Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 5 Dược Thảo Dụ

25 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7390)
Phẩm 5 Dược Thảo Dụ

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
GIẢNG GIẢI

Hoà thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Chân Không

 

PHẨM 5 DƯỢC THẢO DỤ

 

Dược Thảo Dụ là ví dụ cây cỏ thuốc. Ngang đây đáng lý Phật thọ ký cho các vị Tỳ-kheo và A-la-hán. Nhưng vì Phật muốn nói rộng cho hàng Thanh văn thấy rõ công đức chân thật của Như Lai, rồi sau mới thọ ký, nên Phật nói phẩm Dược Thảo Dụ này.

CHÁNH VĂN:

1.- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Ma-ha Ca-diếp và các vị đại đệ tử

- Hay thay! Hay thay! Ca-diếp! Khéo nói được công đức chân thật của đức Như Lai. Đúng như lời các ông vừa nói; đức Như Lai lại còn có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ công đức, các ông dầu trải qua vô lượng ức kiếp nói cũng không hết được.

Ca-diếp nên biết! Đức Như Lai là vua của các pháp nếu có nói ra lời chi đều không hư dối vậy. Phật ở nơi tất cả pháp dùng trí huệ phương tiện mà diễn nói đó, pháp của Phật nói thảy đều đến bậc Nhứt thiết trí. Đức Như Lai xem biết chỗ qui thú của tất cả pháp, cũng rõ biết chỗ tâm sở hành của tất cả chúng sanh thông thấu không ngại. Phật lại ở nơi các pháp rốt ráo rõ biết hết, chỉ bày tất cả trí huệ cho các chúng sanh.

GIẢNG:

Đức Phật xác nhận Tôn giả Ma-ha Ca-diếp khéo tán thán công đức của Như Lai. Đúng như lời của Tôn giả Ma-ha Ca-diếp nói, Như Lai còn có vô lượng vô biên công đức, dù trải qua vô số kiếp nói cũng không hết được. Sở dĩ Như Lai có được công đức như thế do Ngài tu nhân lành vô lượng vô biên, là hành Lục độ ba-la-mật, độ vô số chúng sanh được giải thoát. Ngài tu mãi cho đến khi công hạnh viên mãn thành Phật mới thôi. Còn hàng phàm phu chúng ta chỉ tu được nhân phước báo của nhân thiên, nó hữu lượng hữu biên, nên thành tựu quả cũng hữu lượng hữu biên, vì vậy còn quanh quẩn trong cõi trời cõi người. Ở đây nói trì kinh Pháp Hoacông đức nhiều là vì kinh này dạy Bồ-tát tu đến Phật quả mới viên mãn công hạnh, chớ không dừng ở bất cứ quả vị nào. Quả Phật là chỗ cứu kính của người tu Phật, nên nói kinh Pháp Hoa là vua các kinh là nghĩa đó.

Phật lại nói Như Lai là vua tất cả pháp, nói lời không hư dối, dùng sức trí tuệ phương tiện nói pháp đều đưa chúng sanh đến bậc Nhất thiết trí. Như Lai biết chỗ qui thú của tất cả pháp, cũng biết rõ tâm sở hành của chúng sanh. Chỗ qui thú của tất cả pháp là nguồn cội của các pháp, Phật giác ngộ thấy rõ nhân nào đưa chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử, nhân nào đưa chúng sanh tới chỗ giải thoát Niết-bàn. Ngài thấy tận nguồn cội của pháp hữu vi sanh diệtthế gianpháp vô vi bất sanh bất diệt xuất thế gian. Bởi thấy tận nguồn cội của các pháp, nên thấy được tâm sở hành của chúng sanh, tức là tâm ưa thích đến chỗ này đến chỗ kia của chúng sanh. Do biết pháp và biết tâm người nên Phật giáo hóa thông suốt không chướng không ngại. Chúng ta hiện thời, pháp thì biết chút ít, tâm người cũng biết sơ sơ, nên giáo hóa thường bị chướng ngại. Nếu biết pháp mà không biết tâm người, thì nói pháp chỉ khế lý mà không khế cơ nên người nghe không thỏa mãn, không thực hành theo, không được lợi ích, do đó có chướng ngại. Nếu biết tâm người mà không biết pháp thì cũng không giáo hóa được, vì chính bản thân mình chưa tu chưa tiến, làm sao biết rõ đường hướng để chỉ dạy cho người tu theo? Thế nên giáo hóa mà bị chướng ngại là lỗi tại chúng ta chưa được trí tuệ viên mãn, không biết pháp không rõ tâm người!

CHÁNH VĂN:

2.- Ca-diếp! Thí như trong cõi tam thiên đại thiên nơi núi, sông, khe, hang, ruộng, đất, sanh ra cây cối, lùm rừng và các cỏ thuốc, bao nhiêu giống loại tên gọi màu sắc đều khác. Mây dầy bủa giăng trùm khắp cõi tam thiên đại thiên, đồng thời mưa xối xuống, khắp nơi nhuần thấm. Cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc: hoặc thứ gốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh nhỏ, lá nhỏ; hoặc thứ gốc bậc vừa, thân vừa, nhánh vừa, lá vừa; hoặc có thứ gốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn.

Các giống cây lớn nhỏ, tùy hạng thượng, trung, hạ mà hấp thọ khác nhau. Một cụm mây tuôn mưa xuống xứng theo mỗi giống loại mà cây cỏ được sanh trưởng, đơm bông kết trái. Dầu rằng một cõi đất sanh, một trận mưa thấm nhuần mà các cỏ cây đều có sai khác.

GIẢNG:

Phật dụ mặt đất sanh ra cây cỏ thuốc, cây nhỏ, cây vừa, cây lớn, màu sắc tên gọi khác nhau. Một trận mưa xuống, tùy theo khả năng của mỗi loại mà thấm nhuần sanh trưởng khác nhau. Ở đây nêu lên hai cái bình đẳng. Bình đẳng thứ nhất là cây lớn, cây vừa, cây nhỏ, tất cả đều từ đất mọc lên. Bình đẳng thứ hai là dù cây nhỏ cây vừa, hoặc cây lớn cũng được nước của trận mưa rưới đều. Cùng từ đất mọc lên, cùng nhận nước từ một trận mưa, mà sức hấp thụ phân nước của mỗi loại sai khác, nên thấm nhuần và sanh trưởng cũng sai khác.

Đất là dụ cho Tri kiến Phật nơi mỗi chúng sanh ai cũng có sẵn. Mưa là dụ cho pháp Phật dạy chung cho tất cả, nhưng tùy theo sự mê muội của mỗi chúng sanh dày hay mỏng mà nhận hiểu sâu hay cạn. Đó là do căn cơ của mỗi loại mà lợi ích có sai khác, không phải pháp Phật dành cho người cao hay dành cho người thấp. Vì căn cơ sai biệt nên pháp trở thành sai biệt. Cũng như trong pháp hội này, thính chúng đều là người xuất gia, ai cũng muốn nghe pháp mà đến đây. Tôi giảng cũng bình đẳng không đặc biệt dành riêng cho một người nào. Nhưng trong đây, có người hiểu sâu, có người hiểu cạn, có người nghe vui vẻ hân hoan, có người nghe không hiểu buồn ngủ... Có phải tại tôi nói pháp chú ý người này nên họ vui vẻ hân hoan, bỏ rơi người nọ nên họ buồn ngủ không? Tôi nói pháp bình đẳng, đối với người có khả năng tiếp thu được, họ hiểu nên họ vui. Người thiếu khả năng, nghe không hiểu nên buồn ngủ. Đó là do trình độ người nghe sai biệt nên hiểu biết cũng sai biệt

Qua ví dụ trên, chúng ta thấy rằng sở dĩ Phật nói ba thừa là tại căn cơ của chúng sanh sai biệt, nên Ngài tùy thuận nói, nhưng chỗ thú hướng bình đẳng là Ngài qui Tam thừa trở về Nhất thừa. Đó là ý nghĩa cùng một thửa đất cùng một đám mưa, nhưng tùy loại giống mà hấp thụ phân nước khác nhau nên có cây lớn, cây trung, cây nhỏ khác nhau.

CHÁNH VĂN:

3.- Ca-diếp nên biết! Đức Như Lai cũng lại như thế, hiện ra nơi đời như là vừng mây lớn nổi lên, dùng giọng tiếng lớn vang khắp thế giới cả trời, người, a-tu-la, như mây lớn kia trùm khắp cõi nước tam thiên đại thiên. Phật ở trong đại chúng mà xướng lời nầy:

"Ta là đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Người chưa được độ thời làm cho được độ, người chưa tỏ ngộ thời làm cho tỏ ngộ, người chưa an thời làm cho được an, người chưa chứng Niết-bàn thời làm cho chứng Niết-bàn, đời nay và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc Nhứt thiết trí, bậc Nhứt thiết kiến, là bậc Tri đạo, bậc Khai đạo, bậc Thuyết đạo. Các ngươi, hàng trời, người, a-tu-la đều nên đến đây vì để nghe pháp vậy."

Bấy giờ có vô số nghìn muôn ức loài chúng sanh đi đến chỗ đức Phậtnghe pháp. Lúc đó đức Như Lai xem xét các căn lợi độn, tinh tấn hay giải đãi của chúng sanh đó, thuận vừa sức nó kham được mà vì chúng nói pháp, chủng loại nhiều vô lượng, Phật đều khiến vui mừng được nhiều lợi lành. Các chúng sanh nầy nghe pháp rồi, hiện đời an ổn, đời sau sanh về chỗ lành, do đạo được thọ hưởng vui và cũng được nghe pháp, đã nghe pháp rồi lìa khỏi các chướng ngại, ở trong các pháp theo sức mình kham được lần lần đều được vào đạo.

Như mây lớn kia mưa rưới khắp tất cả cỏ cây lùm rừng, và các cỏ thuốc, theo giống của mỗi thứ đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sanh trưởng.

Đức Như Lai nói pháp một tướng, một vị, nghĩa là: tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, rốt ráo đến bậc "Nhứt thiết chủng trí". Có chúng sanh nào nghe pháp của Như Lai hoặc thọ trì, đọc tụng, đúng như lời mà tu hành, được công đức tự mình không hay biết.

Vì sao? Vì chỉ có Như Lai là biết Chủng tướng Thể tánh của chúng sanh đó: Nhớ việc gì? Nghĩ việc gì? Tu việc gì? Nhớ thế nào? Nghĩ thế nào? Tu thế nào? Dùng pháp gì để nhớ? Dùng pháp gì để nghĩ? Dùng pháp gì để tu? Dùng pháp gì được pháp gì?

Chúng sanh ở nơi các bậc, chỉ có đức Như Lai thấy đó đúng như thật, rõ ràng không bị ngại. Như cây cối lùm rừng, các cỏ thuốc kia không tự biết tánh thượng, trung, hạ của nó.

Đức Như Lai biết pháp một tướng một vị ấy, nghĩa là: tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, tướng rốt ráo Niết-bàn thường tịch diệt, trọn về nơi không, Phật biết như thế rồi xem xét tâm ưa muốn của chúng sanh mà dắt dìu nó, cho nên chẳng liền vì chúng vội nói "Nhứt thiết chủng trí".

Ca-diếp! Các ông rất là hi hữu, có thể rõ biết đức Như Lai tùy cơ nghi nói pháp hay tin hay nhận, vì sao? Vì các đức Phật Thế Tôn tùy cơ nghi nói pháp khó hiểu khó biết.

GIẢNG:

Tới đây, chúng ta thấy như đức Phật tự khen mình. Nhưng kỳ thật Phật xác định công đức Như Lai rộng lớn như vậy, là do làm lợi ích cho chúng sanh trong vô số kiếp mới được thành tựu quả Phật. Ngài tuyên bố dõng dạc rằng: Khả năng và sở nguyện của Ngài là làm lợi ích chúng sanh đến chỗ viên mãn. Đối với người chưa được độ Ngài làm cho được độ, người chưa tỏ ngộ Ngài làm cho tỏ ngộ, người chưa an Ngài làm cho được an, người chưa chứng Niết-bàn Ngài làm cho chứng Niết-bàn, ở đời này và đời sau, Ngài đều biết đúng như thật. Ngài là bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết kiến, bậc Tri đạo, bậc Khai đạo, bậc Thuyết đạo. Hàng trời, người, a-tu-la nên đến để nghe pháp.

Xét lại, chúng tachúng sanh đời sau chưa được độ, chưa được tỏ ngộ, chưa được an, chưa được Niết-bàn mà Phật đã diệt độ rồi, sao ở đây Ngài lại nói như thế? Đức Phật là đấng Vô thượng sư, một ông thầy không có ai hơn được. Khi đức Phật còn tại thế, Ngài thường khuyên dạy các Tỳ-kheo phải y theo pháp mà nỗ lực tu hành. Muốn đền ơn Phật là phải giáo hóa chúng sanh, giáo hóa chúng sanhđền ơn Phật. Chúng ta ở đời này cũng như chúng sanhđời sau không có duyên gặp Phật. Thuở Phật ra đời, không biết chúng ta là loài chúng sanh nào, có thể là kiến hay muỗi cắn Phật một chút, do cái duyên đó nên ngày nay cách Phật mấy ngàn năm mới được gặp Phật pháp tu hành. Tuy gặp Phật pháp mà chỉ gặp gián tiếp, chớ không được gặp trực tiếp. Chính vì lời dạy trên của Phật, mà sau khi Phật niết-bàn, hàng đệ tử lớn của Ngài ghi chép lời dạy của Ngài thành Tam tạng giáo điển lưu truyền cho đời sau. Người đi trước đã tu học, dạy cho người sau được tu học, cứ thế mà truyền mãi cho tới ngày nay, nên tất cả chúng ta cũng được gặp Phật pháp. Tuy chúng ta không tỏ ngộ như người xưa, nhưng cũng được phần tỉnh sáng, tuy không được Niết-bàn an vui vĩnh viễn như người xưa, nhưng cũng được những giờ phút an ổn. Ngày nay chúng ta được phúc duyên ngồi đây nghe pháp, là chúng ta đã được Phật gián tiếp độ rồi. Chúng ta được tỉnh sáng phần nào là nhờ Phật mà được tỏ ngộ. Tâm chúng ta bớt phiền não là nhờ Phật mà được an. Như vậy lời nói của Phật không dối.

Sở dĩ đạo Phật tồn tại hơn hai ngàn năm trăm năm nay là do giáo pháp Phật còn, và còn người tu đúng theo pháp Phật. Ngoài ra chùa chiền, di tích, nghi thức tôn giáo chưa phải là yếu tố chánh để duy trì Phật pháp. Trọng tâm của sự truyền bá đạo Phật, là phải làm sao chính mình thông hiểuthực hành đúng pháp Phật, để được lợi ích thực tiễn, rồi dạy người hiểu và tu đúng theo pháp Phật, được lợi ích như mình. Cho nên chúng tôi tự thấy trách nhiệm là phải làm sao cho Tăng NiPhật tử hiểu, thực hành được những gì mà chúng tôi đã hiểu, đã thực hành, thì khả dĩ Phật pháp mới được trường tồn. Nếu hiểu Phật pháp mà không tu hoặc tu sai, hay tu mà không hiểu Phật pháp là tự mình hủy diệt mình, tự làm cho đạo Phật không còn giá trị chân chánh nữa.

Phật nói Ngài là bậc Nhất thiết trí, tức là trí Phật biết được tất cả. Bậc Nhất thiết kiến, tức là Phật thấy được tất cả. Bậc Tri đạo, tức là Phật biết đường để dẫn cho mọi người đi. Bậc Khai đạo, tức Phật là người mở đường cho chúng sanh đi. Bậc Thuyết đạo, tức Phật là người nói con đường cho chúng sanh biết để đi. Vì vậy nên tất cả hãy đến để nghe. Phật biết rõ trình độ của chúng sanh nào là lợi căn, độn căn, tinh tấn, giải đãi... Ngài tùy theo căn cơ của họ mà giảng nói để họ cũng được lợi ích. Ngài không bỏ sót một người nào, khôn lanh Phật cũng độ, dại khờ Phật cũng độ, siêng năng Phật cũng độ, lười biếng Phật cũng độ. Nên Ngài nói ai ai cũng đều được lợi lành, được an ổn, đời sau sanh vào cõi lành, hưởng vui sướng. Nhờ nghe pháp Phật mà bớt chướng ngại, lần lần sẽ được vào đạo, chứng Phật quả. Pháp Phật ví như một đám mưa lớn rưới khắp tất cả cỏ cây, tùy theo giống của mỗi loại đều được hấp thụ, đượm nhuần và sanh trưởng.

Pháp Phật nói chỉ có một tướng, một vị, đó là tướng giải thoát, vị giải thoát. Phật giáo hóa suốt bốn mươi chín năm, Ngài nói pháp rất nhiều, tại sao chỉ có một tướng giải thoát, một vị giải thoát? Như chúng ta biết, Phật nói pháp thấp nhất là năm giới, người giữ năm giớigiải thoát được năm phần chướng nạn. Ví dụ người có tật tham lam trộm cắp, khi phát nguyện giữ năm giới thì không trộm cắp nữa, không trộm cắp là đã giải thoát được cái nạn bị bắt bớ đánh đập tù tội. Người ghiền rượu khi phát nguyện giữ năm giới thì giải thoát được cái nạn nghiện ngập say sưa. Vậy giữ một giới là giải thoát được một nạn chướng, giữ hai giới là giải thoát được hai nạn chướng... Trong luật gọi là từng phần giải thoát. Như vậy không phải pháp Phật có một vị là vị giải thoát sao?

Tướng xa lìaxa lìa tham sân si, phiền não chấp trước. Đối trước danh lợi, tài sắc... biết là giả dối không thật, không khởi tham sân si, chấp trước, đó là xa lìa, chớ không phải chạy trốn danh lợi, tài sắc mới gọi là xa lìa. Tướng diệt là sạch hết mọi vọng niệm, tâm thanh tịnh, hướng đến bậc Nhất thiết chủng trí. Sở dĩ Phật dạy cho tất cả chúng sanh đều được giải thoát, là vì Ngài được Nhất thiết chủng trí, tức là trí biết được mọi chúng sanh. Nên ai nghe kinh này rồi thọ trì, đọc tụng và đúng như lời Phật dạytu hành thì người đó được công đức tự mình không hay biết, không thể suy lường. Chúng ta ngày nay chỉ đọc tụng mà không đúng như lời Phật dạy để tu hành, cho rằng đọc tụng nhiều là tu nhiều. Tu và đọc có giống nhau không? Nếu bảo đọc tụng kinh là tu, tôi cho rằng chưa đúng. Vì sao? Ví dụ một bệnh nhân đến bác sĩ khám bệnh. Bác sĩ cho toa bảo về nhà mua đủ những thứ thuốc ghi trong toa mà uống sẽ lành bệnh. Bệnh nhân đem toa về cứ đọc tới đọc lui hiệu thuốc ghi trong toa, mà không mua thuốc để uống. Như thế bệnh có lành không? Cũng vậy, ở đây Phật dạy đọc tụng rồi đúng như lời dạy của Phật mà tu hành mới được công đức. Phải hiểu chỗ này cho thật kỹ. Đọc rồi nhớ ứng dụng lời Phật dạy vào cuộc sống đó là tu, chớ không phải đọc tụng suông như đọc toa thuốc mà gọi là tu được.

Hiện tại có rất nhiều người tụng kinh Pháp Hoa, tu theo kinh Pháp Hoa, nhưng chúng ta tụng và tu theo kinh Pháp Hoa với tâm niệm gì? Cầu Trí tuệ Phật hay cầu phước báo, cầu lợi lộc? Nếu cầu phước cầu lợi là phản bội kinh Pháp Hoa rồi! Tôi xin nhắc lại kinh Pháp Hoa dạy tu để được Nhất thiết chủng trí, tức là tu để được Trí tuệ Phật. Phật dạy một đàng chúng ta làm một nẻo, mà cho là trì kinh, cho là mình tu cao, chỉ tăng trưởng lòng tham, tăng trưởng ngã mạn. Đó là một cái bệnh mà ít ai biết. Nói lời thật thì khó nghe và làm mích lòng người. Nhưng biết, thấy người tu sai mà không nói thì vấp phải cái lỗi bỏn sẻn, nên buộc lòng chúng tôi phải nói. Giảng kinh Pháp Hoa là phải làm sáng tỏ lý kinh, chớ để cho người tu theo kinh Pháp Hoa mà tu lầm, tu sai thì không được.

Tại sao trì tụng kinh và đúng như lời dạy của Phật tu hành mà không tự biết công đức? Vì mình không tự biết mình căn cơ ở bậc thượng, bậc trung hay bậc hạ. Chỉ có Phật mới biết, nên Ngài mới bủa ra nhiều pháp môn. Chúng sanh thích hợp với pháp môn nào thì ứng dụng pháp môn đó mà tu hành, chớ tự mình không biết. Phật do được Nhất thiết chủng trí mới biết được Chủng tướng, Thể tánh của chúng sanh: Nhớ việc gì? Nghĩ việc gì? Tu việc gì? Nhớ thế nào? Nghĩ thế nào? Tu thế nào? Dùng pháp gì để nhớ? Dùng pháp gì để nghĩ? Dùng pháp gì để tu? Và được pháp gì? Nên Ngài đúng theo từng tâm niệm của chúng sanhgiáo hóa được kết quả thiết thực. Chúng ta tu chưa được Nhất thiết chủng trí, nói pháp không đúng tâm niệm của chúng sanh nên không có kết quả tốt.

Xưa ngài A-nan hướng dẫn cho hai vị đệ tử Sa-di tu, một vị Ngài dạy quán sổ tức, một vị Ngài dạy quán bất tịnh. Cả hai tu một thời gian không kết quả, khi gặp lại Ngài, hai vị trình là tu không tiến bộ. Ngài A-nan thắc mắc tại sao mình dạy tu đúng với pháp Phật mà đệ tử tu không có kết quả. Ngài bèn trình việc này lên Phật, Phật hỏi hai vị đó trước làm nghề gì. Ngài A-nan thưa, một người làm thợ rèn, một người giữ nghĩa địa. Phật nói ngài A-nan dạy tu không hợp căn cơ của người. Với người thợ rèn thì nên dạy tu sổ tức, vì thợ rèn hay thụt ống bễ, dạy quán sổ tức họ dễ nhớ dễ thực hành. Người giữ nghĩa địa thường thấy thây chết nên dạy quán bất tịnh. Theo lời Phật, ngài A-nan dạy hai vị Sa-di tu một thời gian được kết quả tốt. Để thấy chúng ta chưa được Nhất thiết chủng trí, không biết tâm hành của chúng sanh, nên giáo hóa không có kết quả. Vì vậy, chúng ta tu nửa chừng như hiện nay, dù có thông minh đến đâu đi nữa, cũng chưa đủ phương tiện giáo hóa người, nên đừng tự mãn mà phải tu cho đến chỗ rốt ráo thành Phật mới thôi. 

Phật lặp lại một lần nữa là pháp Phật có một tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, tướng rốt ráo Niết-bàn thường tịch diệt, trọn về nơi không, là chỉ cho Niết-bàn tịch diệt không có tướng mạo, không sanh diệt, không vô thường. Phàm cái gì có hình tướng thì sanh diệt, vô thường, là duyên hợp huyễn hóa không thật. Do đó Phật mới dùng phương tiện để đưa mọi người tu từ thấp lần lần lên cao, rồi đến Trí tuệ Phật là cái chân thật. Nên nói Như Lai tùy cơ nghi nói pháp mà tâm phàm phu chúng ta khó có thể hiểu biết được.

Tới đây Phật khen Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề rất là hi hữu ít có. Tại sao Phật khen các ngài rất ít có? Vì các ngài biết rõ Phật tùy cơ nghi nói pháp nên tin nhận được, chỗ khó hiểu khó biết bây giờ các ngài đã hiểu đã biết. Như vậy là các ngài xứng đáng gánh vác trách nhiệm mà Phật giao phó, nên Phật khen để rồi sau này Phật thọ ký.

CHÁNH VĂN:

Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

4.- Pháp vương phá các cõi

Hiện ra trong thế gian

Theo tánh của chúng sanh

Dùng các cách nói pháp.

Đức Như Lai tôn trọng

Trí huệ rất sâu xa

Lâu giữ pháp yếu này

Chẳng vội liền nói ra

Người trí nếu được nghe

Thời có thể tin hiểu,

Kẻ không trí nghi hối

Thời bèn là mất hẳn.

Ca-diếp! Vì cớ đó

Theo sức chúng nói pháp

Dùng các món nhân duyên

Cho chúng được chánh kiến.

Ca-diếp ông nên biết!

Thí như vừng mây lớn

Nổi lên trong thế gian

Che trùm khắp tất cả

Mây trí huệ chứa nhuần

Chớp nhoáng sáng chói lòa

Tiếng sấm xa vang động

Khiến mọi loài vui đẹp

Nhựt quang bị che khuất

Trên mặt đất mát mẻ

Mây mù sa bủa gần

Dường có thể nắm tới.

Trận mưa đó khắp cùng

Bốn phương đều xối xuống

Dòng nước tuôn vô lượng

Cõi đất đều rút đầy

Nơi núi sông hang hiểm

Chỗ rậm rợp sanh ra

Những cây cối cỏ thuốc

Các thứ cây lớn nhỏ

Trăm giống lúa mộng mạ

Các thứ mía cùng nho 

Nhờ nước mưa đượm nhuần

Thảy đều tươi tốt cả.

Đất khô khắp được rưới

Thuốc cây đều sum sê

Vừng mây kia mưa xuống

Nước mưa thuần một vị

Mà cỏ cây lùm rừng

Theo mỗi thứ đượm nhuần

Tất cả các giống cây

Hạng thượng, trung cùng hạ

Xứng theo tánh lớn nhỏ

Đều được sanh trưởng cả.

Gốc thân nhánh và lá

Trổ bông trái sắc vàng

Một trận mưa rưới đến

Cây cỏ đều thấm ướt

Theo thể tướng của nó

Tánh loại chia lớn nhỏ

Nước đượm nhuần vẫn một

Mà đều được sum sê.

 

 

GIẢNG:

Phần trùng tụng lặp lại ý chính ở trên là, Phật ra đời cốt chỉ cho mọi người nhận ra Tri kiến Phật. Nhưng vì căn cơ chúng sanh không đồng, nên phải tùy theo trình độgiáo hóasai biệt, để cho người cao cũng như người thấp đều nhận được lợi íchcuối cùng Ngài đưa đến chỗ cứu kính bình đẳng là quả Phật. Phật dụ pháp Phật bình đẳng như nước mưa có một vị ngọt rưới khắp cỏ cây lớn nhỏ, tùy mỗi loại cây mà hấp thụ nước sai biệt, nhưng loại nào cũng bình đẳng nhận lợi ích.

CHÁNH VĂN:

5.- Đức Phật cũng như thế 

Hiện ra nơi trong đời 

Ví như vầng mây lớn

Che trùm khắp tất cả.

Đã hiện ra trong đời

Bèn vì các chúng sanh

Phân biệt diễn nói bày

Nghĩa thật của các pháp

Đấng Đại Thánh Thế Tôn

Ở trong hàng trời người

Nơi tất cả chúng hội

Mà tuyên nói lời này:

Ta là bậc Như Lai

Là đấng Lưỡng Túc Tôn

Hiện ra nơi trong đời

Dường như vừng mây lớn

Thấm nhuần khắp tất cả

Những chúng sanh khô khao

Đều làm cho lìa khổ

Được an ổn vui sướng

Hưởng sự vui thế gian

Cùng sự vui Niết-bàn.

Các chúng trời người nầy

Một lòng khéo lóng nghe

Đều nên đến cả đây

Ra mắt đấng Vô thượng

Ta là đấng Thế Tôn

Không có ai bằng được

Muốn an ổn chúng sanh

Nên hiện ra trong đời 

Vì các đại chúng nói

Pháp cam lồ trong sạch

Pháp đó thuần một vị

Giải thoát Niết-bàn thôi.

Dùng một giọng tiếng mầu

Diễn xướng nghĩa nhiệm nầy

Đều thường vì Đại thừa

Mà kết làm nhân duyên

Ta xem tất cả chúng

Khắp đều bình đẳng cả

Không có lòng bỉ thử

Cùng với tâm yêu ghét

Ta không chút tham đắm

Cũng không có hạn ngại

Hằng vì tất cả chúng

bình đẳng nói pháp

Như khi vì một người

Lúc chúng đông cũng vậy

Thường diễn nói pháp luôn

Từng không việc gì khác

Ngồi, đứng, hoặc đến, đi

Trọn không hề nhàm mỏi

Đầy đủ cho thế gian

Như mưa khắp thấm nhuần

Sang hèn cùng thượng, hạ

Giữ giới hay phá giới

Oai nghi được đầy đủ

Và chẳng được đầy đủ

Người chánh kiến, tà kiến

Kẻ độn căn, lợi căn

Khắp rưới cho mưa pháp

Mà không chút nhàm mỏi.

Tất cả hàng chúng sanh

Được nghe pháp của ta

Tùy sức mình lãnh lấy

Trụ ở nơi các bực

Hoặc là ở trời, người

Làm Chuyển Luân Thánh vương

Trời, Thích, Phạm, các vua

Đó là cỏ thuốc nhỏ

Hoặc rõ pháp vô lậu

Hay chứng được Niết-bàn

Khởi sáu pháp thần thông

Và được ba món minh

Ở riêng trong núi rừng

Thường hành môn Thiền định

Chứng được bực Duyên giác

Là cỏ thuốc bực trung.

Hoặc cầu bực Thế Tôn

Ta sẽ được thành Phật

Tu hành tinh tấn, định

Là cỏ thuốc bực thượng.

Lại có hàng Phật tử

Chuyên tâm nơi Phật đạo

Thường thật hành từ bi

Tự biết mình làm Phật

Quyết định không còn nghi

Gọi đó là cây nhỏ.

Hoặc an trụ thần thông

Chuyển bất thối pháp luân

Độ vô lượng muôn ức

Trăm nghìn loài chúng sanh

Bồ-tát hạng như thế

Gọi đó là cây lớn.

Phật chỉ bình đẳng nói

Như nước mưa một vị

Theo căn tánh chúng sanh

Mà hưởng thọ không đồng

Như những cỏ cây kia

Được đượm nhuần đều khác.

6.- Phật dùng món dụ này 

Để phương tiện chỉ bày

Các thứ lời lẽ hay

Đều diễn nói một pháp

Ở nơi trí huệ Phật

Như một giọt trong biển.

Ta rưới trận mưa pháp

Đầy đủ khắp thế gian

Pháp mầu thuần một vị

Tùy sức riêng tu hành,

Như thể lùm rừng kia

Và cỏ thuốc những cây

Tùy giống lớn hay nhỏ

Lần lần thêm sum sê.

Pháp của các đức Phật

Thường dùng thuần một vị

Khiến cho các thế gian

Đều khắp được đầy đủ

Lần lựa siêng tu hành

Rồi đều được đạo quả.

Hàng Thanh văn, Duyên giác

Ở nơi chốn núi rừng

Trụ thân hình rốt sau

Nghe Phật pháp được quả

Đó gọi là cỏ thuốc

Đều được thêm lớn tốt.

Nếu các vị Bồ-tát

Trí huệ rất vững bền

Rõ suốt cả ba cõi

Cầu được thừa tối thượng

Đó gọi là cây nhỏ

Mà được thêm lớn tốt.

Lại có vị trụ thiền

Được sức thần thông lớn

Nghe nói các pháp không

Lòng rất sanh vui mừng

Phóng vô số hào quang

Độ các loài chúng sanh

Đó gọi là cây lớn

Mà được thêm lớn tốt

Như thế, Ca-diếp này!

Đức Phật nói pháp ra

Thí như vừng mây lớn

Dùng nước mưa một vị

Đượm nhuần nơi hoa người

Đều được kết trái cả

Ca-diếp ông phải biết

Ta dùng các nhân duyên

Các món thí dụ thảy

Để chỉ bày đạo Phật

Đó là ta phương tiện

Các đức Phật cũng thế

Nay ta vì các ông

Nói việc rất chân thiệt

Các chúng thuộc Thanh văn

Đều chẳng phải diệt độ

Chỗ các ông tu hành

Là đạo của Bồ-tát

Lần lần tu học xong

Thảy đều sẽ thành Phật.

 

GIẢNG:

Pháp Phật nói thì bình đẳng, không đặc biệt chú trọng kẻ thân người sơ, kẻ thấp người cao... Hạng người nào đến với Phật, Phật đều bình đẳng giáo hóa cho, không có tâm bỉ thử cùng với tâm yêu ghét. Nên việc giáo hóa của Ngài không chướng ngại, không hạn cuộc, khiến cho người nghe ai ai cũng đều được lợi ích. Tuy nhiên, tùy theo hạnh nguyện của mỗi người, mà sự lợi íchsai biệt. Đối với người nghe pháp Phật, phát tâm qui y giữ năm giới mong đời sau làm người lương thiện hưởng phước lành. Hoặc người phát tâm tu Thập thiện mong đời sau sanh lên cõi trời hưởng phước báo an vui, hoặc làm Chuyển Luân Thánh vương. Những người tu với hạnh nguyện như thế, Phật dụ như cỏ thuốc nhỏ. Đối với người tu theo pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, mong chứng quả Thanh văn, Duyên giác, Phật dụ như loại cỏ thuốc bậc trung. Đối với người tu chỉ mong cầu thành Phật không mong cầu quả vị nào khác và tinh tấn tu hành, tin mình sẽ thành Phật, Phật dụ như loại cỏ thuốc bậc thượng. Đối với hàng Bồ-tát mới phát tâm, thực hành hạnh từ bi, làm lợi ích chúng sanh, tinh tấn tu hành, tin mình sẽ thành Phật không còn nghi ngờ nữa. Hàng Bồ-tát này, Phật dụ như loại cây nhỏ... Đối với hàng Bồ-tát an trụ thần thông, chuyển pháp luân bất thoái, độ vô lượng vô số chúng sanh, đây chỉ cho hàng Bồ-tát từ Sơ địa cho tới Thập địa. Hàng Bồ-tát này được Phật dụ như loài cây lớn.

Trong năm hạng người phát tâm tu với hạnh nguyện sai khác, được Phật dụ cho ba loại cỏ và hai loại cây. Chúng ta tự kiểm lại xem chúng ta thuộc hạng nào trong năm hạng này? Ở đây đức Phật cụ thể hóa ví dụ, là trình độ chúng sanh tuy sai biệt nên pháp tu có thấp cao, nhưng pháp Phật thì bình đẳng chỉ có một vị giải thoát. Bởi pháp Phật bình đẳng chỉ có một vị giải thoát, tuy lúc đầu phát tâm nhỏ, tu giữ năm giới, tu Thập thiện, nhưng dần dần sẽ tiến đến chỗ viên mãnthành Phật, chớ không có dừng nghỉ ở một quả vị nửa chừng.

Phẩm Dược Thảo Dụ nói lên tâm bình đẳng của Phật khi giáo hóa chúng sanh, giống như nước mưa rưới khắp tất cả loài cây cỏ. Và chúng sanh ai ai cũng có Tri kiến Phật, bình đẳng như nhau cùng nghe pháp Phật, tùy theo căn cơ sai biệtlợi ích có sai khác. Nhưng cuối cùng rồi cũng được thành Phật, giống như các loài cây cỏ đều từ mặt đất mọc lên tùy loại giống mà hấp thụ nước mưa sai khác, nhưng tất cả cây lớn hay cỏ nhỏ loại nào cũng đều được sanh trưởng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11536)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11863)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12457)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10670)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15250)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12003)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15189)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11885)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10510)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16418)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11727)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11523)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12664)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12783)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17883)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8993)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12939)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10216)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15188)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14150)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19534)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14063)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24417)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10590)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant