường thế tục vốn ưa ,
Lối nhìn thiền giả tạm là thật chân .

8b. 

Cũng như cái thấy thân bất tịnh ,
Với người đời nhất định trái tai .
Nhưng mà nó vẫn không sai ,
Vậy nên chưa chắc ngược đời phi chân .

9a. 

“ Nếu vạn pháp đã là không thực ,
Thì cúng dường công đức nào sinh ” . 
Phật như huyễn đức huyễn sanh ,
Cũng như Phật thật đức thành thật chân .

9b.

 “ Nếu là như huyễn chúng sinh ,
Vậy sau khi chết tái sanh thế nào ” .

10a.

 Huyễn duyên còn tụ bao lâu ,
Huyễn hình vẫn cứ thi nhau diễn tuồng .

10b. 

Như ảo thuật hữu tình không khác ,
Đều khởi lên do các duyên sinh .
Đâu vì yếu tố thời gian ,
Lâu dài tương đốithành thật chân ? .

11. 

Khi người huyễn sát sinh, bố thí ,
vô tâm chẳng tội phước chi .
Chúng sinh với huyễn tâm kia ,
Sanh như huyễn tội như là huyễn công .

12. 

Chú thuật không thể sinh tâm huyễn ,
Tâm không từ huyễn thuật sinh ra .
Nhân duyên đủ thứ hợp hòa ,
Phát sinh các dạng vật và chúng sinh .

13. 

Không bao giờ có một nhân ,
Sinh ra tất cả mọi thành quả kia .
“ Nếu cho vạn pháp chân như ,
Chỉ trên tục đế bày ra luân hồi ” .

14. 

“ Phật còn có thể luân hồi ,
Thì Bồ tát hạnh còn ai tu hành ” . 
Huyễn duyên nếu vẫn vận hành ,
Huyễn hình không diệt hữu tình theo đây .

15. 

Phật đã chấm dứt duyên sinh tử ,
Nên dù trên tục đế không sinh .
“ Nếu cho vọng thức không thành ,
Lấy gì duyên với cảnh tình huyễn hư ” .

16. 

Theo ông ngoại cảnh huyễn hư ,
Thì đâu còn có cảnh gì để duyên .
“ Cảnh kia do thức mà nên ,
Thức này ngó lại cảnh mình biến ra ” .

17. 

Nếu huyễn cảnh chính là tâm thức ,
Thì lấy gì thấy được cái chi .
Phật Như lai đấng chở che ,
Dạy rằng tâm chẳng bao giờ thấy tâm .

18. 

Như gươm không tự cắt mình ,
Tâm không thể tự thấy mình được đâu .
Ví như ánh sáng đèn dầu ,
Tự mình chiếu sáng, tâm nào khác chi ” .

19a. 

Ánh sáng chẳng phải đâu tự chiếu ,
Và tối không thể hiểu tự che .
( Vì khi đèn chiếu vật kia ,
Nó không từng bị bóng gì che lên ) .

19b. 

Trả lời : Ví dụ gương xanh ,
Khi gương chiếu một vật xanh hiện hình ,
Nhưng còn ánh ngọc màu xanh ,
Thì không nương những bóng hình nọ kia ” .

20a. 

“ Cũng tương tự có hai loại thức ,
Có và không nương các vật ngoài ” .
Bác rằng : Ví dụ ấy sai ,
Xanh lưu ly ví tâm soi chiếu mình .

20b. 

lưu ly tự tính xanh ,
Không do duyên khác để thành màu kia . 

21a. 

Chính vì có thức liễu tri ,
Nên hay biết được đèn thì chiếu soi .

21b. 

Nhưng cái thức tự soi chính nó ,
Thì do đâu sáng tỏ điều này .
Vì theo trong thắng nghĩa đây ,
Tự - tha thức chẳng mảy may thực nào .

22. 

Không tâm nào để ngắm tâm ,
Nên dù tự chiếu hay không bất thành .
Khác nào nói gái vô sinh ,
Có con đẹp xấu đâu thành nghĩa chi .

23. 

Nếu khôngtự chứng phần ,
Làm sao nhớ được những tâm qua rồi ” . 
Do tương quan với cảnh ngoài ,
Mà tâm nhớ lại lần hồi xưa sau .

23b. 

Như con gấu nhức đau mình mẩy ,
Khi giật mình tỉnh dậy đầu xuân .
Suy ra biết chuột cắn nhầm ,
Trong khi an giấc suốt trong đông dài .

24. 

“ Như người biết được tha tâm ,
Cho nên cũng biết tự tâm của mình ” .
Có người mắt được bùa linh ,
Cái gì cũng thấy mắt mình thì không .

25. 

“ Nếu tự tha thức không lập được ,
Thì kiến văn tri giác đều không ” . .
Những gì thấy biết nghe trông ,
Không nên chấp thực nguyên nhân khổ sầu .

26.

 “ Huyễn duyên không ở ngoài tâm ,
Cũng không là một với dòng tâm kia ” . 
Làm sao có một pháp chi ,
Không ngoài tâm cũng lại vừa phi tâm .

27. 

Theo Duy thức cảnh ngoài phi thực ,
Trung quán cho tâm thức huyễn hư .
Luân hồi nương thật tâm tư,
Nếu không tất cả đồng là hư vô ” .

28. 

Nếu sinh tử phải nương thật pháp ,
Thì làm sao có tác dụng chi .
Tâm thành đơn độc không hai ,
Vì không có những pháp ngoài trợ duyên .

29. 

Nếu tâm lìa cảnh tự tồn ,
Chúng sinh tất cả cũng đồng Như lai. .
Vậy thì Duy thức tông kia ,
Cuối cùng đâu có ích chi lập thành .

30. 

“ Dù biết vạn phápnhư huyễn ,
Dứt làm sao tham luyến si sân .
Như phù thủy tạo mỹ nhân ,
Rồi sinh say đắm cô nàng thì sao ” .

31. 

Huyễn sư đối những gì thấy biết ,
Chưa bao giờ tận diệt tham sân .
Đã quen nhận giả làm chân ,
Nên khi thấy huyễn mỹ nhân phát thèm .

32. 

Nhờ quen tu tập Tánh không ,
Không xem các pháp thật chân chút nào .
Bản thân Không tánh có đâu ,
Cuối cùng đoạn nốt cả bầu chấp không .

33. 

Không thấy có pháp nào chắc thực ,
Thực hữu không còn được đặt ra .
Thì Không chẳng bận tâm ta ,
Như con thạch nữ đâu mà chết đi .

34. 

Khi không - có hết khởi lên ,
Trong tâm vắng lặng một miền bao la .
Không còn duyên pháp gần, xa ,
Chứng nên cảnh giới rất là tịch nhiên .

35. 

Như ngọc ma ni và cây ước ,
vô tâm thỏa được ước mong .
Sắc thân Phật hiện nhân gian ,
Do bồ tát nguyện cùng tâm hữu tình .

36. 

Như Kim sí điểu tháp linh ,
Vẫn còn năng lực chữa lành vết thương .
Nhờ linh chú bà la môn ,
Gia trì lên đấy thuở còn xa xưa .

37. 

Cũng như thế do Bồ tát hạnh ,
Vô lượng thời tạo pháp thân thiêng .
Nên dù Phật đã tịch viên ,
Vẫn còn lợi lạc vô biên hữu tình .

38. 

Cúng dường tháp Phật vô tình .
Thì sao có được chút thành quả chi ” . 
Phật dù nhập diệt hay chưa ,
Cúng dường công đức chẳng hề khác nhau .

39. 

Trên tục đế hay theo thắng nghĩa ,
Quả cúng dường một thể như như .
Phật phi thực quả huyễn hư ,
Cúng dường Phật thật quả thì thật chân .

40.

 “ Cần chi phải thấy Tính không ,
Chỉ cần kiến đế thoát vòng trầm luân ” .
Trong kinh Bát nhã dạy rằng ,
Bồ đề muốn chứng phải cần tuệ Không .

41. 

Nếu đại thừa không do Phật thuyết ,
Tiểu thừa kinh sao biết chính tông .
“ Hai ta xác nhận một lòng ” .
Khi ông chưa nhận chắc không đúng nào .

42.

 “ Lại còn hệ phái truyền trao ” ,
Đại thừa cũng vậy khác nào các ông .
Hai nhà xác nhận thành chân ,
Vệ đà ngoại điển cũng cần tin sao .

43. 

Đại thừa kinh bị nhiều tranh cãi ” , 
Kinh tiểu thừa chẳng phải an thân .
Bị bài bác bởi ngoài trong ,
Sao không nhân đấy bác luôn tiểu thừa .

44. 

Nếu kinh nào nhập Ba tàng ,
Các ông thừa nhận lời vàng Thế tôn .
Đại thừa tuyên thuyết chính tông ,
Cũng gồm giới định tuệ đồng như nhau .

45. 

Nếu vì không hiểu sâu Bát nhã ,
Phủ nhận luôn tất cả đại thừa .
Hãy vì kinh giống tiểu thừa ,
Cũng nên xem tất đồng là Phật ngôn .

46. 

“ Nếu là kinh Phật chính tông ,
Đại A la hán sao không tỏ tường ” . 
Kinh này nghĩa lý cao thâm ,
Đâu vì nan giải gạt phăng đại thừa .

47. 

Nói “ Giáo lý dành cho la hán ” , 
Nhưng khó thành nếu chẳng chứng Không .
Khi còn duyên pháp trong tâm ,
Khó mà an trú niết bàn tịnh thanh .

48.

 “ Mặc dù chẳng hiểu Tính không ,
Quán vô thường đủ thoát vòng trần ai ” .
Công năng nghiệp cũ còn hoài ,
Nên la hán vẫn chưa ngoài khổ đau .

49.

 “ A la hán không còn ái thủ ,
Quyết định không còn thọ thân sau ” .
Vô minhbất nhiễm ô ,
Vẫn còn tái diễn lắm trò khổ đau .

50. 

Do duyên cảm thọ ái sanh ,
Vị kia chỉ đoạn hiện hành ái thôi .
Tâm còn chấp thật vài nơi ,
Thọ nằm trong đó luân hồi khó ra .

51. 

Nếu tâm thức lìa xa Không quán ,
Phiền não dù tạm lắng lại sanh ,
( Như khi xuất định vô tâm ) ,
Vậy mong dứt khổ tuệ Không phải tìm .

52. 

Khi thiền quán về chân không ,
Hết tham vui sợ khổ trong luân hồi .
Từ bi trải khắp muôn nơi ,
Ở trong sinh tử độ người đang mê .

53. 

Chớ nên vì không thông nghĩa lý ,
vội vàng bác bẻ Tính không .
Hãy nên như lý tu Không ,
Dứt trừ nghi hoặc thoát vòng trầm luân .

54.

 Tính không phá được tối tăm ,
Do phiền não với mê lầm gây nên .
Muốn mau thành bậc đại hiền ,
Sao không dứt khoát tu liền Tính không .

55. 

“ Quán tính Không làm tôi sợ hãi ” , 
Chấp thật chân mới phải đáng kinh .
Vì do chấp có khổ sinh ,
Thấy Không lắng dịu vô minh não phiền .

56. 

Nếu còn có chút nào thật ngã ,
Tất nhiên còn sợ hãi nọ kia .
Nhưng vì thật chẳng có ta ,
Thì ai ở đấy để mà sợ run .

57. 

Răng tóc móng đều không phải ngã ,
Ngã cũng không là máu huyết, xương .
Không là nước mũi, bọt, đàm ,
Không là thịt nước mật vàng mật xanh .

58. 

Ngã không là phổi hay gan ,
Mồ hôi hay mỡ lại càng không ta .
Không là nội tạng trong da ,
Không là phân tiểu thối tha khó nhìn .

59. 

Thịt da cũng chẳng phải mình ,
Ấm nồng khí lực thật tình không ta .
Trong thân lỗ hổng hà sa ,
Thức tâm sáu loại đều là huyễn hư .

60. 

Nếu thức về âm thanh thường tại ,
Thì lúc nào cũng phải có nghe .
Nhưng khi không đối tượng nghe ,
Làm sao gọi được đấy là thức thanh .

61.

 Nếu không thức tâm mà cũng biết ,
Khúc cây hay phân biệt giác tri .
Nên không đối tượng sở tri ,
Quyết là không có năng tri được nào .

62. 

Nếu bảo khi không thanh, biết sắc .
Sao lại không nghe được âm thanh .
“ Vì thanh lúc ấy chẳng gần ” ,
Thế thì nhĩ thức cũng bằng hư vô .

63. 

Cái tâm biết được âm thanh ,
Chuyển ra biết sắc sao thành thường chân .
“ Như người làm cả cha, con ” ,
Vậy là đối đãi chỉ còn giả danh .

64. 

Như Số luận chủ trương Ba đức ,
Cái làm nên thực chất trường tồn .
Làm sao cha lại là con ,
Đã thường biết sắc chuyển thành biết thanh .

65. 

Nếu cho ví dụ đóng tuồng ,
Thì tâm thức ấy vô thường không chân .
“ Thức tuy khác dạng thể đồng ” ,
Đây điều Số luận chưa tầng nói ra .

66. 

“ Nếu đa dạng trở thành phi thực ,
Các dạng kia thực chất là chi .
Phải là cái ý thức kia ” ,
Chúng sinh như thế đồng thì một tâm .

67. 

Ngã có tâm cùng thần bất động ,
Cũng thành ra một giống trường tồn. .
Những tâm nghe thấy . . . đều lầm ,
Làm sao cái giả cọng đồng thực chân .

68. 

Cái vô tri chỉ như bình nước ,
Thì có đâu thành được ngã thường .
Thức tâm chờ vật mới thành ,
Thì vô tri đã tan tành còn đâu .

69. 

Nếu cái ngã thường hằng bất biến ,
Dính gì tâm chuyển biến li ti .
Ngã là bất biến vô tri ,
Hư không với ngã có gì khác nhau .

70.

 “ Nếu khôngthật ngã nào ,
Luật nhân quả ấy làm sao vận hành .
Con người tạo nghiệp qua nhanh ,
Còn ai chịu quả do mình đã gây ” .

71.

Con người tạo nghiệp đời nay ,
Với người thọ quả tương lai bất đồng .
Tôi cùng công nhận như ông ,
Thì còn chi nữa mà hòng cãi tranh .

71b-72a . 

“ Nhưng với nhân quả trong hiện thế ,
Cùng một căn thân ấy thì sao ” .
Trong nhân chẳng thấy quả nào ,
Cha con cùng lúc không sao sinh thành .

72b. 

“ Thế lời Phật dạy trong kinh ,
Ai làm nấy chịu ông đành bỏ qua .
Muốn ngăn chận kẻ ác tà ,
Đừng quên nhân quả Phật đà dạy răn ” .

73. 

Kỳ thực xét trên phần chân đế ,
Tâm vị lai quá khứ đều không .
Thì đâu có ngã hằng tồn ,
Tâm trong hiện tại diệt vong còn gì .

74. 

Hãy nhìn cây chuối thân kia ,
Lột ra từng bẹ còn gì nữa đâu .
Nếu đem quán tuệ tầm cầu ,
Không sao thấy được ngã nào thật chân .

75. 

“ Nếu hữu tình thật không hiện hữu ,
Khởi bi tâm để cứu kẻ nào ” . 
Do mê si khéo bày trò ,
Giả vờ độ chúng chứng mau bồ đề .

76. 

“ Không người, ai chứng quả đây ” , 
Do tâm si ám đặt bày thế thôi . 
Muốn trừ thống khổ mang vui ,
Bày ra huyễn quả huyễn người tu chân .

77.

 Chỉ nên bỏ mê lầm về ngã ,
Làm tăng thêm tất cả khổ nhân .
Cách trừ ngã chấp tuyệt luân ,
vô ngã quán triệt dần khổ đau .

78a. 

Trước hãy xét cho sâu thân thể ,
Xem cái gì đáng kể là thân .
Dưới từ hai gót bàn chân ,
Đùi và vế chẳng phải thân chút gì .

78b - 79

Bụng lưng cùng ngực với vai ,
Xương sườn, tay, nách, cổ, đầu, ruột gan .
Bao nhiêu phủ tạng bên trong ,
Phần nào tên ấy thân đồng hư vô .

80. 

Nếu thân ở khắp mỗi phần ,
Thì toàn thân ở mỗi phần hay sao .
Còn thân thể thật ở đâu ,
Cái thân riêng chẳng phần nào tương can .

81. 

Nếu toàn thể ở mỗi phần ,
Bao nhiêu bộ phận, phải ngần ấy thân..
Thành ra vô số thể thân ,
Điều này phi lý chẳng cần đắn đo .

82. 

Cái thân không ở ngoài trong ,
Của từng mỗi một thân phần nọ kia .
Mỗi phần thân thể thật gì ,
Làm sao có một thân ly các phần .

83. 

Vậy nên biết cái thân không thật ,
Vì mê mờ các vật trong thân .
Tạo nên tâm chấp thể thân ,
Như lầm đống gạch xếp thành dáng ai .

84. 

Đá kia vẫn bị trông lầm ,
Khi bao điều kiện gây lầm chưa tan .
Khi còn tụ hội nhân duyên ,
Vẫn còn tay mặt giả danh thân người .

85. 

Như thân thể đã không thật có ,
Tay chân kia nào có thật chi .
Khi càng phân tích chẻ chia ,
Chỉ là ngón đốt li ti nhiều phần .

86. 

Chẻ chia đến mức tột cùng ,
Chỉ là những hạt không phần không phương .
Còn đâu tông tích cái thân ,
Dù trông như thật hư không khác gì .

87. 

Ai phân tích kỹ thân này ,
Lại còn tham luyến hình hài huyễn hư .
Thân dường như thể mộng mơ ,
Làm sao phân biệt trẻ già gái trai .

88. 

Kế đến xét khổ này nếu thật ,
Không bao giờ khổ tận cam lai .
Lạc không thực có mảy may ,
Vì khi đang khổ chẳng ai thích gì .

89. 

Nếu cho vì khổ đau cường liệt ,
Nên chẳng còn cảm giác lạc kia .
Nhưng chưa trải nghiệm cái gì ,
Sao thành lạc thọ được vì vô can .

90. 

“ Trong đại lạc khổ phần vi tế ,
Khổ nhỏ này cũng kể loại vui ” .
Cần chi phân tích lôi thôi ,
Có đâu cảm thọ đồng thời cả hai .

91. 

Nói “ Không khổ thọ hiện bày ,
Nơi tâm của một con người đang vui ” .
Đây là chấp trước lầm sai ,
Cái chưa hiển hiện sao bày đặt tên .

92. 

Vậy phải nên tu liền quán tuệ ,
Thấy Tính không đối trị sai lầm .
Không gì hiện hữu thật chân ,
Đây là mảnh đất dưỡng sanh nhà thiền .

93. 

Nếu có giữa căn trần khoảng cách ,
Thì làm sao có xúc sinh ra .
Nếu căn trần cũng một nhà ,
Cả hai là một ai mà gặp ai .

94. 

Hạt căn và hạt thuộc trần ,
Bằng nhau nên chẳng thể nằm trong nhau .
Không vào nhau chẳng gặp nhau ,
Đã không gặp gỡ còn đâu xúc gì .

95. 

Nếu cho chúng gặp nhau một phía ,
Tức thành ra hạt có nhiều phương .
Thì còn đâu hạt vi trần ,
Vốn là nhỏ nhất không phân được nào .

96. 

Với thức vô sắc kia cũng vậy ,
xúc trần vô lý lắm thay .
Nếu căn trần thức sum vầy ,
Phát sinh nhận biết thể nầy không chân .

97. 

Như trên xúc ấy làm nhân ,
Đã là không thực, thọ chân thật gì .
Nhọc công cầu lạc mà chi ,
Khổ nào tổn hại ai kia được nào .

98. 

Tìm tông tích không người cảm thọ ,
Lại không luôn cảm thọ khổ, vui .
Khi đà thấy được đến nơi ,
Quả kia là ái diệt ngay tức thì .

99. 

Những gì ta thấy hoặc sờ ,
Đều không có thực, mộng mơ huyễn hình .
Tâm sinh cảm thọ liền sinh ,
Nên tâm thọ chẳng tách riêng được nào .

100. 

Có thể nhớ thọ gì về trước ,
Hoặc cầu mong cảm giác về sau .
Bản thân kinh nghiệm có đâu ,
Một đầu đã quá một đầu chưa sinh .

101.

 Người cảm thọ đã không có thật ,
Nên thọ này cũng chẳng thật đâu .
Cớ sao huyễn hóa mặc dầu ,
Làm cho điêu đứng cả bầu thân tâm .

102. 

Ý thức không ở nơi căn ,
Cũng không nơi vật hay miền trung gian. .
Đã không ngoài cũng không trong ,
Hoặc nơi nào khác đều không thể thành .

103. 

Không phải thân, cùng thân không khác ,
Không hiệp thân chẳng tách rời thân .
Hoàn toàn không chút thật chân ,
Chúng sinh tánh vốn niết bàn từ xưa .

104. 

Nếu lìa cảnh vẫn còn có thức ,
Thì thức nương theo vật gì sanh .
Cả hai thức, cảnh đồng sanh ,
Thì sao thức ấy phải cần gặp duyên .

105a. 

Nếu thức xuất hiện sau đối tượng ,
Duyên cảnh gì để có thức sinh .
Vì khi thức ấy khởi lên ,
Tượng kia đã diệt thức thành trơ vơ .

105b-106a . 

Vậy nên không thể cho rằng ,
“ Sự sinh các pháp thật chân chút nào ” .
Nếu khôngtục đế đâu ,
Làm sao kiến lập hai đầu tục chân .

106b. 

“ Nếu tục đế lập vì kẻ khác ,
Đang mê lầm các pháp thật chân .
Thì làm sao để chúng sanh .
Từ đau khổ đến niết bàn an vui ” .
Dù cho có một số người ,
kinh nghiệm được niềm vui niết bàn .
Thì không khỏi kẻ nghi nan 
Vẫn còn tương đối trong vòng diệt sinh” .
Thật là có sự Vô sinh ,
Vì không liễu đạt, cho thành ngoa ngôn .
Nhưng không vì kẻ mê lầm ,
Niết bàn chân thật trở thành hư vô .

107. 

Phân biệt ấy do người chưa thoát ,
Khi ngộ rằng các pháp phi chân .
Thì đây đích thực niết bàn ,
Không còn kiến lập tục chân làm gì .

108a. 

“ Tâm phân biệt cùng là đối tượng ,
Đều tương quan vay mượn lẫn nhau .
Cảnh kia nếu chẳng thật đâu ,
Cái tâm quán sát truy cầu thật chăng ” .

108b. 

Đây là tục đế thế gian ,
Đúng theo chân đế tâm không thật gì .

109. 

Khi Không tính đã tìm ra ,
Không cần tâm nữa xét tra tâm này .

110. 

Đối tượng tâm hiển bày chẳng thật ,
Thì tâm kia mất chỗ náu nương .
Cảnh không tâm cũng không sanh ,
Chính là tự tính niết bàn an vui .

111. 

Thuyết cho rằng cảnh tâm đều thật ,
Lập luận này xét thật khó tin .
Cảnh kia do thức mà nên ,
Thức này thành lập do duyên cái gì .

112.

 Thức mà do cảnh lập ra ,
Cảnh thì ai lập thế là vần quanh .
Cảnh tâm đối đãi mà nên ,
Cả hai cần biết chẳng chân thật gì .

113. 

Không con đâu gọi là cha ,
Không cha con ấy vậy là ai sinh .
Cha con đối đãi mà nên ,
Cũng như tâm cảnh chẳng thành thật chân .

114. 

“ Như mầm từ hạt giống sanh ,
Do mầm biết có hạt nằm dưới kia .
Do tâm từ cảnh sinh ra ,
Mà ta biết được cảnh kia thật tồn ” .

115. 

Do tâm khác với hạt mầm ,
Cho nên biết hạt từ mầm nọ kia .
Nhưng khi nhận thức cảnh gì ,
Thì do đâu biết có tâm thức này .

116.

 “ Mọi sự không do gì sanh cả ” , 
Nhưng thế gian thấy có nhân sinh .
Như là rễ - cọng - hoa sen ,
Có ra do những nhân duyên hợp thành .

117. 

“ Do gì sinh sai biệt nhân ” ,
Ấy do nhân trước không từng giống nhau.
“ Từ nhân sao có quả sinh ” ,
Đấy do năng lực vận hành từ xưa .

118. 

“ Trời Tự tại sinh ra tất cả ” ,
Xin hỏi ông trời đó là chi .
“ Ngài là đất , nước , hư không ” , 
Chỉ là tứ đại chứ thần thánh chi .

119. 

Đất nước vốn vô thường nhiều thứ ,
Bị dẫm lên dơ uế không thiêng .
Không sao gọi được thần linh ,
Đặt tên là Tự tại thiên thêm rầu .

120. 

Hư không cũng chẳng là Tự tại ,
Ngã cũng không tự tại chút nào .
“ Khó tư nghì về đấng tối cao ” , 
Thế thì nói đến ông đâu ích gì .

121a. 

“ Những gì trời ấy sản sinh ,
Cái ta , đại chủng bản thân của ngài ” . 
Đã xem trường cửu trước đây ,
Sao giờ nói những thứ này được sinh .

121b. 

Trời cũng không thể sanh tâm thức ,
Duyên cảnh mà các thức liền sanh .

122a-122b

Và do tích thiện ác hành ,
Từ vô thủy kiếp nay thành thức tâm .
Nếu nhân đã là không khởi thủy ,
Quả sao mà khởi thủy được sinh .

123a-123b

Sao không sáng tạo liên miên ,
Đã là Tự tại không duyên pháp nào .
“ Quả liên tục không phát sinh .
Nhân tuy trường cửu sinh cần có duyên ” .
Đã là đấng Tự tại thiên ,
Tất nhiên không thể cần duyên tác thành .

124. 

Nếu nhiều duyên họp sinh ra quả ,
Thì duyên kia chính đã là nhân .
Các duyên nhóm họp thì sanh ,
Không duyên tụ hội bất thành vật chi .

125. 

Nếu quả sinh không do thiên dục ,
Tức là do năng lực khác sanh .
Nếu do trời muốn mới thành ,
Tức trời còn thuộc ý hành đổi thay .

126. 

Thắng luận nói hạt nhân trường cửu ,
Đã bác không thực hữu vi trần. .
Luận sư Số luận chấp rằng ,
Chúng sinh do một thường hằng chủ ông .

127. 

“ Lạc, ưu và ám bình quân ,
Là ba tánh đức chủ nhân trị vì .
Quân bình ba tánh lung lay ,
Tạo nên vũ trụ muôn loài chúng sinh ” .

128. 

Ba tính bất đồng trong một thể .
Chủ trương này phi lý lắm thay ,
Dù cho có những tính này ,
Mỗi nguyên tố phải trưng bày thành ba .

129. 

Nếu không ba tính làm nhân ,
Quả là thanh sắc chẳng từng thực chi .
Lại như vật chất vải y ,
Vô tâm nên cũng không gì lạc, ưu .

130 a.

 “ Y phục có tính như ba đức ,
Vì sinh ra lạc thọ vân vân ” .
Như trên phân biệt rõ rành ,
Không gì thật hữu: thể thân , áo quần .

130b.

 Lại theo Số luận chủ trương ,
Do nhân ba đức phát sanh áo quần .
Nhưng nhân gian cũng thấy rằng ,
Khổ vui sanh vải thật không đúng nào .

131. 

Nếu vải mà sanh ra lạc khổ ,
Không vải thì lạc khổ không sanh .
Cho nên nói lạc thường hằng ,
Tuyệt nhiên không phải thật chân chút nào .

132. 

Lạc ( ba tính ) nếu là hằng có ,
Sao không vui khi khổ phát sinh .
“ Vì khi ấy lạc tế tinh ” , 
Khi thô khi tế sao thành thường nhân .

133. 

Vậy ba tính ấy vô thường ,
Khi vầy khi khác luôn luôn đổi dời .
Sao không thừa nhận do đây ,
Hữu vi tất cả pháp này biến thiên .

134. 

Lạc đã có khi thô khi tế ,
Hiển nhiên là lạc ấy vô thường .
Trong nhân đã chẳng có chi ,
Tuyệt nhiên đâu có quả gì được sinh .

135.

Dù ông có chấp nhận rằng ,
“ Quả tuy chẳng hiện ẩn tàng trong nhân ” .
Quả mà sẵn trú trong nhân ,
Ăn vào thực phẩm cũng đồng ăn dơ .

136 a. 

Lại sao ông chẳng mua bông vải ,
Thay vì mua vải dệt thành y .
Thế gian vì vẫn còn mê ,
Nên không thấy những vật kia thể đồng ” .

136b. 

Nhưng tông chủ Số luận tông ,
Cũng mang y phục từ bông vải thành .

137a. 

Quả mà hiện hữu trong nhân ,
Thì sao người tục chẳng đồng tôn sư 

137b. 

“ Kẻ phàm tục khi chưa đắc quả ,
Kiến thức chưa có giá trị gì ” .
Những gì do họ thấy ra ,
Vậy thì cũng chẳng phải là chính chân .

138. 

“ Mọi tri thức đều sai lầm ,
Thì Không tính ấy chẳng lầm hay sao. ,
Đương nhiên nó chẳng thật nào ,
Không chân thật ích gì đâu tu hành ” .

139. 

Khi chưa thấy sai lầm chấp thật ,
Thì tính không phi thực khó bàn .
Nhưng khi vừa thấy giả không ,
Cái tâm biết huyễn chẳng cần nữa chi .

140. 

Như người nằm mộng chết con ,
Nhớ ra vốn chẳng có con cái gì .
Giả tâm biết phi hữu này ,
Khử trừ được ý tưởng về hữu kia .

141. 

Khi phân tích để làm sáng tỏ ,
Không vật gì không có nguyên nhân .
Không hề có độc một nhân ,
Hay là tập hợp các nhân khởi đầu.

142. 

Mọi pháp không do từ đâu đến ,
Không trú và diệt chẳng đi đâu .
Do tâm mê chấp nặng sâu ,
Thấy ra có thật mặc dầu huyễn hư .

143. 

Hãy tra xét dần ra manh mối ,
Sự vật do duyên hội mà thành .
Cùng bao cảnh vật huyễn sanh ,
Chúng từ đâu đến thực tình đi đâu .

144. 

Nhân duyên tu hội hiện hình ,
Nhân duyên tan rã thấy hình chi đâu .
Đời hư huyễn tợ chiêm bao ,
Cảnh duyên sinh ấy khác nào bóng gương .

145. 

Nếu cho các pháp là thật có ,
Còn cần chi tìm rõ nguyên nhân .
Nhược bằng các pháp vốn không ,
Nhọc công tìm kiếm nguyên nhân làm gì .

146. 

Dù do ức vạn nguyên nhân ,
Hữu không thể biến từ không được nào .
Vô đà không thể thành chi ,
Mất vô chẳng thể lấy gì hữu sinh .

147. 

Nếu vào lúc vô, không có hữu ,
Thì lúc nào hữu mới có nên .
Khi mà cái hữu chưa sinh ,
Đương nhiên chưa thoát khỏi vành hư vô .

148. 

Khi chưa tách khỏi hư vô ,
Hữu không thể có thời cơ hiện hình .
Cũng không thể trở thành vô ,
Hóa ra vừa hữu vừa vô một mình .

149. 

Thế nên tánh diệt bất thành ,
Tánh sinh cũng chẳng có thành được đâu. .
Chúng sinh ngay tự buổi đầu ,
Chẳng ai có diệt ai nào sinh ra .

150. 

Chúng sinh có hiện dù sao ,
Chỉ như cây chuối chiêm bao mơ màng .
Nên sinh tử với niết bàn ,
Cũng đồng một thể bước đường không hai .

151. 

Trong lý tánh xưa nay không vật ,
Thì có chi để được, mất đâu .
Có ai cung kính cúi đầu ,
Có ai khinh miệt ai đâu mà bàn .

152. 

Từ đâu vui khổ sinh ra ,
Có chi để khổ, chi mà vui chăng .
Tìm đâu cho thấy được rằng ,
Ai người tham ái ái tham cái gì .

153. 

Xét sâu trên thế giới này ,
Có ai sắp chết ai đang sinh thành .
Đã sanh và sẽ thọ sanh ,
Thật đâu thân hữu gia đình bà con .

154. 

Hỡi những ai tra tầm sự thật ,
Nhận cho rằng muôn vật huyễn hư .
Chỉ vì ham muốn riêng tư ,
Mãi hoài tranh chấp ghét thù thương thân .

155. 

Vì mưu hạnh phúc bản thân ,
Phát sinh lo lắng đấu tranh nhọc nhằn .
Có khi cốt nhục tương tàn ,
Gieo nhân ác chịu trăm ngàn khổ đau .

156. 

Dù gặp được sang giàu lạc thú ,
Chết rơi vào đọa xứ gian nan .

157. 

Trong ba cõi thực bất an ,
Bị nhiều trói buộc lẽ chân khó tìm .

158. 

Trải bao xiết vô vàn thống thổ ,
Lực thiện hành thì quá nhỏ nhoi .
Thời gian thấm thoắt như thoi ,
Thoáng qua già chết mất toi kiếp người .

159. 

Chỉ vì lo giữ mạng này ,
Chịu bao đói khát đọa đày tấm thân .
Một đời lo chuyện ngủ ăn ,
Bị người tác hại ác nhân bạn bầu .

160. 

Một đời vô nghĩa chóng qua ,
Không từng thấy vạn phápTính không. .
Đời nay có cách gì chăng ,
Diệt trừ tán loạn trong tâm ý này .

161. 

Thế lực của quỷ ma rất mạnh ,
Khiến sa vào bất hạnh lớn lao .
Đường tà nẻo ác dấn sâu ,
Đâu là chính đạo không sao tỏ tường .

62. 

Khó thay được lại thân người ,
Khó thay gặp Phật ra đời độ sanh .
Khó thay đoạn dứt vô minh ,
Thương thay thống khổ liên miên hữu tình.

163. 

Mây trôi bèo giạt lênh đênh ,
Ngu si chẳng ý thức mình khổ đau .

164. 

Kẻ thì nước lửa lao đầu ,
Hành thân hoại thể tự kiêu hạnh tà .

165. 

Sống như chẳng bao giờ già chết ,
Theo sắc thanh mê mệt đảo điên .
Tử thần đoạt mạng trước tiên ,
Sau còn ác đạo triền miên đọa đày .

166. 

Bao giờ phước như mây tích tụ ,
Giáng cơn mưa pháp vũ cam lồ .
Lửa hừng phiền não tan mau ,
Chúng sinh an lạc đạo mầu chứng nên .

167. 

Bao giờ tâm được rỗng rang ,
Hằng duyên Không tính, không duyên pháp nào .
Chúng sinh chấp hữu sầu đau ,
Tính không diệu pháp giải bao khổ nàn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12473)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10343)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12321)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11622)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28779)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12026)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12992)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11431)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12344)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17428)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52988)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35468)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21362)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10665)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19215)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12395)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26009)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13302)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14354)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16065)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13714)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16821)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17550)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13109)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12510)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11599)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11583)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14488)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20437)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18958)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19530)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18616)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12171)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12286)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13831)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14993)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15023)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13972)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15505)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11380)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17156)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14955)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20169)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14601)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13822)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11691)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15035)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12977)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22843)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14540)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11639)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13146)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16853)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18321)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11925)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11487)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15827)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12862)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18885)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18407)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant