Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bạt Dẫn Đề Mục Đàu Kinh

24 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7272)
Bạt Dẫn Đề Mục Đàu Kinh
PHÁP HOA ĐỀ CƯƠNG
Hòa Thượng Thanh Đàm
Chùa Bích Động, Ninh Bình 1820
Việt Dịch: Thích Nhật Quang - Tu Viện Chân Không 1973

 BẠT DẪN ĐỀ MỤC ĐẦU KINH

 Năm chữ Diệu Pháp Liên Hoa kinh rất là sâu xa kín đáo. Văn khí mạnh mẽ của toàn bộ đều gồm chứa trong đó. Áo chỉ của một kinh, cũng gói trọn trong đó. Cho đến nguồn chân biển nghĩa của các kinh, cũng đều chung về nơi đây và đạo lớn thiên tánh của các sách, cả thảy hội qui trong đấy. Nêu đề mà lý đã khắp, mở mục mà tâm rạng ngời.

 Lớn thay, kinh Diệu Pháp Liên Hoa ! Chẳng thể suy nghĩ, luận bàn mà được.Nay tôi tự gạn lọc tâm tư giải trắng ra, để làm pháp thí. Nguyện đem lợi ích cho đời sau, đồng vào tri kiến Nhất thừa vậy.Diệu tức chỉ cho tâm trong sạch xưa nay. Tâm này từ vô thủy đến giờ tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên. Ở thánh chẳng thêm, nơi phàm chẳng bớt. Nhiễm mà chẳng nhơ, rửa mà chẳng sạch. Lặng lẽ tròn đầy pháp giới, ngất ngất khắp giáp hư không. Tâm là bản nguyên của chư Phật, tâm là Phật tánh của chúng sanh. Nguyên chẳng phải tướng mà tướng từ đó hiện. Vốn là chân không mà không từ đó sanh. Như hạt châu ma-nitrong sạch, không có các sắc mà theo đó thành các sắc. Lại như biển giác lặng lẽ tròn đầy, chiếu nơi sáu trần mà chẳng nhận một trần. Là họa sư của thập ban pháp giới, là trí mẫu của tất cả Như Lai.

 Thế nên kinh Hoa Nghiêm nói:

 Nếu người muốn biết rõ,
 Ba đời tất cả Phật,
 Nên quán tánh pháp giới,
 Tất cả do tâm tạo.

 Chỗ rốt ráo của tu hành, cũng chỉ xét tột tâm này mà thôi.

 Hỏi: Linh diệu của tâm này như thế, phải từ chỗ nào mà thấy được ?

 Đáp: Phàm có nói năng, biểu thị, đều chẳng thể được.

 Kinh nói:

 Thôi thôi chẳng cần nói,
 Pháp ta diệu khó nghĩ,
 Những người tăng thượng mạn,
 Nghe hẳn chẳng kính tin.

 Nói thôi thôi tức là bản thể bất động của tâm, chẳng cần nói, tức là rõ chẳng phải nói năng, chỗ có thể biểu thị đến. Ta tức chỉ bản tâm của tự mình. Pháp tức chỉ ứng dụng của tri kiến. Diệu tức là linh diệu của tâm này sanh ra các pháp, mà tìm tướng nó chẳng thể được. Khó nghĩ tức suy nghĩ cũng chẳng đến nơi.

 Tổ sư bảo: “Cử tâm tức lầm, động niệm liền trái”.Nên nói: “Chẳng thể nghĩ, chẳng thể nghị, chẳng thể xứng, chẳng thể lường, chẳng thể nói...” cưỡng gọi là Diệu. Vì thế, mà bảo rằng Diệu khó nghĩ.Tăng thượng mạn, tức trước tướng chấp pháp, là bọn cỡi trâu tìm trâu, đem đèn tìm lửa, trên tuyết thêm sương, nên gọi là tăng thượng mạn. Tức là tự khi mình, bảo rằng linh diệu của tâm kia là của Phật Tổ, chẳng phải ta có, nên hướng bên ngoài chạy tìm, gọi là tăng thượng mạn.Nghe hẳn chẳng kính tin, là do đã tự khi mình, chẳng phải vật của ta, nên chẳng cần yêu giữ. Như chàng cùng tử kia, đó là chẳng kính tin. Nếu hay tự nhận ra trân báu trong nhà mình, thì không còn tự khi, cũng chẳng nghèo đói mãi. Mỗi niệm mỗi niệm xoay trông lại Diệu Quang, chẳng dùng Cầu Danh đuổi theo vọng thức, gọi là kính tin. Kính tin lại thêm kính tin, một vật Diệu của báu trong nhà ta, nếu có thì cùng lúc.

 Thôi thôi chẳng cần nói !
 Tụng Diệu Diệu rằng:
 Khôn hình khôn trạng cũng khôn danh,
 Diệu tại trong đây một điểm linh,
 Lặng lẽ thường soi suốt pháp giới,
 Xưa nay trong sạch, rạng chân tinh,
 Do đấy sanh ra các đức Phật,
 Cũng lại, hình thành cả chúng sanh,
 Ôi thế ! Chúng sanh quên cha giác,
 Cam làm cùng tử chạy linh đinh.
 Nan hình, nan trạng, diệc nan danh,
 Diệu tại kỳ trung nhất điểm linh,
 Thường tịch viên thông minh pháp giới,
 Bản lai thanh tịnh oánh chân tinh,
 Do tư năng xuất sanh chư Phật,
 Diệc thị thành vi hữu chúng sanh,
 Thán nhĩ ! Chúng sanh mê giác phụ,
 Cam vi cùng tử tẩu linh bình.

 Pháp, tức tất cả pháp. Tất cả pháp là ứng dụng của một diệu tâm. Một diệu tâmlinh nguyên của tất cả pháp. Nói pháp tức là tâm, bảo tâm chính là pháp. Pháp là cái tùy duyên của Diệu hữu, chẳng nhiễm gọi là Diệu pháp. Tâm là cái ứng vật của chân không, ly trần chính nó là chân tâm. Luận về chân tâm thì đâu nhờ thi vi.

 Nói Diệu pháp thì chẳng ngại tu chứng, nhưng pháp môn tu chứng có đến vô lượng, nên chọn môn nào gần gũi thích hợp mà vào.Vả lại, pháp dù có vô lượng, chẳng qua đều gồm vào ba pháp là: Căn pháp, Trần pháp và Thức pháp. Song ba pháp này, đều là cái bày hiện của Diệu tâm. Nên nói: “Pháp từ tâm mà khởi, tâm là nguồn các pháp”. Một niệm tối sơ bộc phát, tự là vạn ban biến hóa. Triển chuyển lưu lãng, sanh diệtluân hồi. Đến nay vẫn còn theo vọng quên chân, khác nào chàng Diễn Nhã[(1)] quên đầu nhận bóng. Nay, muốn mở bày để chóng ngộ nguồn tâm, trước phải rõ thức pháp là huyễn ảnh, trần pháp là hư hoa, đều chẳng có thể dùng làm chỗ tu nhân.

 Hãy trực tiếp lấy căn pháp làm nhân gần cho tu chứng. Bởi trần không có tự thể, nhân căn mà hiện. Như mắt bệnh thấy hoa đốm giữa hư không. Nên nói: “Trần là hư hoa, vốn không tự thể”.Thức không tự có, nhân trần mà sanh, như vật hiện bóng trong gương. Nên nói: “Thức là huyễn ảnh, nguyên không tự có”.Thế thì, thức có sanh diệt, trần có đến đi, cái sanh diệt đến đi ấy, tức là pháp vô thường. Chỉ có căn tánh là thường tự tại, nên đức Phật chỉ căn tánh này là diệu căn, căn pháp là diệu pháp. Bởi căn pháp dù cũng do tâm hiện ra, vẫn như ấn mắt hiện ra mặt trăng thứ hai, song mặt trăng thứ hai cùng mặt trăng thứ nhất không khác. Chỉ lúc ấn thì có, lúc biết thì không, hoàn toàn đồng với mặt trăng thứ nhất, chẳng phải có khác như bóng cùng ánh sáng. Nếu lúc đới vọng, thì căn tánh là cái thứ hai của tâm. Vô tướng linh tri là cái thứ nhất của tâm. Nhưng căn tánh cùng với linh tri nguyên chẳng khác thể, chỉ lúc mê thì có, khi ngộ liền không, hoàn toàn đồng với tâm trong sạch xưa nay. Vô tướng linh tri thể chân thật, chẳng phải hư huyễn như trần thức vô thường thay đổi kia. Thế nên đức Phật chỉ thẳng căn tánh là nhân gần nhất của tu chứng, khiến các chúng sanh từ căn mà vào. Vào dòng, trở lại đầu nguồn tự thấy tâm thể xưa nay của mình vậy.

 Hỏi: Tại sao chẳng chỉ thẳng cái thứ nhất là tâm diệu xưa nay, mà lại chỉ cái thứ hai là căn tánh làm nhân tu ?

 Đáp: Tâm vốn không hình, cố nhiên là không thể chỉ. Trước đã chẳng nói rồi ư ? Phàm có nói năng biểu thị đều chẳng thể được. Nhưng tâm tuy không hình mà tùy chỗ ứng dụng của căn có dấu vết. Có dấu vết, thì có thể chỉ ra, khiến từ dấu vết của ứng dụng, nhân ánh sáng mà tự thấy đầu nguồn tâm.

 Hỏi: Dấu vết hiện giờ ở đâu ?

 Đáp: Tại trên sáu trần cảnh, hiện dấu vết kia. Bởi nhân sắc mà hiện thấy, nhân tiếng mà bày tỏ nghe, thì sáu trần là dấu vết ứng dụng của sáu căn. Nay muốn được dấu vết của căn, chỉ ngay trên cảnh sắc thinh ấy thấy nghe là phải.Nên biết rằng, dụng của căn tức dụng của tâm, biết của căn tức biết của tâm. Nơi căn có sáu dụng, mà tâm thể vốn một linh minh. Phật Phật chỉ truyền pháp căn này, thầy thầy đồng trao tâm tông ấy. Chỗ đầu cơ khai thị của các kinh, từ đấy mà được trí căn bản. Truyền trì pháp ấn trải qua các đời, cũng lấy đây để phát giác tâm ban đầu. Chỉ theo chỗ cạn sâu, mà có chứng mau chậm đó thôi.Lại cần biết, pháp này theo chỗ đặt tên, có vô lượng sự sai khác, đều là pháp ấy mà tên không đồng. Lại danh hiệu của chư Phật và đề mục của các kinh, cũng đều là tên khác của tâm pháp này thôi.

 Hỏi: Tâm này truyền thọ thế nào ?

 Đáp: Đức Thế Tôn đưa cành hoa, ngài Ca Diếp mỉm cười. Về sau, các Tổ truyền trì, cơ đầu chẳng phải một. Người ngộ tự biết vậy.

 Hỏi: Làm sao tu trì ?

 Đáp: Dừng ! Dừng !Lại Thiền sư Đạo Xuyên bảo:Tri âm tự có gió, tùng hòa;Gió mát, trăng trong, khoảng bao la.Lại bảo:Ở tâm đắc, ở tay ứng,Tuyết gió trăng hoa,Trời cao, đất dày,Sáng sáng gà hướng canh năm gáy,Xuân lại nơi nơi hoa núi xinh.

 Hỏi: Rốt ráo là gì ?

 Đáp: Hòa thượng Phổ Hóa nói: “Tìm chỗ đi chẳng thể được”. Lại nguyện kệ trong kinh Hoa Nghiêm nói:Lạy đấng Hoa Nghiêm biển chân tánh,Các thứ ánh sáng chiếu cùng khắp,Muôn hạnh Phổ Hiền tùy trang nghiêm,Tất cả chân như pháp giới tạng.

 Trân trọng ! Trân trọng !

 Tụng Pháp Pháp rằng:

 Số lượng trần sa pháp có đây,Chẳng qua căn trần thức dựng xây,Hư ảnh, huyễn duyên, luống khởi diệt,Chân tri, chánh kiến lặng tròn đầy,Trong đây phát giác tìm thầy dẫn [(1)],Trên lộ quay về, hội Phật ngay,Ví muốn chóng lên chân bảo sở,Đường đi trước mắt, chớ dông dài.Trần sa số lượng pháp tuy đa,Bất quá căn, trần, thức dã ma,Hư ảnh, huyễn duyên đồ khởi diệt,Chân tri chánh kiến trạm viên đà,Cá trung phát giác tầm sư đạo,Đạo thượng toàn nguyên nhập Phật gia,Nhược dục tốc đăng chân bảo sở,Mục tiền tiến lộ mạc tha đà. Liên, lấy đây để tỷ dụ cho hai chữ Diệu pháp nói trên.Bởi vì hoa sen sanh trong bùn, mà chẳng nhiễm mùi bùn, nổi trên nước, mà chẳng thấm chút nước, tánh thuần dương vậy. Hoa trái cùng lúc, không có trước sau. Dụ cho tâm ở trong trần lao mà chẳng dơ bẩn, tại phiền não mà chẳng bối rối.Xưa nay trong sạch, chẳng phải cái sạch sẽ của rửa hết nhơ. Xưa nay thường lặng, chẳng phải cái lặng lẽ của loạn được định. Xưa nay toàn sáng, chẳng phải cái sáng suốt của mặt trời, mặt trăng cùng ánh đèn. Là riêng sáng thuần khắp, là diệu tánh tịch chiếu thường quang vậy.Tâm cảnh hỗ dụng, có không phân biệt.Tụng Liên Liên rằng:Sen xanh, ngó trắng, cọng vươn ra,Chẳng nhiễm bùn nhơ, vượt thủy ba,Lá lá nở tròn, màu xanh biếc,Cành cành đứng thẳng, khắp sum la,Tuy ở cảnh âm, thuần dương tánh,Dù trong bùn đọng, chẳng ướt mà,Thí dụ, đạo tâm trong thế đấy,Tâm này làm Phật, chính là ta.Thanh liên bạch ngẫu dũng hành đa,Bất nhiễm ô nê xuất thủy ba,Chúng diệp viên khai đồng bích lục,Quần căn trực thụ biến sum la,Tuy cư âm cảnh thuần dương tánh,Cố tại nê trung bất thấp da,Thí dụ đạo tâm thanh nhược thị,Thử tâm tác Phật, bản phi tha. Hoa là nở ra tỏ rõ, người người cùng thấy, mỗi mỗi cùng biết. Thấy biết tròn sáng, là nghĩa hoa nở.Nên biết, hoa tức sen, mà sen tức hoa. Lại phải rõ, thấy biết tức là tâm, mà tâm tức là thấy biết. Nhưng tâm lúc chẳng động, thấy biết chẳng sanh, há không thấy biết. Dụ cho sen lúc chưa hóa, hoa sen chưa có đâu chẳng sanh hoa. Thế là sen gồm chứa hoa, như tâm gồm chứa thấy biết.

 Hỏi: Thấy biết vốn đồng, thế nào gọi là thấy biết của chúng sanh ? Sao gọi là thấy biết của Phật?

 Đáp: Kinh Lăng Nghiêm nói:Thấy biết chấp thấy biết,Chính là gốc vô minh,Thấy biết không thấy biết,Đây tức là Niết-bàn.

 Hỏi: Làm thế nào khai Phật tri kiến, khiến được trong sạch ?

 Đáp: Kinh Lăng Nghiêm nói:Cuồng tâm tự hết,Hết tức Bồ-đề,Chỉ sạch phàm tình,Không riêng thánh giải.Tụng Hoa Hoa rằng:Giữa bùn vọt hiện rất nhiều hoa,Hoa ấy là sen chẳng khác mà,Cội gốc chẳng nhơ, như bùn nước,Tùy cành mà hiện, bạch hồng hoa,Lúc nở thơm xa, người hay biết,Trong búp nhân tròn tự lớn ra,Thật dụng cứu sanh, trừ các bệnh,Hoa sen dụ thể diệu căn ta.Nê trung dũng hiện chúng đa hoa,Hoa nãi liên sanh phỉ thị tha,Như bản bất ô nê thủy loại,Tùy căn nhi hiện bạch hồng hà,Khai thời hương viễn nhân tri kiến,Uẩn xứ nhân viên tự trường da,Thật dụng cứu sanh trừ chúng bệnh,Liên hoa dụ nhược diệu căn gia.

 Kinh là lối tắt, là đường tắt vào đạo. Lại kinh là thường pháp, muôn đời chẳng đổi, cũng chính là văn tự Bát-nhã. Văn tựghi khắc những ngôn ngữ, ngôn ngữ là sự máy động của lưỡi, lưỡi là mầm mống của tâm, tâm là cái linh ứng của diệu. Một chữ diệu này, tôi thật không thể giải bày, chỉ biết văn tự trong kinh, là diệu dụng của tâm thôi. Nên kinh nói: “Từ tơ, tức là sợi chỉ, hay xỏ thành một xâu làm nghĩa”.Nếu tâm là thể của văn tự, thì văn tự là dụng của tâm. Nhưng tâm thể tuy một, mà dụng của tâm khi biến thành tướng của văn tự thì vô lượng, là nhất ấnấn thành vô lượng. Nay muốn đem vô lượng làm một, tức phải lấy một sợi chỉ mà xỏ suốt cả lại, hợp thành một xâu. Nói xâu, nghĩa là suốt khắp không gì chẳng khắp, không gì chướng ngại. Lại xâu đó, tuy bảo rằng văn tự Bát-nhã, mà xâu suốt cả quán chiếu Bát-nhã [(]1), lý diệu không hai.

 Thế nên, kinh Kim Cương nói: “Nếu chỗ nào có kinh điển này, tức chỗ đó hiện có Phật”. Nhưng kinh là do kim khẩu đức Thích Tôn nói ra. Dù có thánh nhân ba thừa, hàng thiên long quỷ thần nói ra mà Phật thừa nhận hứa khả, mới được gọi là kinh. Ngoài ra thì chẳng được. Cẩn thận chớ nói ngang nói dọc, phỏng đoán mê hoặc người, mà chuốc tội vô gián.Tụng Kinh Kinh, văn tự Bát-nhã rằng:Toàn nhờ giấy mực chứa chân châu,Châu số rất nhiều Đại tạng lưu,Lưu chép văn chương thật diệu pháp, Pháp còn tông chỉ nguồn đạo lưu,Lưu thông sự lý trong khuôn nhiếp,Nhiếp lấy ngôn thuyên, trọn gồm bao,Bao quát Thánh, phàm rành thể dụng,Dụng thì kinh mục thấy tâm đầu.Toàn bằng chỉ mặc uẩn chân châu,Châu số đa đa đại tạng lưu,Lưu ký văn chương chân diệu pháp,Pháp tồn tông chỉ đạo nguyên lưu,Lưu thông sự lý qui trung nhiếp,Nhiếp thủ ngôn thuyên nhất nội bao,Bao quát thánh phàm minh thể dụng,Dụng thời kinh mục kiến tâm đầu.Lại tụng kinh quán chiếu Bát-nhã rằng:Đưa lên sợi chỉ xỏ minh châu,Hợp nhiều về một chứa bền lâu,Xuyên thẳng trung tâm rồi thoát khỏi,Suốt thông trong ấy khắp châu lưu,Một sợi đầu đuôi, đều tùy tiếp,Trước sau đầu mối, thảy gồm thâu,Uyển chuyển liên hoàn, thường chiếu dụng,Xưa nay chẳng đổi, cái tâm đầu.Đề tương tuyến lộ quán minh châu,Hiệp chúng đa qui nhất nội lưu,Trực đạt không trung toàn thoát xuất,Xuyên thông giá lý phổ châu lưu,Nhất điều thủ vỹ giai tùy tiếp,Thuần tự sơ chung đại tổng bao,Uyển chuyển liên hoàn thường chiếu dụng,Cổ kim bất dịch cá tâm đầu. PHỤ TỤNG KHAI THỊ NGỘ NHẬP NHẤT PHẬT THỪA TRI KIẾN ĐẠO TRÍ TUỆ TÔNG CHỈ

 Trước nói bốn chữ: Khai, Thị, Ngộ, Nhập. Bốn chữ này là Tông chỉ của toàn bộ kinh.

 KHAI, là phá vỡ màng vô minh vọng tưởng thức tâm kia. Bởi chúng sanh từ bao lâu rồi, chấp nhận vô minh vọng tưởng thức tâm này làm tự thể của mình. Niệm niệm vin theo trần cảnh, bị trần cảnh làm trở ngại không ít. Chẳng rõ thức tâm này, là huyễn ảnh của duyên trần. Nhân trần mới có, chẳng phải có saün lâu nay. Nên cũng gọi là tâm phan duyên, tâm vọng tưởng, tâm vô minh, tâm phiền não, tâm phân biệt, tâm trần lao, tâm hữu vi, tâm sanh diệt... bao nhiêu thứ danh tự, cũng đều là tên khác của thức tâm này thôi. Đã chấp nhận những thứ này là tâm, tức trái mất diệu tánh của sáu căn, lâu nay trong sạch, là Phật tri kiến đạo. Thế ấy, căn tánh còn mê, thì làm sao biết có diệutâm vô tướng vô vi chân như thanh tịnh ? Ví như mây che trăng sáng, hoàn toàn không có ánh chói ra. Ánh sáng còn chẳng biết, đâu có thể biết được mặt trăng ư ?Vì thế, trước cần phá bỏ màng thức tâm vô minh vọng tưởng, bày ra căn tánh. Như mây mở toang, thì ánh sáng chói tự xuất hiện.Trong kinh, từ quyển đầu đến quyển 4, phẩm Pháp sư thứ 10 là phần Khai.

 THỊ, tức đã khai phá vọng chấp kia rồi, bèn chỉ thẳng cái tri giác tròn sáng, chính thật là diệu tánh trong căn, lâu nay trong sạch, là Phật tri kiến. Dụ như mây tan, ánh sáng hiện. Ánh sáng ấy, chính là sức chiếu soi của mặt trăng vậy.

 NGỘ, nghĩa là đã nhờ ơn được khai phá thức tình; hiển thị căn tánh, khoát nhiên nhận được tri kiến Phật, lâu nay trong sạch.Nên biết rằng thị và ngộ đồng thời, không có trước sau. Nhưng thị thuộc người nói, còn ngộ phải chính tự mình.Trong kinh, từ quyển 4 phẩm Hiện Bảo Tháp, đến quyển 6, phẩm Như Lai Thần Lực thứ 21 là phần Thị Ngộ.

 NHẬP, là ngộ được căn tánh, đã là tri kiến Phật. Bèn khiến trở lại tri kiến kia, từ căn mà vào, xoay về quán bản thể của tri kiến. Dụ như được ánh sáng, rồi tìm thấy thể thật của mặt trăng.Nói Nhập, nghĩa là căn tánh kia, dù thấy biết là thường lặng lẽ, nhưng từ lâu nay một bề hướng ngoại bôn tẩu rong ruổi nơi những trần cảnh, theo vọng lưu chuyển mà chẳng tự biết. Nay đã phát giác, tức bèn chóng rõ vọng tìnhcảnh giới vọng trần. Nhổ lấy tri kiến, xoay vào bản căn. Từ con đường chánh giácthâm nhập, tìm thấy tâm diệu chân như, lâu nay trong sạch.

 Do đó, kinh nói: “Nhập Phật tri kiến đạo” vậy.Lại phải biết, căn thức chẳng phải hai, chỉ tại trần thì gọi là thức. Tri kiến gọi là căn tánh. Như duỗi nắm tay thì thành bàn tay, mà co lại hẳn thành nắm tay, vốn chẳng phải hai thể.Trong kinh từ quyển 6, phẩm Phó Chúc, đến quyển 7, phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản sự thứ 27 là phần Nhập.Nên biết rằng ba phần Khai, Thị Ngộ và Nhập là phá vọng hiển chân đã xong. Nhưng vẫn là tự lợi, chưa có thể lợi tha, nên phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát là khuyên khiến tích cực thực hành hạnh lớn lợi tha, rộng độ tất cả chúng sanh đồng thành chánh giác, mới là chỗ tu hành rốt ráo. Đấy cũng là tông chỉ của toàn kinh vậy. 

 CÁC CHỮ PHỤ TỤNG, TỤNG 14 CHỮ TỒNG NHIẾP DIỆU NGHĨA, ĐỂ TIỆN NGOẠN ĐỌC.

 KHAI Từ lâu chưa biết áo có châu,Chốn chốn theo duyên hướng ngoại cầu,May nhờ thân hữu vạch áo chỉ,Tạn mặt lưu ly mới lộ đầu.Tùng lai vi giác lý y châu,Xứ xứ tùy duyên hướng ngoại cầu,Hạnh mông thân hữu tương y phá,Diện thượng lưu ly xuất lộ đầu.

 THỊ Vạch áo chỉ rồi thấy hạt châu,Từ nay gắng lấy chớ tìm cầu,Dùng báu ma-ni như ý ấy,No cơm ấm áo thỏa tâm đầu.Tương chi phá liễu hiển kỳ châu,Nãi giáo tùng kim khả tức cầu,Dụng thử ma-ni như ý châu,Sung y túc thực mãn tâm đầu.

 NGỘ Từ ngày thấy được bản minh châu,Hớn hở lòng vui chẳng chạy cầu,Tự tại thường gìn luôn sáng chiếu,Trang nghiêm xinh đẹp ngã thân đầu.Tự tùng đắc biến bản minh châu,Khánh hỷ vu trung bất biệt cầu,Tự tại thường trì quan chúc chiếu,Trang nghiêm tú lệ ngã thân đầu.

 NHẬP Dù nay đã nhận tự trân châu,Vẫn hận từ lâu rong ruổi cầu,Liền cầm châu ấy mà phản chiếu,Quay về bến giác đến nguồn đầu.Tuy kim dĩ ngộ tự trân châu,Thả hận tiền chi thiệp viễn cầu,Tức bỉnh kỳ châu nhi phản chiếu,Toàn qui giác đạo chí nguyên đầu.

 NHẤT Quên trần nhiếp thức vào đầu căn,Không hai không ba hợp một chân,Hiểu một tức ba, ba tức một,Một là vô lượng ấn thành văn.Vong trần nhiếp thức nhập nguyên căn,Vô nhị vô tam hợp nhất chân,Hội nhất tức tam tam tức nhất,Nhất vi vô lượng ấn thành văn.

 PHẬT Căn trần thức pháp vốn nguyên phi,Một ánh linh quang hiện tức thì,Nhiếp có về không, không một vật,Ngời ngời tỏ rạng, giác linh tri.Căn trần thức pháp bản nguyên phi,Nhất diệu linh quang hiện hữu chi,Nhiếp hữu qui vô vô nhất vật,Thường đương độc lộ giác linh tri.

 THỪA Nương căn bản tánh để tu trì,Sáu dụng sáng tròn tự giác tri,Chọn một viên thường thông lợi nhất,Nhân đây vào thẳng đến vương kỳ.Y căn bản tánh dĩ tu trì,Lục dụng viên minh tự giác tri,Tuyển nhất viên thường thông lợi giả,Thừa chi trực nhập chí vương kỳ.

 TRI Lẫn trong trần thế, riêng thanh kỳ,Diệu tợ hoa sen, chẳng nhiễm chi,Nhả ngậm mười phương, viên giác chiếu,Thánh phàm đồng vậy, một chân tri.Hỗn cư trần thế biệt thanh kỳ,Diệu nhược liên hoa bất nhiễm ô,Hàm thổ thập hư viên giác chiếu,Thánh phàm đồng thử nhất chân tri.

 KIẾN Trên cảnh sáu trần chẳng từng ly,Một thể đồng soi chánh biến tri,Trần tướng đến đi không với có,Nương quán tự tại hỏi rằng chi.Lục trần cảnh thượng bất tằng ly,Nhất thể đồng quán chánh biến tri,Trần duyên khứ lai không hữu tướng,Y quán tự tại vấn vân thùy.

 ĐẠO Thẳng bằng bình dị chánh chân như,Lớn rộng dung thông rực thái hư,Một khi thấu suốt lên giác địa,Thánh hiền đâu chẳng vào đây ư ?Thản di bình dị chánh chân như,Quảng đại dung thông thước thái hư,Nhất đạt kỳ trung đăng giác địa,Thánh hiền hà mạc nhập do kỳ.

 TRÍ Vừa biết cảnh trần tức toàn nguyên,Chẳng muội căn đầu trí chánh viên,Tròn lặng rỗng soi châu tự tánh,Xưa nay tri trí một chân nguyên.Tài tri trần cảnh tức toàn nguyên,Bất muội căn đầu trí chánh viên,Viên tịch đổng minh hoàn tự tánh,Bản lai tri trí nhất chân nguyên.

 TUỆ Từ căn phát hiện nghìn muôn ban,Bóng trần rành rẽ biến chiếu quan,Rỗng suốt trong tướng là y đấy,Hành nhân thôi biện thức tâm an.Tùng căn phát hiện vạn thiên ban,Trần tượng chiêu chương biến chiếu quan,Đổng triệt tướng trung y giá cá,Hành nhân hưu biện thức tâm an.

 TÔNG Không hình, khôn thể rõ chân dung,Ví muốn tìm y, nên hỏi tung,Tung tích chân văn, đâu chỗ đúng ?Biết rằng ấn hiện sáu trần trung.Vô hình nan khả hiểu chân dung,Nhược dục tầm chi khả vấn tung,Tung tích chân văn hà xứ thị,Đương tri ấn hiện lục trần trung.

 CHỈ Xét khắp cảnh trần tìm chân tông,Trên cảnh quán trần, tạp lẫn đồng,Khéo nói vì người, phân tích rõ,Rằng trần huyễn vọng, hiển quán tung.Biến quán trần cảnh mích chân tông,Cảnh thượng quán trần tạp hỗn đồng,Thiện đạo vi tha phân chỉ thác,Ngôn trần huyễn vọng hiển quán tung.
 
 

 [(1)] Diễn Nhã Đạt Đa, người ở thành Thất La Phiệt (Sravacti-Xá Vệ). Một sớm anh soi gương thấy đầu của mình hiện bóng trong gương, mắt mũi xinh đẹp khả ái. Khi úp gương anh lại tự hỏi sao không thấy đầu... Từ đó, anh phát cuồng, ngỡ rằng mình không có đầu và rồi hốt hoảng chạy khắp thành phố. Nhân đấy, trong hội Lăng Nghiêm đức Phật đem việc này ví cho những người chưa nhận ra chân tâm của mình. Mảng chạy theo thức tình vọng tưởng lăng xăng bên ngoài. Một lúc nào đó, thức tình vọng tưởng kia tự lặng, họ cảm thấy mất mình, và lại chạy rong kiếm tìm không thôi. Đâu biết rằng, vọng vốn không nhân, đều từ chân tâm diệu minh của mình dấy khởi. Một khi chiếu biết chính nó liền không, còn đâu chạy cuồng như chàng Diễn Nhã Đạt Đa kia ư ?
 [(1)] Thầy dẫn: Tức chỉ cho vị đại đạo sư hay chân thiện tri thức. Người sáng suốt rành rõ đường đi có thể hướng dẫn mọi người từ ngả chông gai nguy hiểm đến chỗ giải thoát yên vui. Trong các kinh điển Đại thừa của Phật giáo, thường ví cho đức Phật và các vị đại Bồ-tát mới làm nổi việc này.
 [(]1) Bát-nhã chính là đại giác viên thường có ba đức:
 1 - Thật tướng Bát-nhã. Đấy là lý thể của Bát-nhã. Lý thể này, từ xưa tới giờ mọi người đều saün đủ, nhưng phải xa lìa tất cả những tướng hư vọng bên ngoài kia, mới vào được thật tánh của nó và hiển lộ được lý thể Bát-nhã này.
 2 - Quán chiếu Bát-nhã. Tức là dùng thật trí quán chiếu lại thật tướng.
 3 - Phương tiện Bát-nhã. Cũng chính là văn tự Bát-nhã, là dùng quyền trí để phân biệt các pháp.
 Nói rõ hơn, Bát-nhã là thứ trí tuệ vượt ngoài tham sân si, dứt hết các nghi lầm và tự mình thông đạt một cách minh liễu. Gồm có ba thứ:
 a - Thật tướng Bát-nhã: Trí tuệ cao tột, là cái linh tri tự nhiên mỗi người có saün, còn mãi.
 b - Quán chiếu Bát-nhã: Trí tuệ siêu xuất hay quán sát chiếu liễu và phân biệt các pháp. Trí tuệ này nhờ thiền định mà mở thông.
 c - Văn tự Bát-nhã: Tức là những sự lý sáng suốt cao diệu chứa saün trong các kinh điển Phật nói.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10248)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12230)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11526)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28680)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11926)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12897)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11340)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12256)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17275)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52688)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35367)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21200)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10585)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19085)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12303)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25828)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13204)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14268)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15955)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13625)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16708)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17399)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13012)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12427)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11521)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11469)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20258)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18810)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19414)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18491)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12100)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12184)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13740)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14885)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14953)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13859)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15413)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11295)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17016)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14827)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20039)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13745)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11627)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14925)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12883)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22748)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14470)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11541)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13076)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16775)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18236)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11856)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11410)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15711)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12788)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18781)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18257)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant