Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 1: Phẩm Tự

25 Tháng Năm 201000:00(Xem: 8566)
Phẩm 1: Phẩm  Tự
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
GIẢNG GIẢI

Hoà thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Chân Không

 

PHẨM TỰ


Thông thường ở mỗi bộ kinh, phần đầu là tự. Phẩm Tự nói lên ý nghĩa tổng quát toàn bộ kinh. Các kinh mở đầu đều có Lục chủng chứng tín. Đó là sáu điều chứng cứ của ngài A-nan nêu ra, để người nghe có đủ lòng tin pháp Ngài tụng là do Phật nói. Lục chủng chứng tín giống như một biên bản của thơ ký trong phiên họp ngày nay vậy.

CHÁNH VĂN:

1.- Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, nơi thành Vương Xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một muôn hai nghìn người câu hội. Các vị đó đều là bực A-la-hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong, dứt sự ràng rịt trong các cõi, tâmđược tự tại.Tên của các vị đó là: A-nhã Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Dà-gia Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nậu-lâu-đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề, Ly-bà-đa, Tất-lăng-già-bà-ta, Bạc-câu-la, Ma-ha Câu-si-la, Nan-đà, Tôn-đà-la Nan-đà, Phú-lâu-na-di-đa-la-ni Tử, Tu-bồ-đề, A-nan, La-hầu-la v.v... đó là những vị đại A-la-hán hàng trí thức của chúng.

Lại có bực hữu họcvô học hai nghìn người.

Bà Tỳ-kheo ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng với quyến thuộc sáu nghìn người câu hội. Mẹ của La-hầu-la là bà Tỳ-kheo ni Gia-thâu-đà-la cũng cùng với quyến thuộc câu hội.

2.- Bực đại Bồ-tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều chứng đặng pháp Đà-la-ni nhạo thuyết biện tài, chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm nghìn chư Phật, ở nơi các đức Phật trồng các cội công đức.

Thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí huệ của Phật, thông đạt đại trí đến nơi bờ kia, danh đồn khắp vô lượng thế giới,có thể độ vô số trăm nghìn chúng sanh.

Tên của các vị đó là: Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồ-tát, Đắc Đại Thế Bồ-tát, Thường Tinh Tấn Bồ-tát, Bất Hưu Tức Bồ-tát, Bửu Chưởng Bồ-tát, Dược Vương Bồ-tát, Dõng Thí Bồ-tát, Bửu Nguyệt Bồ-tát, Nguyệt Quang Bồ-tát, Mãn Nguyệt Bồ-tát, Đại Lực Bồ-tát, Vô Lượng Lực Bồ-tát, Việt Tam Giới Bồ-tát, Bạt-đà-bà-la Bồ-tát, Di-lặc Bồ-tát, Bửu Tích Bồ-tát, Đạo Sư Bồ-tát v.v... các vị đại Bồ-tát như thế tám muôn người câu hội. 

3.- Lúc bấy giờ, Thích đề-hoàn nhơn cùng quyến thuộc hai muôn vị thiên tử câu hội. 

Lại có Minh Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bửu Quang thiên tử, bốn vị đại Thiên vương cùng với quyến thuộc một muôn thiên tử câu hội. Tự Tại thiên tử, Đại Tự Tại thiên tử, cùng với quyến thuộc ba vạn thiên tử câu hội.

Chủ cõi Ta-bà: Phạm Thiên vương, Thi-khí Đại Phạm, Quang Minh Đại Phạm v.v... cùng với quyến thuộc một muôn hai nghìn vị thiên tử câu hội. 

Có tám vị Long vương: Nan-đà Long vương, Bạt-nan-đà Long vương, Ta-dà-la Long vương, Hòa-tu-kiết Long vương, Đức-xoa-ca Long vương, A-na-bà-đạt-đa Long vương, Ma-na-tư Long vương, Ưu-bát-la Long vương v.v... đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

Có bốn vị Khẩn-na-la vương: Pháp khẩn-na-la vương, Diệu Pháp khẩn-na-la vương, Đại Pháp khẩn-na-la vương, Trì Pháp khẩn-na-la vương đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

Có bốn vị Càn-thát-bà vương: Nhạc càn-thát-bà vương, Nhạc Âm càn-thát-bà vương, Mỹ càn-thát-bà vương, Mỹ Âm càn-thát-bà vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

Có bốn vị A-tu-la vương: Bà-trỉ a-tu-la vương, Khư-la-khiên-đà a-tu-la vương, Tỳ-ma-chất-đa-la a-tu-la vương, La-hầu a-tu-la vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

Có bốn vị Ca-lâu-la vương: Đại Oai Đức ca-lâu-la vương, Đại Thân ca-lâu-la vương, Đại Mãn ca-lâu-la vương, Như Ý ca-lâu-la vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

Vua A-xà-thế, con bà Vi-đề-hi, cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

Cả chúng đều lễ chơn Phật, lui ngồi một phía.

GIẢNG:

"Tôi nghe", chỉ cho Tôn giả A-nan, người nghe và thuật lại kinh này - Văn thành tựu.

"Như thế này", chỉ pháp mà ngài A-nan nghe Phật nói, đó là kinh Pháp Hoa - Tín thành tựu.

"Một thuở nọ", là thời gian nói kinh. Xưa, thời gian mỗi nơi mỗi khác, không thống nhất, nên chỉ nói một thuở nọ, chớ không nói ngày mấy, tháng mấy, lúc mấy giờ - Thời thành tựu.

"Đức Phật", là vị chủ tọa trong buổi thuyết pháp - Chủ thành tựu.

"Núi Kỳ-xà-quật", nơi thành Vương Xá là chỗ Phật thuyết pháp - Xứ thành tựu.

"Chúng đại Tỳ-kheo một muôn hai nghìn người là bậc A-la-hán, như A-nhã Kiều-trần-như..., hàng Tỳ-kheo hữu họcvô học có trên hai ngàn người. Các Tỳ-kheo ni như Ma-ha Ba-xà-ba-đề, Gia-thâu-đà-la và quyến thuộc. Hàng Bồ-tát có tới tám muôn như Bồ-tát Văn-thù, Bồ-tát Quán Âm... Thích đề-hoàn nhơn và quyến thuộc. Tứ thiên vươngquyến thuộc. Phạm Thiên vương và các vị trời cùng với quyến thuộc. Long vươngquyến thuộc. Khẩn-na-la vương cùng quyến thuộc. Càn-thát-bà vương cùng quyến thuộc. A-tu-la vương cùng quyến thuộc. Ca-lâu-la vương cùng với quyến thuộc. Vua A-xà-thế cùng với quyến thuộc" là những cử tọa đến nghe pháp - Chúng thành tựu.

Sáu điều trên đây gọi là Lục chủng chứng tín, nghĩa là sáu điều làm bằng chứng để cho chúng ta tin kinh này không phải ngài A-nan tự ý nói, mà chính Ngài đã cùng nghe với thính chúng và thuật lại.

CHÁNH VĂN:

4.- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, hàng tứ chúng vây quanh cúng dường cung kỉnh ngợi khen tôn trọng, vì các vị Bồ-tát mà nói kinh Đại thừa tên là "Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm".

GIẢNG:

Kinh "Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm" là bộ kinhnghĩa lý sâu rộng, không thể nghĩ lường được. Kinh này dạy cho hàng Bồ-tát tu để thành Phật, và chính kinh này là chỗ mà chư Phật hằng hộ niệm. Đoạn này không ghi Phật nói kinh như thế nào, chỉ nói tổng quát là kinh Đại thừa tên "Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm".

CHÁNH VĂN:

Nói kinh này xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh định "Vô lượng nghĩa xứ", thân và tâm của Phật đều không lay động.

GIẢNG:

Từ trước, Phật tùy theo căn cơ cao thấp của chúng sanhphương tiện nói kinh nghĩa lý hữu lượng, chớ kinh Vô lượng liễu nghĩa thì chưa từng nói. Nay thấy căn cơ đệ tử đã thuần thục, Phật mới nói kinh Vô Lượng Nghĩa và nhập chánh định tên là Vô lượng nghĩa xứ, để chuẩn bị tư thế nói kinh Pháp Hoachân lý tuyệt đối.

CHÁNH VĂN:

Khi đó trời mưa hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cõi Phật sáu điệu vang động.

Lúc bấy giờ, trong chúng hội, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhơn, phi nhơn và các vị tiểu vương cùng Chuyển Luân Thánh vương, các đại chúng ấy đều được thấy việc chưa từng có, vui mừng chấp tay một lòng nhìn Phật.

GIẢNG:

Khi Phật nói kinh "Vô Lượng Nghĩa" xong, Ngài nhập định thì chư thiên rải hoa cúng dường, quả đất rúng động, phát ra sáu thứ âm thanh vi diệu. Bấy giờ, thính chúng trong hội thấy việc chưa từng có, nên vui mừng chấp tay một lòng hướng về đức Phật mắt không tạm rời.

CHÁNH VĂN:

5.- Bấy giờ, đức Phật từ nơi tướng lông trắng giữa chặng mày phát ra luồng hào quang chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi nước ở phương Đông, dưới thời chiếu đến địa ngục A-tỳ, trên suốt thấu trời Sắc Cứu Cánh. Chúng ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúng sanh ở các cõi kia.

GIẢNG:

Đoạn này dùng hình ảnh để hiển bày cái chân thật tuyệt đối, đó là Tri kiến Phật. Sở dĩ không dùng ngôn ngữ để diễn tả, là vì mọi ngôn ngữ đều ở trong vòng tương đối, không thể nói lên pháp tuyệt đối. Hai chân mày là hai bên chỉ cho pháp tương đối: có không, phải quấy, tốt xấu... Lông trắng giữa chặng mày tượng trưng cho lý Trung đạo không kẹt hai bên đối đãi. Hào quang là ánh sáng, tượng trưng cho Trí tuệ Phật. Qua hình ảnh tượng trưng đó, nếu chúng ta biết xoay lại mình để tu tập như lời dạy của Tổ Bá Trượng, mới thấy được ý nghĩa huyền diệu của kinh Đại thừa. Người không còn kẹt hai bên là người hằng sống với lý Trung đạo, thì được trí tuệ viên mãn. Trí tuệ viên mãnTrí tuệ Phật thênh thang rộng lớn, nên soi rọi thấu suốt một muôn tám ngàn cõi ở phương Đông, từ địa ngục cho tới cõi trời Sắc Cứu Kính. Nếu nương theo Trí tuệ Phật thì chúng ta sẽ thấy rõ các cõi, biết rõ nhân quả của sáu loài chúng sanh luân hồi trong lục đạo, và cũng thấu suốt được nguyên nhân tu hành cùng quả báo của các vị Tỳ-kheo, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Ở đây có điều khiến cho chúng ta nghi vấn là, tại sao hào quang Phật chỉ soi thấu về phương Đông mà không soi về các phương khác? - Phương Đông là phía mặt trời mọc, ánh sáng của ngày bắt đầu từ phương Đông, chiếu rọi khắp cả. Còn phương Tây là phía mặt trời lặn, ánh sáng của ngày mờ dần và tắt hẳn. Phật muốn chỉ cho mọi người trí tuệ cứu kính của Phật thấu suốt tất cả pháp, nên Ngài dùng phương Đông là phương mở màn cho ánh sáng ban mai để làm ví dụ.

CHÁNH VĂN:

Lại thấy các đức Phật hiện tại nơi các cõi kia và nghe kinh pháp của các đức Phật ấy nói. Cùng thấy nơi các cõi kia, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ, những người tu hành đắc đạo.

Lại thấy các vị đại Bồ-tát dùng các món nhơn duyên, các lòng tín giải, các loại tướng mạotu hành đạo Bồ-tát. Lại thấy đức Phật nhập Niết-bàn, lại thấy sau khi các đức Phật nhập Niết-bàn, đem xá-lợi của Phật mà dựng tháp bằng bảy báu.

GIẢNG:

Qua đoạn này, chúng ta thấy cái nhìn của đạo Phật rất rộng rãi, chỉ một phương Đông thôi mà thấy có một muôn tám ngàn cõi. Nếu trông cả mười phương hay cả vũ trụ thì sẽ thấy vô số cõi nước không thể tính đếm. Vì vậy mà trong kinh nói hằng hà sa số cõi Phật. Điều mà đức Phật nói cách đây trên hai ngàn năm trăm năm thì hiện nay các nhà khoa học đã chứng minh một cách cụ thể là, trong vũ trụ ngoài quả đất chúng ta đang ở còn có vô số hành tinh, gần nhất là mặt trăng, nơi loài người đã từng đặt chân đến đó cách nay không lâu. Bây giờ trong hội chúng nương hào quang Phật, thấy và nghe được các đức Phật ở các cõi ấy nói pháp. Rồi cũng thấy thính chúng của các đức Phật ở các cõi ấy tu hành đắc đạo. Chẳng những thấy Phật, Bồ-tát, thính chúng ở các cõi khác, mà còn thấy Phật nhập Niết-bàn. Lại thấy sau khi Phật nhập Niết-bàn, xá-lợi Phật được dựng tháp bằng bảy báu để cúng dường.

CHÁNH VĂN:

6.- Khi ấy, ngài Di-lặc Bồ-tát nghĩ rằng: "Hôm nay đức Thế Tôn hiện thần biến tướng, vì nhơn duyên gì mà có điềm lành này?

Nay đức Phật đương nhập chánh định, việc biến hiện hi hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai, ai đáp được?"

Ngài lại nghĩ: "Ông Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi này đã từng gần gũi cúng dường vô lượng các đức Phật đời quá khứ, chắc đã thấy tướng hi hữu này, ta nay nên hỏi ông."

Lúc đó, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ và các trời, rồng, quỉ, thần v.v... đều nghĩ rằng: "Tướng thần thông sáng chói của đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai?"

7.- Bấy giờ, ngài Di-lặc Bồ-tát muốn giải quyết chỗ nghi của mình, Ngài lại xét tâm niệm của bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ và của cả chúng hội trời, rồng, quỉ, thần v.v... mà hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng: "Vì nhơn duyên gì mà có tướng lành thần thông này, Phật phóng ánh sáng lớn soi khắp một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông,đều thấy cõi nước trang nghiêm của các đức Phật?"

GIẢNG:

Theo Duy thức học thì Bồ-tát Di-lặc tượng trưng cho Thức phân biệt. Bởi Thức phân biệt nên không thể hiểu được những hình ảnh biểu trưng Tri kiến Phật (lý Trung đạo), vì Tri kiến Phật vượt khỏi pháp Nhị nguyên tương đối của thế gian. Bồ-tát Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí hay Bản giác có sẵn nơi mỗi chúng sanh. Do gần gũi, bảo hộ, cúng dường, thâm nhập Tri kiến Phật nên Ngài mới hiểu được những điềm lànhPhật hiện ra; vì vậy Bồ-tát Di-lặc mới có dự ý thưa hỏi. Đây là những vị Bồ-tát tượng trưng để nói lên ý nghĩa thâm sâu trong việc tu hành của mỗi người chúng ta, chớ không phải là hàng Bồ-tát đi hoằng truyền Chánh pháp giáo hóa chúng sanh trong đời.

Đa số kinh Đại thừa, phẩm đầu thường là Bồ-tát Văn-thù thưa hỏi và phẩm kết thúchạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Như kinh Pháp Hoa, mở đầu là Bồ-tát Văn-thù giải nghi cho Bồ-tát Di-lặc và bốn chúng, phần cuối cùng nêu lên hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Bồ-tát Phổ Hiền tượng trưng cho Trí sai biệt. Trí căn bản là trí đã có sẵn, bởi vô minh vọng tưởng che phủ nên không hiển lộ. Nhờ tu hành lần lần sạch hết vô minh phiền não, Trí căn bản mới hiển hiện tròn sáng. Lúc đó có đủ diệu dụng, tùy duyên giáo hóa chúng sanh gọi là Trí sai biệt. Chúng sanh căntrình độ không đồng nhau, kẻ thì đần độn, người thì lanh lợi; Trí sai biệt của Phật có đủ diệu lực thấu suốt trình độ sai biệt ấy, nên tùy theo căn cơphương tiện nói pháp sai biệt giáo hóa họ. Chính Trí sai biệt làm căn bản cho hàng Bồ-tát làm hạnh lợi tha không lười mỏi, không thối chuyển. Vì chúng ta tu chưa được viên mãn, chưa có Trí sai biệt, khi hành hạnh lợi tha mà không biết trình độ căn cơ của chúng sanh, không rõ được cái gốc đau khổ của muôn loài, nói pháp chỉ khế lý mà không khế cơ, nên người nghe không tin không theo tu học; kết quả là giúp người mà người không hết khổ, chán nản, nên thối Bồ-đề tâm. Lỗi đó không phải tại người cứng đầu không chịu nghe, mà tại mình chưa có Trí sai biệt biết rõ căn cơ trình độ của người, để nói pháp hợp thời đúng bệnh. Nếu nói pháp hợp thời đúng bệnh thì người nghe mới kính tin vâng theotu tập hết khổ đau. Sở dĩ người không nghe là vì chúng ta nói pháp không đúng bệnh, không hợp thời, khiến người nghe không tin, bất mãn, xa lánh. Đó là muốn giúp người được lợi ích mà hóa ra hại người mất tín tâm, lỗi đó là tại mình. Vì vậy, nếu được Trí sai biệt thì sự giáo hóa chẳng những khiến chúng sanh được lợi ích, mà người giáo hóa cũng không lười mỏi, không chán nản, nên mới gọi là Đại Hạnh Phổ Hiền.

Phần Trùng tụng là phần lặp lại ý của văn Trường hàng ở trên, nhưng lặp lại có phần chi tiết.

CHÁNH VĂN:
Khi đó, ngài Di-lặc muốn nói lại nghĩa trên, dùng kệ hỏi rằng:
8.-Ngài Văn-thù-sư-lợi!
Đức Đạo sư cớ chi
Lông trắng giữa chặng mày
Phóng ánh sáng khắp soi
Trời mưa hoa mạn-đà
Cùng hoa mạn-thù-sa
Gió thơm mùi chiên-đàn
Vui đẹp lòng đại chúng
nhơn duyên như vậy
Cõi đất đều nghiêm tịnh
Mà trong thế giới này
Sáu điệu vang động lên
Bấy giờ bốn bộ chúng
Thảy đều rất vui mừng
Thân cùng ý thơ thới
Đặng việc chưa từng có.
GIẢNG:
Đoạn này lặp lại chỗ nghi vấn của Bồ-tát Di-lặc và hội chúng về hình tướng biểu trưng cho cái chân thật 
tuyệt đối.
CHÁNH VĂN:
9.-Ánh sáng giữa chặng mày
Soi suốt thẳng phương Đông
Một muôn tám nghìn cõi
Đều ánh như sắc vàng
Từ địa ngục A-tỳ
Trên đến trời Hữu Đảnh
Trong các thế giới đó
Cả sáu đạo chúng sanh
Sống chết của kia đến
Nghiệp duyên lành cùng dữ
Thọ báo có tốt xấu
Tại đây đều thấy rõ.
GIẢNG:
Nương ánh sáng do Phật phóng ra, mà cả hội chúng đồng thấy tất cả nhân quả luân hồi của sáu loài chúng 
sanh, ở một muôn tám ngàn cõi nước về phương Đông.
CHÁNH VĂN:
10.- Lại thấy các đức Phật
Đấng Thánh chúa Sư tử 
Diễn nói các kinh điển
Nhiệm mầu bực thứ nhứt.
Tiếng của Ngài thanh tịnh
Giọng nói ra êm dịu
Dạy bảo các Bồ-tát
Vô số ức muôn người
Tiếng Phạm âm thâm diệu
Khiến người đều ưa nghe.
Các Phật ở cõi mình
Mà giảng nói chánh pháp
Dùng nhiều món nhơn duyên
Cùng vô lượng tỉ dụ
Để soi rõ Phật pháp
khai ngộ chúng sanh.
Nếu có người bị khổ
Nhàm lìa già, bịnh, chết,
Phật vì nói Niết-bàn
Để dứt các ngằn khổ.
Nếu là người có phước
Đã từng cúng dường Phật
Chí cầu pháp thù thắng
Vì nói hạnh Duyên giác.
Nếu lại có Phật tử 
Tu tập các công hạnh
Để cầu huệ Vô thượng
Phật vì nói tịnh đạo.
GIẢNG:
Bồ-tát Di-lặc cùng bốn chúng thấy các đức Phật đang ở cõi nước của các ngài với Phạm âm vi diệu, tùy 
căn cơ dùng phương tiện nói pháp khai ngộ cho hàng Thanh văn, Duyên giác.
CHÁNH VĂN:
11.-Ngài Văn-thù-sư-lợi!
Tôi ở tại nơi đây
Thấy nghe dường ấy đó
Và nghìn ức việc khác
Thấy rất nhiều như thế
Nay sẽ lược nói ra!
12.-Tôi thấy ở cõi kia
hằng sa Bồ-tát
Dùng các món nhơn duyên
Mà cầu chứng Phật đạo.
Hoặc có vị bố thí
Vàng, bạc, ngọc, san-hô,
Trân châu, ngọc như ý,
Ngọc xa-cừ, mã não,
Kim cương các trân bửu
Cùng tôi tớ, xe cộ
Kiệu, cáng chưng châu báu
Vui vẻ đem bố thí
Hồi hướng về Phật đạo
Nguyện đặng chứng thừa ấy
Bực nhứt của ba cõi
Các Phật hằng khen ngợi.
Hoặc có vị Bồ-tát
Xe tứ mã, xe báu
Bao lơn che tàng đẹp
Trau tria dùng bố thí.
Lại thấy có Bồ-tát
Bố thí cả vợ con
Thân thịt cùng tay chân
Để cầu Vô thượng đạo.
Lại thấy có Bồ-tát
Đầu mắt và thân thể
Đều ưa vui thí cho
Để cầu trí huệ Phật.
GIẢNG:
Bồ-tát Di-lặc tường trình chỗ thấy nghe của Ngài như: Có vô số Bồ-tát bố thí vàng bạc, châu báu, bố thí 
xe cộ, bố thí thân mạng, vợ con để cầu Phật đạo.
CHÁNH VĂN:
13.-Ngài Văn-thù-sư-lợi!
Ta thấy các quốc vương
Qua đến chỗ của Phật
Thưa hỏi đạo Vô thượng
Bèn bỏ nước vui vẻ
Cung điện cả thần thiếp
Cạo sạch râu lẫn tóc
Mà mặc y pháp phục.
GIẢNG:
Bồ-tát Di-lặc lại thấy các quốc vương thưa hỏi đạo Vô thượng, rồi bèn bỏ nước, bỏ ngôi vua, quần thần, 
thê thiếp, cạo bỏ râu tóc xuất gia.
CHÁNH VĂN:
Hoặc lại thấy Bồ-tát
Mà hiện làm Tỳ-kheo
Một mình ở vắng vẻ
Ưa vui tụng kinh điển.
Cũng thấy có Bồ-tát
Dõng mãnh và tinh tấn
Vào ở nơi thâm sơn
Suy xét mối Phật đạo
Và thấy bực ly dục
Thường ở chỗ không nhàn
Sâu tu các thiền định
Đặng năm món thần thông
Và thấy vị Bồ-tát
Chấp tay trụ thiền định
Dùng nghìn muôn bài kệ
Khen ngợi các Pháp vương.
Lại thấy có Bồ-tát
Trí sâu chí bền chắc
Hay hỏi các đức Phật
Nghe rồi đều thọ trì
Lại thấy hàng Phật tử
Định huệ trọn đầy đủ
Dùng vô lượng tỉ dụ
Vì chúng mà giảng pháp
Vui ưa nói các pháp
Dạy bảo các Bồ-tát
Phá dẹp chúng binh ma
Mà đánh rền trống pháp.
Cùng thấy vị Bồ-tát
Vắng bặt yên lặng ngồi
Trời, rồng đều cung kính
Chẳng lấy đó làm mừng.
Và thấy có Bồ-tát
Ở rừng phóng hào quang
Cứu khổ chốn địa ngục
Khiến đều vào Phật đạo.
Lại thấy hàng Phật tử
Chưa từng có ngủ nghỉ
Kinh hành ở trong rừng
Siêng năng cầu Phật đạo
Cũng thấy đủ giới đức
Oai nghi không thiếu sót
Lòng sạch như bửu châu
Để cầu chứng Phật đạo.
Và thấy hàng Phật tử
Trụ vào sức nhẫn nhục
Bị kẻ tăng thượng mạn
Mắng rủa cùng đánh đập,
Thảy đều hay nhẫn được
Để cầu chứng Phật đạo.
Lại thấy có Bồ-tát
Xa rời sự chơi cười
quyến thuộc ngu si
Ưa gần gũi người trí
Chuyên tâm trừ loạn động
Nhiếp niệm ở núi rừng
Trải ức nghìn muôn năm
Để cầu được Phật đạo.
GIẢNG:
Bồ-tát Di-lặc cùng hội chúng thấy các Bồ-tát ở nơi vắng vẻ, mỗi vị dùng mọi phương tiện tu hành khác 
nhau để cầu Phật đạo.

CHÁNH VĂN:

14.-Lại thấy vị Bồ-tát
Đồ ăn uống ngọt ngon
Cùng trăm món thuốc thang
Đem cúng Phật và Tăng,
Áo tốt đồ thượng phục
Giá đáng đến nghìn muôn
Hoặc là vô giá y
Đem cúng Phật và Tăng,
Dùng nghìn muôn ức thứ
Nhà báu bằng chiên-đàn
Các giường nằm tốt đẹp
Để cúng Phật cùng Tăng, 
Rừng vườn rất thanh tịnh
Bông trái đều sum sê
Suối chảy cùng ao tắm
Cúng dường Phật và Tăng,
Cúng thí như thế đó
Các đồ cúng tốt đẹp
Vui vẻ không hề nhàm
Để cầu đạo Vô thượng.
GIẢNG:
Bồ-tát Di-lặc thấy Bồ-tát ở cõi kia cúng dường tứ sự quí giá cho Phật và Tăng để cầu đạo Vô thượng.

CHÁNH VĂN:
15.-Lại có vị Bồ-tát
Giảng nói pháp tịch diệt
Dùng các lời dạy dỗ
Dạy vô số chúng sanh
Hoặc thấy vị Bồ-tát
Quán sát các pháp tánh
Đều không có hai tướng
Cũng như khoảng hư không.
Lại thấy hàng Phật tử
Tâm không chỗ mê đắm
Dùng món diệu huệ này
cầu đạo Vô thượng
GIẢNG:
Bồ-tát Di-lặc thấy Bồ-tát các cõi kia, vị thì dùng pháp tịch diệt giáo hóa chúng sanh, vị thì quán pháp tánh không hai, vị thì ly dục dùng trí tuệ nhiệm mầu cầu Phật đạo.

CHÁNH VĂN:
16.- Ngài Văn-thù-sư-lợi!
Lại có vị Bồ-tát
Sau khi Phật diệt độ
Cúng dường xá-lợi Phật.
Lại thấy hàng Phật tử
Xây dựng các tháp miếu
Nhiều vô số hằng sa
Nghiêm sức khắp cõi nước.
Bửu tháp rất cao đẹp
Đều năm nghìn do-tuần
Bề ngang rộng xứng nhau
Đều hai nghìn do-tuần.
Trong mỗi mỗi tháp miếu
Đều có nghìn tràng phan
Màn châu xen thả xuống
Tiếng linh báu hòa reo
Các vị trời, rồng, thần,
Người cùng với phi nhân
Hương, hoa cùng kỹ nhạc
Thường đem đến cúng dường.
Ngài Văn-thù-sư-lợi!
Các hàng Phật tử kia
cúng dường xá-lợi
Nên trang sức tháp miếu
Cõi quốc giới tự nhiên
Thù đặc rất tốt đẹp
Như cây thiên thọ vương
Bông kia đương xòe nở.
GIẢNG:
Bồ-tát Di-lặc thấy Phật ở cõi kia tịch diệt, Bồ-tát xây vô số bửu tháp cao đẹp quí báu, trang hoàng cờ, phướn, màn, linh. Rồi trời, người, rồng, thần dâng hương hoa kỹ nhạc để cúng dường xá-lợi Phật.
CHÁNH VĂN:
17.- Phật phóng một luồng sáng
Ta cùng cả chúng hội
Thấy nơi cõi nước này
Các thứ rất tốt đẹp
Thần lực của chư Phật
Trí huệ đều hi hữu
Phóng một luồng tịnh quang
Soi khắp vô lượng cõi
Chúng ta thấy việc này
Đặng điều chưa từng có.
18.-Xin Phật tử Văn-thù
Giải quyết lòng chúng nghi
Bốn chúng đều mong ngóng
Nhìn Ngài và nhìn ta
Đức Thế Tôn cớ chi
Phóng ánh quang minh này?
Phật tử phải thời đáp
Quyết nghi cho chúng mừng
Có những lợi ích
Đức Phật phóng quang này?
Khi Phật ngồi đạo tràng
Chứng đặng pháp thâm diệu.
Vì muốn nói pháp đó
Hay là sẽ thọ ký?
Hiện bày các cõi Phật
Các báu sạch trang nghiêm
Cùng thấy các đức Phật
Đây không phải cớ nhỏ
Ngài Văn-thù nên biết
Bốn chúng và long, thần 
Nhìn xem xét Ngài đó Mong sẽ nói những gì?

GIẢNG:

Vì Bồ-tát Di-lặc cùng hội chúng nương hào quang của Phật, thấy được những việc chưa từng có ở các cõi nước của chư Phật khác, nên yêu cầu Bồ-tát Văn-thù giải nghi về những điềm lànhPhật hiện: có phải Phật sắp nói pháp hay sắp thọ ký chăng? Xin Ngài giải đáp cho, vì đại chúng đang trông cậy Ngài.

CHÁNH VĂN: 

19.- Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi nói với ngài Di-lặc Đại Bồ-tát cùng các vị Đại sĩ

- Các thiện nam tử! Như chỗ ta xét nghĩ thời nay đức Phật Thế Tôn muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh pháp cổ lớn và diễn pháp nghĩa lớn. 

Các thiện nam tử! Ta từng ở nơi các đức Phật đời quá khứ thấy điềm lành này, Phật kia phóng hào quang đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằng hôm nay đức Phật hiện hào quang cũng lại như vậy. Phật vì muốn cho chúng sanh đều được nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin theo, cho nên hiện điềm lành này. 

GIẢNG:

Bồ-tát Văn-thù trả lời: Sở dĩ Phật hiện những tướng nhiệm mầu đó, là vì Ngài sắp nói pháp Đại thừa. Và Bồ-tát Văn-thù xác nhận là Ngài đã từng gần gũi các đức Phật đời quá khứ, nên Ngài biết mỗi khi Phật hiện điềm lành là Phật sắp nói pháp Đại thừa nghĩa lý rất sâu xa, người đời không thể tin nổi. Thông thường, với con mắt người phàm chỉ tin những gì mắt thấy tai nghe được. Còn Tri kiến Phật mà Phật sắp nói ở đây là Diệu pháp không hình không tướng nên khó tin. Bởi pháp khó tin, nên trước khi nói Phật phải hiện những tướng lạ để cho người tin, Ngài mới nói pháp chân thật tuyệt đối, thì khả dĩ họ mới tin.

CHÁNH VĂN:

20.- Các thiện nam tử! Như vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp về trước. Bấy giờ, có đức Phật hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, diễn nói chánh pháp. Ban đầu, giữa, rốt sau ba chặng đều lành, nghĩa lý rất sâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ cả tướng phạm hạnh thanh bạch.

GIẢNG:

Bồ-tát Văn-thù nói: Vô lượng vô biên a-tăng- kỳ kiếp về trước, có đức Phật tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh (Nhật là mặt trời, Nguyệt là mặt trăng, Đăng là đèn, Minh là sáng). Phật có trí tuệ sáng suốt như mặt trời, mặt trăng và đèn. Tất cả ánh sáng thế gian đều phát ra từ mặt trời, mặt trăng và đèn. Nói cách khác là Trí tuệ Phật sáng suốt viên mãn không khiếm khuyết. Vì vậy, tượng trưng cho trí tuệ viên mãn của Phật là Nhật Nguyệt Đăng. Mười hiệu của Phật hàm ý nghĩa sau:

- Như Lai: Như là như như bất động bất biến, chỉ cho Tâm thể chân thật có sẵn ở mỗi người, tượng trưng là Bồ-tát Văn-thù. Lai là tùy duyên, tu khi viên mãn công hạnh, đầy đủ Trí sai biệt, thì tùy duyên giáo hóa chúng sanh, tượng trưng là Bồ-tát Phổ Hiền

- Ứng Cúng: Xứng đáng cho người, trời cúng dường.

- Chánh Biến Tri: Biết chân chánh khắp giáp tất cả.

- Minh Hạnh Túc: Đầy đủ công hạnh, tức là đủ Tam minhLục thông

- Thiện Thệ: Khéo qua biển sanh tử đến Niết-bàn.

- Thế Gian Giải: Thấu suốt tất cả các pháp thế gian.

- Vô Thượng Sĩ: Kẻ sĩ cao tột không ai hơn.

- Điều Ngự Trượng Phu: Bậc trượng phu có khả năng điều phục được tất cả mọi người từ trí đến ngu.

- Thiên Nhân Sư: Bậc thầy của trời, người.

- Phật Thế Tôn: Bậc giác ngộ mà người đời cung kính, tôn trọng

Người giác ngộ thể nhập được Trí tuệ viên mãn thì gọi là Phật. Khi đã thành Phật thì những lời Phật nói ra rất sâu xa nhiệm mầu, ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai đều như một không sai trái, giúp cho người tu được thanh tịnh sáng suốt nên được coi là chân lý. Chẳng hạn Phật nói: Các pháp thế gianvô thường, chúng sanh thì đau khổ. Xưa, con người sanh ra, lớn lên rồi phải già, bệnh, chết. Ngày nay, con người sanh ra cũng không tránh khỏi lão, bệnh, tử. Và mai kia, nếu con người có mặt ở cõi đời này cũng chẳng thoát khỏi nỗi khổ của sanh, già, bệnh, chết. Như vậy, điều Phật nói cách nay trên hai ngàn năm trăm năm, trải qua ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai đều như một, không biến dịch, không phải chân lý là gì? Ngày nay, chúng ta vì chưa được Trí tuệ Phật, thấy biết không đúng lẽ thật, nên nói ra điều gì mới nghe qua thấy hợp lý, nhưng ít tháng sau hoặc ít năm sau thì không còn đúng nữa, nên không được coi là chân lý

CHÁNH VĂN:

Phật, vì người cầu đạo Thanh văn, nói pháp Tứ đế thoát khỏi sanh, già, bịnh, chết cứu cánh Niết-bàn. Vì hạng cầu quả Duyên giác, nói pháp Mười hai nhân duyên. Vì hàng Bồ-tát nói Sáu pháp ba-la-mật làm cho chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thành bậc Nhứt thiết chủng trí.

GIẢNG:

Vì Phật có đủ Trí sai biệt, biết rõ hạnh nguyện của người tu, nên tùy duyên ứng hóa làm lợi ích cho tất cả. Nếu người muốn thoát khổ cầu đạo Thanh văn, Phật nói pháp Tứ đế độ cho thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, được cứu kính Niết-bàn. Nếu người trí tuệ khá hơn, cầu quả Duyên giác, Phật sẽ nói pháp Mười hai nhân duyên. Nếu là hàng Bồ-tát, Phật sẽ nói Sáu pháp ba-la-mật làm cho chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành bậc Nhất thiết chủng trí tức là thành Phật. Tùy theo căn cơ cao thấp mà Phật nói pháp có sai biệt để hết thảy người tu đều đạt được sở nguyện của mình.

CHÁNH VĂN:

Kế lại có đức Phật cũng hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh. Lại có đức Phật cũng hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh. Như thế đến hai muôn đức Phật đều đồng một tên, hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh, lại cùng đồng một họ, họ Phả-la-đọa.

GIẢNG:

Tất cả chư Phật có đến hai muôn đều đồng một hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Tại sao Phật nhiều như thế mà chỉ cùng một hiệu? Như trước đã nói, Nhật Nguyệt Đăng Minh là chỉ cho trí tuệ sáng suốt viên mãn; tất cả chư Phật khi thành Phật đều có trí tuệ sáng suốt viên mãn như nhau, vì vậy mà đồng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh.

CHÁNH VĂN:

Di-lặc nên biết! Đức Phật trước, đức Phật sau đều đồng một tên, hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh, đầy đủ mười hiệu, những pháp được nói ra đầu, giữa, sau đều lành. 

Đức Phật rốt sau cả, lúc chưa xuất gia có tám vị vương tử: Người thứ nhất tên Hữu Ý, thứ hai tên Thiện Ý, thứ ba tên Vô Lượng Ý, thứ tư tên Bửu Ý, thứ năm tên Tăng Ý, thứ sáu tên Trừ Nghi Ý, thứ bảy tên Hướng Ý, thứ tám tên Pháp Ý.

GIẢNG:

Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh lúc chưa xuất gia là chỉ cho chúng sanh khi chưa tu. Theo kinh Lăng-già thì mọi chúng sanh đều có Như Lai tàng, nhưng vì quên (mê) Như Lai tàng nên biến thành Tàng thức. Khi biến thành Tàng thức rồi thì có bảy thức thân theo. Tám vương tử là tượng trưng cho tám thức; còn Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh là chỉ cho Như Lai tàng hay là Phật tánh. Chúng sanhPhật tánh mà quên (mê) Phật tánh nên biến thành thức. Mà thức thì hay phân biệt nên đây để tên là Ý. Do thức hay phân biệt nên lưu chuyển trong lục đạo, sanh tử luân hồi.

CHÁNH VĂN:

Tám vị vương tử đó có oai đức tự tại, đều lãnh trị bốn châu thiên hạ. Nghe vua cha xuất gia chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều bỏ ngôi vua, cũng xuất gia theo, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều làm bậc Pháp sư, thuở trước đã từng ở chỗ nghìn muôn đức Phật vun trồng các cội lành.

GIẢNG:

Tám vị vương tử có oai đức tự tại cai trị bốn châu thiên hạ, là chỉ cho tám thức có công năng phân biệt khắp tất cả pháp. Mắt thì nhìn trước, ngó sau, xem phải, thấy trái phân biệt sắc pháp rất tinh tường. Tai thì nghe âm thanh của bốn phía, phân biệt trầm bổng, hay dở... một cách rành rẽ. Mũi ngửi mùi từ mọi nơi bay tới phân biệt thơm, thúi, tanh, hôi... một cách rõ ràng. Khi nghe vua cha xuất gia, tám vị vương tử liền xuất gia theo; ý nói khi Tạng thức chuyển thành Như Lai tàng thì tám thức cũng chuyển thành Trí, có nghĩa là chúng sanh khi chưa xuất gia (mê) thì có tám thức phân biệt, rồi tạo nghiệp nên phải luân hồi trong lục đạo. Khi ngộ thì tám thức qui về với Tánh giác, không còn phân biệt lăng xăng nữa mà vẫn biết rõ ràng (liễu liễu thường tri) đó là Trí.

CHÁNH VĂN:

21.- Đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh lúc đó nói kinh Đại thừa tên "Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm". Nói kinh đó rồi, Phật liền ở trong đại chúng ngồi xếp bằng nhập vào cảnh chánh định "Vô lượng nghĩa xứ", thân và tâm chẳng động.

22.- Khi ấy trời mưa hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, cùng hoa ma-ha mạn-thù-sa để rải trên đức Phật và hàng đại chúng. Khắp cõi nước Phật sáu điệu vang động.

Lúc đó trong hội, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân, phi nhân cùng các vị tiểu vương, các vị Chuyển Luân Thánh vương v.v... các đại chúng đó được điều chưa từng có, mừng rỡ chắp tay một lòng nhìn Phật.

23.- Bấy giờ, đức Như Lai từ tướng lông trắng giữa chặng mày phóng ra luồng ánh sáng soi khắp cùng cả một muôn tám nghìn cõi nước ở phương Đông như nay đương thấy ở cõi Phật đây.

Di-lặc nên biết! Khi đó trong hội có hai mươi ức Bồ-tát ưa muốn nghe pháp, các vị Bồ-tát ấy thấy ánh sáng chiếu khắp các cõi Phật được điều chưa từng có, đều muốn biết vì duyên cớ gì mà phóng ánh sáng này.

Khi ấy có vị Bồ-tát hiệu Diệu Quang có tám trăm người đệ tử.

GIẢNG:

Đoạn này Bồ-tát Văn-thù lặp lại những hiện tướng lạ sau khi Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa. Tuy thời gian khác nhau, nhưng tướng hiện không khác. Song, xưa kia là Bồ-tát Diệu Quang, nay trong hội Linh Sơn là Bồ-tát Văn-thù, Văn-thù chính là tên sau của Bồ-tát Diệu Quang thuở trước (Diệu Quang có nghĩa là ánh sáng nhiệm mầu, tức là Trí căn bản có sẵn nơi mỗi chúng sanh).

CHÁNH VĂN:

24.- Bấy giờ, đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh từ trong chánh định mà dậy, vì Diệu Quang Bồ-tát nói kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.

25.- Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi.

GIẢNG:

Một tiểu kiếp bằng 16.800.000 năm, sáu chục tiểu kiếp bằng 1.008.000.000 năm. Phật nói pháp trải qua trên một tỷ năm mà Phật cùng với thính chúng thân tâm đều không lay động, không lười mỏi, thấy thời gian như chừng một bữa ăn. Thật là kỳ diệu! Chúng ta chỉ ngồi nghe pháp liên tục khoảng chừng bốn giờ là đã thấy lười mỏi. Thính chúng ở hội này nghe pháp trên một tỷ năm mà thân tâm không lay động, không lười mỏi! Điều này, nếu chúng ta hiểu theo nghĩa thông thường thì không thấy được chân lý, học kinh Đại thừa nếu kẹt trên văn tự thì không thể hiểu nổi. Ở đây, Phật vì Bồ-tát Diệu Quang nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, mà kinh Diệu Pháp Liên Hoa là chỉ cho Tri kiến Phật (Phật tánh) có sẵn nơi mỗi chúng sanh. Tri kiến Phật không hình, không tướng, không sanh, không diệt, vượt ngoài không gianthời gian, Phật nói kinh Pháp Hoa để chỉ Tri kiến Phật, thì thời giankhông gian đối với Tri kiến Phậtvô nghĩa; nên nói tâm bất động, thân không ăn uống, ngồi lâu cũng chẳng lười mỏi. Nhập được Diệu Pháp Liên Hoathể nhập Tri kiến Phật của chính mình. Tri kiến Phật vốn không hình tướng, không sanh diệt thì dựa vào đâu để phân biệt thời gian lâu mau, không gian rộng hẹp? Do đó nói sáu mươi tiểu kiếp thấy như trong khoảng bữa ăn; vì vậy các Thiền sư thường nói "nhất niệm vạn niên", một niệm bằng vạn năm hay vạn năm bằng một niệm là để nói lên ý nghĩa dung nhiếp của Pháp tánh.

CHÁNH VĂN:

26.- Đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh đó rồi, liền ở trong chúng ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và trời, người, a-tu-la, mà tuyên rằng: "Hôm nay vào nửa đêm, Như Lai sẽ nhập Vô dư Niết-bàn."

GIẢNG:

Tại sao đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh sau khi nói kinh Pháp Hoa xong, liền tuyên bố giữa đêm sẽ vào Vô dư Niết-bàn? Đây tôi ví dụ như chúng ta có một nghề thiện xảo, muốn để lại cho đời. Nhưng người đang học chưa đủ khả năng để được truyền tuyệt kỹ. Khi thấy họ đủ khả năng nhận thọ, mới trao dạy hết nghề. Và khi đã trao dạy tận tình rồi thì coi như hết bổn phận. Bổn phận đã hết ở lại là thừa! Cũng vậy bản hoài của chư Phật ra đời cốt là làm sao chỉ cho chúng sanh nhận được Tri kiến Phật của chính mình. Mà nhận được Tri kiến Phật đó là cái nhân tu, dẹp sạch vô minh vọng tưởng, Tri kiến Phật thường hiện tiền, đó là quả Phật. Mục đích cứu kính mà Phật muốn đưa chúng sanh đến, đó là thể nhập Tri kiến Phật. Nhưng vì quá cao, nói ra sợ người nghe không hiểu, hoang mang nên Phật mới nói Tam thừa. Vì Thanh văn nói Tứ đế, vì Duyên giác nói Thập nhị nhân duyên, vì Bồ-tát nói pháp Lục độ ba-la-mật. Mục tiêu cuối cùng mà Phật muốn đưa chúng sanh đến, đó là Phật thừa, tức ngộ nhập Tri kiến Phậtkinh Pháp Hoa chỉ dạy. Sở dĩ từ trước Phật muốn chỉ mà chưa chỉ được, vì là pháp khó hiểu khó tin; đợi khi căn cơ của chúng sanh thuần thục thì Ngài nói, và khi nói xong Phật thừa, chúng sanh đã nhận biết được, thì bản nguyện đã viên mãn nên Ngài nhập Niết-bàn.

CHÁNH VĂN:

Khi đó có vị Bồ-tát tên Đức Tạng, đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh liền thọ ký cho, bảo các Tỳ-kheo rằng: "Ông Đức Tạng Bồ-tát này kế đây sẽ thành Phật, hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng, Chánh đẳng Chánh giác."

Đức Phật thọ ký xong, vào nửa đêm bèn nhập Vô dư Niết-bàn.

GIẢNG:

Tại sao Phật nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa với Bồ-tát Diệu Quang mà lại thọ ký cho Bồ-tát Đức Tạng? Bồ-tát Diệu QuangTrí căn bản, mà Trí căn bản tức là Phật tánh tròn sáng đâu cần thọ ký. Còn Bồ-tát Đức Tạng là chỉ cho kho công đức khi đã tu hành viên mãn tức là Sai biệt trí, tương tự như Bồ-tát Phổ Hiền giáo hóa làm lợi ích cho chúng sanh, khi đầy đủ công đức rồi thì thành Phật. Vì vậy Phật nói pháp là phải nói với Bồ-tát Diệu Quang và khi thọ ký thì phải thọ ký cho Bồ-tát Đức Tạng.

CHÁNH VĂN:

27.- Sau khi đức Phật diệt độ, Diệu Quang Bồ-tát trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa trải tám mươi tiểu kiếp vì người mà diễn nói.

28.- Tám người con của Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh đều học với ngài Diệu Quang, ngài Diệu Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vị vương tử đó cúng dường vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật đều thành Phật đạo. Vị thành Phật rốt sau hết, hiệu là Nhiên Đăng.

GIẢNG:

Sau khi Phật diệt độ, Bồ-tát Diệu Quang trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa và vì người diễn nói. Trong số người được Ngài giáo hóa có tám vị vương tử con của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh. Tám vương tử có đủ lòng tin đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và đều được thành Phật, vị rốt sau thành Phật hiệu là Nhiên Đăng. Nhiên là đốt, Đăng là đèn. Nhiên Đăng là thắp đèn phát ra ánh sáng; ánh sáng đó phát ra từ Trí căn bản hướng dẫn tám thức, rũ sạch vọng tưởng phân biệt, trở nên trí tuệ tròn sáng gọi là thành Phật

CHÁNH VĂN:

29.- Trong hàng tám trăm người đệ tử có một người tên Cầu Danh, người này tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, nên gọi là Cầu Danh, người này cũng do có trồng các nhân duyên căn lành nên được gặp vô lượng trăm ngàn muôn ức đức Phậtcúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi.

30.- Di-lặc nên biết! Lúc đó Diệu Quang Bồ-tát đâu phải người nào lạ, chính là ta đấy. Còn Cầu Danh Bồ-tát là Ngài đấy.

Nay thấy điềm lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét nghĩ, hôm nay đức Phật Như Lai sẽ nói kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.

GIẢNG:

Phần kết thúc khiến cho chúng ta có những nghi vấn:

1- Bồ-tát Diệu Quang từ trước đã giáo hóa cho bao nhiêu Bồ-tát thành Phật rồi, mà sao bây giờ Ngài vẫn còn làm Bồ-tát hiệu là Văn-thù?

2- Trong hội Pháp Hoa, Phật thọ ký cho vô số Bồ-tát thành Phật, thậm chí Bồ-tát Cầu Danh tham ưa danh lợi, tu hành lôi thôi mà cũng được thọ ký cho sau này sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc. Tại sao Phật không thọ ký cho Bồ-tát Văn-thù?

Kinh Lăng-già có nêu lên năm pháp là Danh, Tướng, Vọng tưởng, Chánh trí, Như như. Nếu còn vọng tưởng tức là còn thức phân biệt; mà Bồ-tát Di-lặc tượng trưng cho thức phân biệt, phân biệt danh, phân biệt tướng nên không thuộc kinh, được gọi là Cầu Danh. Tuy cầu danh, nhưng nhờ có duyên lành nên gặp Phật và tu hành. Khi tu biết rõ vọng tưởng không thật, đó là chánh trí, đã có chánh trí thì trở lại như như tức thành Phật. Mặc dầu Bồ-tát Cầu Danh (thức) chạy theo danh tướng bên ngoài, nhưng nếu khéo chuyển thì sẽ thành Trí, do đó mà được thọ ký thành Phật. Còn Bồ-tát Văn-thù tượng trưng cho Trí căn bản, mà Trí căn bản là tánh Phật, đã là tánh Phật còn thọ ký thành Phật gì nữa?

Ý nghĩa tổng quát ở đây nêu bày cho chúng ta thấy rằng tất cả mọi chúng sanh đều có sẵn Tánh giác, nhờ khéo tu, chuyển thức thành trí, công hạnh độ sanh viên mãn thì thành Phật. Đó là tượng trưng cho Trí căn bản và Trí sai biệt. Trí sai biệt chỉ khi thành Phật mới có, còn Trí căn bản mọi người ai cũng có sẵn. Căn cứ vào đâu mà nói mỗi người ai cũng có Trí căn bản? Ví dụ có một nắm bổi đang bốc khói, chúng ta biết ngay dưới nắm bổi đó có lửa, hoặc là tàn thuốc hay là cục than. Cũng vậy, nếu chúng ta không có Trí căn bản thì động cơ nào thúc đẩy chúng ta phát tâm Bồ-đề cầu giác ngộ, xuất gia học đạo? Phát tâm Bồ-đề là phát tâm giác, mà phát tâm giác là phải có sẵn động cơ giác là Trí căn bản. Cũng như nắm bổi bốc khói là do có lửa sẵn mới phát cháy.

Tại sao ai cũng có Trí căn bản mà người được thôi thúc phát Bồ-đề tâm đi tu, người thì không phát tâm tu hành? Ví dụ đêm rằm có trăng sáng, nhưng trời chuyển mưa, mây đen kịt, lúc đó trăng vẫn sáng, nhưng vì mây che nên chúng ta thấy bầu trời tối. Nếu chỗ nào mây thưa thì thấy được ánh trăng mờ mờ. Cũng vậy, ai cũng có Trí căn bản, nhưng vì vô minh phiền não quá dày nên nó thôi thúc không nổi. Với người vô minh phiền não hơi mỏng, nó liền có công năng hiện ra. Chẳng hạn như những người tu, vô minh có phần mỏng nên Trí căn bản mới thúc đẩy phát tâm cầu giác ngộ giải thoát mà đi tu. Nếu khôngđộng cơ thúc đẩy dễ gì kham chịu chay lạt, thức khuya, dậy sớm sống phạm hạnh để tu hành! Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới, người mà thôi thúc khuyến khích Thiện Tài đồng tử đi tham vấn năm mươi ba vị thiện tri thức là Bồ-tát Văn-thù. Khi tham vấn đến vị cuối cùng thì gặp Bồ-tát Phổ Hiền, và ngay lúc đó Bồ-tát Văn-thù đồng hiện ra nữa. Như vậy, để thấy kinh Pháp Hoa cũng như kinh Hoa Nghiêm có chỗ gặp nhauTrí căn bản thúc đẩy người phát tâm cầu giác ngộ, đi tu dẹp hết vô minh phiền não rồi mới thành Phật. Do đó mà nói Bồ-tát Diệu Quang (Trí căn bản) là thầy của chư Phật, dạy các Bồ-tát tu thành Phật hết mà chính Ngài chưa thành. Nếu không thông lý căn bản này thì không dễ gì phá được cái nghi trên và biết phương hướng để tu hành.

CHÁNH VĂN:

Bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát ở trong đại chúng, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

31.-Ta nhớ thuở quá khứ,

Vô lượng vô số kiếp 

Phật Nhân Trung Tôn

Hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh

Đức Thế Tôn nói pháp

Độ vô lượng chúng sanh,

Vô số ức Bồ-tát

Khiến vào Trí huệ Phật

32.-Khi Phật chưa xuất gia

Có sanh tám vương tử 

Thấy Đại Thánh xuất gia Cũng theo tu phạm hạnh.

GIẢNG:

Bồ-tát Văn-thù lặp lại lời giải nghi cho Bồ-tát Di-lặc và hội chúng là, thời quá khứPhật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói pháp độ vô số chúng được thành Phật. Và tám vương tử thấy Ngài đi tu cũng xuất gia theo Ngài.

CHÁNH VĂN:

33.-Phật nói kinh Đại thừa

Tên là Vô Lượng Nghĩa 

Ở trong hàng đại chúng

Mà vì rộng tỏ bày.

Phật nói kinh ấy rồi

Liền ở trong pháp tòa

Xếp bằng nhập chánh định

Tên Vô lượng nghĩa xứ

Trời rưới hoa mạn-đà

Trống trời tự nhiên vang

Các trời, rồng, quỉ, thần

Cúng dường đấng Nhân Tôn

Tất cả các cõi Phật

Tức thời vang động lớn.

GIẢNG:

Sau khi Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa cho đại chúng nghe xong, Ngài liền nhập chánh định và được trời, rồng, quỉ, thần cúng dường hoa, nhạc.

CHÁNH VĂN:

 34.- Phật phóng sáng giữa mày

Hiện các việc hi hữu

Ánh sáng chiếu phương Đông

Muôn tám nghìn cõi Phật

Bày sanh tử nghiệp báo

Của tất cả chúng sanh

Lại thấy các cõi Phật

Dùng các báu trang nghiêm

Màu lưu-ly, pha lê

Đây bởi Phật quang soi

 35.- Lại thấy những trời, người

Rồng, thần, chúng dạ-xoa

Càn-thát, khẩn-na-la

Đều cúng dường Phật mình.

GIẢNG:

Nương hào quang của Phật, Bồ-tát Văn-thù thấy nghiệp báo của các loài chúng sanh, những vật báu trang nghiêm cõi Phật và thấy trời, người, rồng... cúng dường Phật mình ở một muôn tám ngàn cõi Phật.

CHÁNH VĂN:

36.-Lại thấy các Như Lai

Tự nhiên thành Phật đạo

Màu thân như núi vàng

Đoan nghiêm rất đẹp mầu

Như trong lưu-ly sạch 

Hiện ra tượng chân kim

Thế Tôn trong đại chúng

Dạy nói nghĩa thâm diệu.

GIẢNG:

Bồ-tát Văn-thù thấy các Như Lai tự nhiên thành Phậtthân tướng đoan nghiêm, nói pháp thâm diệu.

CHÁNH VĂN:

37.-Mỗi mỗi các cõi Phật

Chúng Thanh văn vô số 

Nhân Phật quang soi sáng

Đều thấy đại chúng kia

Hoặc có các Tỳ-kheo

Ở tại trong núi rừng

Tinh tấn giữ tịnh giới

Dường như gìn châu sáng. 

38.-Lại thấy các Bồ-tát

Bố thí nhẫn nhục thảy

Số đông như Hằng sa

Đây bởi sáng Phật soi.

Lại thấy hàng Bồ-tát

Sâu vào các Thiền định 

Thân tâm lặng chẳng động

Để cầu đạo Vô thượng.

Lại thấy các Bồ-tát 

Rõ tướng pháp tịch diệt 

Đều ở tại nước mình

Nói pháp cầu Phật đạo.

GIẢNG:

Bồ-tát Văn-thù thấy ở mỗi cõi Phật có hàng Thanh văn, Tỳ-kheo ở chỗ vắng tu tịnh hạnh, Bồ-tát tu bố thí, thiền định, nói pháp để cầu Phật đạo.

CHÁNH VĂN:

39.-Bấy giờ bốn bộ chúng

Thấy Phật Nhựt Nguyệt Đăng

Hiện sức thần thông lớn

Tâm kia đều vui mừng

Mỗi người tự hỏi nhau

Việc này nhân duyên gì?

GIẢNG:

Tứ chúng thấy Phật hiện thần thông, vừa vui mừng vừa nghi vấn.

CHÁNH VĂN:

40.-Đấng của trời, người thờ

Vừa từ chánh định dậy

Khen Diệu Quang Bồ-tát

Ông là mắt của đời

Mọi người đều tin về

Hay vưng giữ tạng pháp

Như pháp của ta nói

Chỉ ông chứng biết được

Đức Phật đã ngợi khen

Cho Diệu Quang vui mừng 

Liền nói kinh Pháp Hoa

Trải sáu mươi tiểu kiếp

Chẳng rời chỗ ngồi ấy

Ngài Diệu Quang pháp sư

Trọn đều hay thọ trì

Pháp thượng diệu của Phật. 

41.-Phật nói kinh Pháp Hoa 

Cho chúng vui mừng rồi

Liền chính trong ngày đó

Bảo hàng chúng trời, người

Các pháp “Nghĩa thật tướng”

Đã vì các ông nói

Nay ta giữa đêm này

Sẽ vào cõi Niết-bàn

Phải một lòng tinh tấn

Rời các sự buông lung

Các Phật rất khó gặp

Ức kiếp được một lần.

GIẢNG:

Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh xuất định, khen Bồ-tát Diệu Quang có khả năng thọ trì Diệu pháp cao thượng, nên Ngài vì Bồ-tát Diệu Quang mà nói kinh Pháp Hoa. Và sau khi nói kinh xong, Phật cho biết là sẽ nhập Niết-bàn, Ngài khuyên chúng nên tinh tấn tu hành, chớ có buông lung.

CHÁNH VĂN:

42.-Các con của Phật thảy

Nghe Phật sắp nhập diệt

Thảy đều lòng buồn khổ

Phật sao gấp diệt vậy?

Đấng Thánh chúa Pháp vương

An ủi vô lượng chúng:

Nếu lúc ta diệt độ

Các ông chớ lo sợ

Đức Tạng Bồ-tát đây

Tâm đã được thông thấu

Nơi Vô lậu thiệt tướng

Kế đây sẽ thành Phật

Tên hiệu là Tịnh Thân

Cũng độ vô lượng chúng.

GIẢNG:

Tứ chúng nghe Phật sắp Niết-bàn, lấy làm buồn khổ. Phật an ủi là sau khi Phật diệt độ, có Bồ-tát Đức Tạng tâm thấu suốt được Thật tướng, sẽ thành Phật tiếp tục giáo hóa chúng sanh.

CHÁNH VĂN:

43.-Đêm đó Phật diệt độ

Như củi hết, lửa tắt

Chia phân các xá-lợi

Mà xây vô lượng tháp

Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni

Số đông như Hằng sa

Lại càng thêm tinh tấn

Để cầu đạo Vô thượng.

GIẢNG:

Phật diệt độ, xá-lợi Phật được xây tháp để cúng dường, chúng càng thêm tinh tấn cầu đạo Vô thượng.

CHÁNH VĂN:

44.-Diệu Quang pháp sư ấy

Vưng giữ Phật pháp tạng

Trong tám mươi tiểu kiếp

Rộng nói kinh Pháp Hoa.

Tám vị vương tử đó

Được Diệu Quang dạy bảo

Vững bền đạo Vô thượng

Sẽ thấy vô số Phật

Cúng dường các Phật xong

Thuận theo tu đại đạo

Nối nhau được thành Phật

Chuyển thứ thọ ký nhau

Đấng Phật rốt sau cả

Hiệu là Phật Nhiên Đăng

Đạo sư của thiên tiên

Độ thoát vô lượng chúng.

GIẢNG:

Bồ-tát Diệu Quang vâng giữ Pháp tạng Phật, nói kinh Pháp Hoa độ cho vô số chúng, trong đó có tám vương tử đầy đủ lòng tin với đạo Vô thượng và sẽ được thành Phật, vị rốt sau hiệu Nhiên Đăng.

CHÁNH VĂN:

45.-Diệu Quang pháp sư đó

Có một người đệ tử 

Tâm thường cưu biếng trễ

Tham ưa nơi danh lợi

Cầu danh lợi không nhàm

Thường đến nhà sang giàu

Rời bỏ việc tụng học 

Bỏ quên không thông thuộc

Vìbởi nhân duyên ấy

Nên gọi là Cầu Danh

Cũng tu các nghiệp lành

Được thấy vô số Phật

Cúng dường các đức Phật

Thuận theo tu đại đạo

Đủ Sáu ba-la-mật

Nay gặp đấng Thích-ca

Sau đây sẽ thành Phật

Hiệu rằng: Phật Di-lặc

Rộng độ hàng chúng sanh

Số đông đến vô lượng.

GIẢNG:

Bồ-tát Văn-thù nhắc lại chuyện xưa, Bồ-tát Diệu Quang có người đệ tử tham ưa danh lợi tên là Cầu Danh, nhờ có duyên lành nên gặp chư Phật, tu pháp Lục độ, nay gặp Phật Thích-ca giáo hóa cũng sẽ thành Phật.

CHÁNH VĂN:

46.-Sau Phật kia diệt độ

Lười biếng đó là Ngài 

Còn Diệu Quang pháp sư

Nay thời chính là ta.

Ta thấy Phật Đăng Minh

Điềm sáng trước như thế

Cho nên biết rằng nay

Phật muốn nói Pháp Hoa.

Tướng nay như điềm xưa

phương tiện của Phật

Nay Phật phóng ánh sáng

Giúp bày nghĩa Thiệt tướng

Các người nay nên biết

Chấp tay một lòng chờ

Phật sẽ rưới nước pháp

Đầy đủ người cầu đạo 

Các người cầu ba thừa

Nếu có chỗ nghi hối

Phật sẽ dứt trừ cho

Khiến hết không còn thừa.

 

GIẢNG:

Bồ-tát Di-lặc trong đời này tức là Cầu Danh thuở xưa và Bồ-tát Diệu Quang thuở xưa là Bồ-tát Văn-thù thời nay. Bồ-tát Văn-thù bảo cho hội chúng biết, nay Phật hiện những điềm lành giống như thuở xưa là Phật sắp nói kinh Pháp Hoa, chúng nên chờ để nghe. Đặc biệt là hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát sẽ được dứt trừ nghithành tựu Phật thừa

Chúng ta thấy ở phẩm này nêu lên các vị Bồ-tát tượng trưng. Mở đầu là Bồ-tát Di-lặc nghi vấn những hiện tướng kỳ diệuPhật hiện ra trước khi nói kinh Vô Lượng Nghĩa và được Bồ-tát Văn-thù giải đáp. Như vậy để thấy kinh Pháp Hoa chỉ thẳng Tri kiến Phật (Phật tánh) của mỗi người, nếu dùng Thức phân biệt thì không thể thấy biết mà phải nhờ Trí căn bản mới nhận được. Đoạn sau Bồ-tát Văn-thù giải nghi cho Bồ-tát Di-lặc bằng một câu chuyện tiền kiếp: Cầu Danh ngày xưa chính là Bồ-tát Di-lặc ngày nay và Bồ-tát Diệu Quang ngày xưa dạy cho các Bồ-tát thành Phật mà Ngài không được thọ ký thành Phật chính là Bồ-tát Văn-thù ngày nay. Văn-thù là Trí căn bản thúc đẩy con người phát tâm Bồ-đề, còn Cầu Danh là thức, nếu khéo tu đúng theo lời Phật dạy thì thức cũng chuyển thành trí. Khi mê, vọng thức chạy theo danh tướng; khi tỉnh giác, chánh trí hiện, không chạy theo danh tướng liền trở thành như như. Cho nên ngài Cầu Danh được thọ ký sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc sau Phật Thích-ca. Đó là mục tiêu chánh yếu mà chư Phật ra đời để dạy cho chúng ta.

Phẩm này Phật chỉ dùng hình ảnh biểu trưng để hiển bàychân thật tuyệt đốiTri kiến Phật, chớ không dùng ngôn ngữ để diễn tả. Vì vậy chúng ta chớ kẹt trên ngôn ngữ mà hiểu kinh Pháp Hoa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11536)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12458)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10670)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15251)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12003)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15190)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10510)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16419)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12566)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11729)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11523)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12784)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17885)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8994)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12940)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10217)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15189)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14151)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19534)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14063)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24418)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10591)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant