Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 11 Hiện Bảo Tháp

25 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7266)
Phẩm 11 Hiện Bảo Tháp

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
GIẢNG GIẢI

Hoà thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Chân Không

 

PHẨM 11 HIỆN BẢO THÁP

 

Như tôi đã nói mục đích Phật nói kinh Pháp Hoa là để khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Tri kiến Phật. Phẩm Tự nói tổng quát trọn bộ kinh. Từ phẩm Phương Tiện đến phẩm Pháp Sư là phần khai Phật tri kiến. Những phẩm này Phật dùng những phương tiện thực tế, cũng như các đệ tử Phật dùng những thí dụ cụ thể nói lên chỗ nhận hiểu của các ngài, để minh chứng rằng các ngài đã tin nhận nơi mình có sẵn Tri kiến Phật. Trước tiên là ngài Xá-lợi-phất, kế đến là bốn vị Đại Ca-diếp, Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên... sau nữa gồm năm trăm vị A-la-hán, và cuối cùng thì có những vị hữu học vô học như ngài A-nan, La-hầu-la... Phật tùy theo cơ duyênthọ ký cho, phần này là phần khai, tức là mở ra cái hướng để nhìn và đi vào.

Phẩm Hiện Bảo Tháp là phần "thị" Phật tri kiến. "Thị" là chỉ cho người thấy (ngộ), "thị" và "ngộ" không rời nhau. Tri kiến Phật tướng trạng như thế nào mà có thể chỉ được? Tri kiến Phật là Tánh giác có sẵn nơi mỗi người, hằng sáng soi mà không hình không tướng, nên khó chỉ khó nhận. Giống như không khí tối cần thiết cho lẽ sống của sanh vật, nhưng không hình không tướng nên khó chỉ; khó chỉ không phải là không có. Vì vậy mà phải mượn những hình ảnh biểu trưng để chỉ cho chúng ta ngầm nhận ra Tri kiến Phật, nên phẩm Hiện Bảo Tháp, phẩm Đề-bà-đạt-đa... nêu lên những hình ảnh biểu trưng cho Tri kiến Phật có sẵn muôn thuở không mất ở nơi mỗi người, khi người tin nhận thì nó hiện tiền. Ở đây mang tính cách giải bày nêu ra phần khai, thị, ngộ, nhập, kỳ thật toàn bộ kinh đều chỉ cho mọi người nhận ra nơi thân năm uẩn này có sẵn Tri kiến Phật chớ không ở nơi nào khác.

CHÁNH VĂN:

1.- Lúc bấy giờ, trước Phật có tháp bằng bảy báu, cao năm trăm do-tuần, ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần, từ dưới đất nổi lên trụ ở giữa hư không; các món vật báu trau giồi, năm nghìn bao lơn, nghìn muôn phòng nhà, vô số tràng phan để nghiêm sức đó, chuỗi ngọc báu rủ xuống, muôn nghìn linh báu treo trên tháp. Bốn mặt đều thoảng đưa ra mùi hương gỗ ly cấu, chiên-đàn khắp cùng cả cõi nước.

Các phan lọng đều dùng bảy thứ báu: vàng, bạc, lưu-ly, xa-cừ, mã não, trân châu và mai khôi hiệp lại thành, cao đến ngang cung trời Tứ thiên vương, trời Đao-lợi rưới hoa mạn-đà-la cúng dường tháp báu.

Các trời khác và rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân, phi nhân v.v... nghìn muôn ức chúng đều đem tất cả hoa, hương, chuỗi ngọc, phan, lọng, kỹ nhạccúng dường tháp báu, đồng cung kính tôn trọng ngợi khen.

Bấy giờ, trong tháp báu vang tiếng lớn ra khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn! Có thể dùng huệ lớn bình đẳngđại chúng nói kinh Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm Diệu Pháp Liên Hoa. Đúng thế! Đúng thế! Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn! Như lời Phật nói đó, đều là chân thật."

GIẢNG:

Tới đây Phật nêu lên hình ảnh một tháp bằng bảy báu, từ dưới đất nổi lên trụ giữa hư không, rồi từ trong tháp đó vang ra tiếng khen Phật Thích-ca nói kinh Pháp Hoa là đúng là chân thật. Tháp bảy báutượng trưng cho cái thân hình thành bằng thất đại: đất, nước, gió, lửa, không, thức, kiến. Khi "ngộ", nhận ra Tri kiến Phật thì nó thanh tịnh trở thành thất bảo, nếu còn mê Tri kiến Phật, tâm uế trược thì nó là thất đại. Tại sao tháp bảy báu này nổi lên trụ ở giữa hư không mà không trụ ở mặt đất? Ở phẩm Pháp Sư, Phật có nói người giảng kinh Pháp Hoa phải có đủ ba điều kiệntừ bi, nhẫn nhụctrí tuệ rõ biết tất cả pháp không. Trụ trong hư không là ngồi tòa Như Lai, với Trí tuệ Bát-nhã thấy tất cả các pháp Tự tánh là Không. Thấy được như thế mới chuyển thất đại thành thất bảo. Ngay trong thất đại có sẵn Tri kiến Phật, đoạn sau biểu trưng bằng Phật Đa Bảo, nếu gặp duyên khai mở thì nó hiện ra rỡ ràng, nên nói ở trong tháp bảy báu vang ra tiếng khen Phật Thích-ca nói kinh Pháp Hoa đúng và chân thật. Kinh Pháp Hoa chính là Tri kiến Phật, chư Phật đời quá khứ cũng ngộ Tri kiến Phật, chư Phật đời hiện tại, đời vị lai cũng ngộ Tri kiến Phật không khác.

CHÁNH VĂN:

2.- Bấy giờ, bốn chúng thấy tháp báu lớn trụ trong hư không, lại nghe trong tháp vang tiếng nói ra, đều được pháp hỉ, lấy làm lạ chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính chấp tay rồi đứng một bên.

Lúc đó, có vị đại Bồ-tát tên Đại Nhạo Thuyết, biết lòng nghi của tất cả trời, người, a-tu-la v.v... trong thế gianbạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà có tháp này từ đất nổi lên, lại ở trong tháp vang ra tiếng như thế?"

Lúc đó, Phật bảo ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ-tát:

- Trong tháp báu này có toàn thân Như Lai, thời quá khứ về trước, cách đây vô lượng nghìn muôn ức vô số cõi nước ở phương Đông, có nước tên Bảo Tịnh, trong nước đó có Phật hiệuĐa Bảo, đức Phật đó tu hành đạo Bồ-tát phát lời thệ nguyện lớn rằng: Nếu ta được thành Phật sau khi diệt độ trong cõi nước ở mười phương có chỗ nào nói kinh Pháp Hoa, thời tháp miếu của ta vì nghe kinh đó mà nổi ra nơi trước để làm chứng minh khen rằng: "Hay thay!" Đức Phật đó thành Phật rồi lúc sắp diệt độ ở trong đại chúng, trời, người, bảo các Tỳ-kheo rằng: "Sau khi ta diệt độ muốn cúng dường toàn thân của ta thời nên dựng một tháp lớn."

Đức Phật đó dùng sức nguyện thần thông nơi nơi chỗ chỗ trong mười phương cõi nước, nếu có nói kinh Pháp Hoa, thời tháp báu đó đều nổi ra nơi trước, toàn thân Phật ở trong tháp khen rằng: "Hay thay! Hay thay!"

Đại Nhạo Thuyết! Nay tháp của Đa Bảo Như Lai vì nghe nói kinh Pháp Hoa nên từ dưới đất nổi lên khen rằng: "Hay thay! Hay thay!"

GIẢNG:

Từ trước những người đứng ra thưa hỏi là những vị Thanh văn, La-hán có trong lịch sử. Tới đây là phần "thị" Phật tri kiến dùng hình ảnh biểu trưng để chỉ, nên người đứng ra thưa hỏi cũng là vị Bồ-tát biểu trưng tên là Đại Nhạo Thuyết. Ngài đứng ra thưa hỏi nguyên do nào tháp nổi lên trụ giữa hư không và vang ra tiếng như vậy?

Ngài được đức Phật giải thích rằng, trong tháp báu ấy có toàn thân Như Lai. Thời quá khứ xa xưa, về phương Đông có cõi nước tên là Bảo Tịnh, Phật hiệu Đa Bảo tu hạnh Bồ-tát, có lời thệ nguyện là sau khi Ngài diệt độ, nơi nào nói kinh Pháp Hoa thì tháp Ngài sẽ nổi lên ở trước để nghe kinh và chứng minh. Đây lại nêu lên hình ảnh tượng trưng nữa. Phật đã thành Phật mà còn nghe pháp là chuyện thừa, vì đã là bậc vô học rồi đâu còn cần nương pháp để học để tu. Tại sao Phật Đa Bảo đã niết-bàn rồi mà còn nguyện nghe phápchứng minh pháp hội đó? Rõ ràngý nghĩa biểu trưng! Đa Bảo là nhiều báu, Bảo Tịnh là của báu trong sạch, nước Phật và hiệu Phật đều là quí báu, những món quí báu đều chỉ cho Tri kiến Phật. Tri kiến Phật thanh tịnh, sáng suốt không bị thời gian không gian chi phối, rất tôn quí nên nói là báu. Ở đây Phật Đa Bảo là chỉ cho Tri kiến Phật, hay Phật pháp thân, mà Phật pháp thân thì thanh tịnh ở ngay nơi thân thất đại của mỗi người, nên tượng trưng bằng cõi nước Bảo Tịnh. Thí dụ con người chúng ta tâm đang bị phiền não chi phối, thường tạo những ác nghiệp nên thường lộ ra dáng vẻ tối tăm nặng nề, nếu tâm thường an vui sáng suốt, thường tạo nghiệp lành thì lộ ra dáng vẻ tươi sáng thanh tịnh. Vì vậy ở đây nói tâm thanh tịnh thì hiện ra thân cũng thanh tịnh, nên nói là báu.

CHÁNH VĂN:

3.- Bấy giờ, ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ-tát do sức thần của đức Như Laibạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện muốn thấy thân của đức Phật đó." Phật bảo ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ-tát Ma-ha-tát:

- Phật Đa Bảo đó có nguyện sâu nặng: "Nếu lúc tháp báu của ta vì nghe kinh Pháp Hoahiện ra nơi trước các đức Phật, có Phật nào muốn đem thân ta chỉ bày cho bốn chúng, thời các vị Phật của Phật đó phân thân ra nói pháp ở các cõi nước trong mười phương đều phải nhóm cả một chỗ, vậy sau thân của ta mới hiện ra."

Đại Nhạo Thuyết! Các vị Phật của ta phân thân nói pháp ở các cõi nước trong mười phương nay nên sẽ nhóm lại. 

Ngài Đại Nhạo Thuyết bạch Phật rằng: "Thưa Thế Tôn! Chúng con cũng nguyện muốn thấy các vị Phật của Thế Tôn phân thân để lễ lạy cúng dường."

GIẢNG:

Đến đây, chúng ta càng thêm sáng tỏ là, đức Phật Đa Bảo có nguyện rằng khi tháp Ngài hiện ra trong hội nghe kinh Pháp Hoa, đức Phật giảng kinh Pháp Hoa trong thời đó, muốn cho tứ chúng thấy được thân của Ngài thì, các Hóa thân của Phật đó đang phân đi giáo hóa ở khắp nơi phải tụ hội về một chỗ, ngồi yên lại, mở tháp ra mới thấy được thân của Ngài. Nếu mà phân thân Phật đi làm Phật sự chưa tụ hội về thì không thể mở tháp được, và cũng không thấy toàn thân của Phật Đa Bảo được. Lời nguyện này có ý nghĩa gì? Phật pháp thân tức là Phật Đa Bảo, Phật báo thân là chỉ cho thân Phật Thích-ca giáng sanh ở Ấn Độ, Phật hóa thân hay Ứng thân là những thân Phật phân ra đi nói pháp ở các cõi trong mười phương. Muốn thấy được Phật Đa Bảo thì các Hóa thân phải cùng qui hội về nhập Pháp thân là thấy rõ toàn thân Ngài. Đoạn sau sẽ nói rõ ý này.

CHÁNH VĂN:

4.- Bấy giờ, Phật phóng một lằn sáng nơi lông trắng giữa chặng mày, liền thấy năm trăm muôn ức na-do-tha hằng hà sa cõi nước ở phương Đông. Các cõi nước đó đều dùng pha lê làm đất, cây báu, y báu để làm đồ trang nghiêm, vô số nghìn muôn ức Bồ-tát đầy dẫy trong nước đó. Khắp nơi giăng màn báu, lưới báu phủ trên, đức Phật trong nước đó đều dùng tiếng lớn tốt mà nói các pháp, và thấy vô lượng nghìn muôn ức Bồ-tát khắp đầy trong nước đó vì chúng sanh mà nói pháp. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía trên dưới chỗ tướng sáng lông trắng chiếu đến cũng lại như thế.

Lúc đó, các Phật ở mười phương đều bảo chúng Bồ-tát rằng: "Thiện nam tử! Ta nay phải qua thế giới Ta-bà, chỗ của đức Thích-ca Mâu-ni Phật, cùng để cúng dường tháp báu của Đa Bảo Như Lai."

5.- Lúc bấy giờ, cõi Ta-bà liền biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu-ly, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm dây để giăng ngăn tám đường, không có các tụ lạc làng xóm, thành ấp, biển cả, sông ngòi, núi sông cùng rừng. Đốt hương báu lớn, hoa mạn-đà-la trải khắp cõi đất, dùng lưới màn báu giăng trùm ở trên, treo những linh báu, chỉ lưu lại chúng trong hội này, dời các trời người để ở cõi khác.

Lúc đó, các đức Phật đều đem theo một vị Bồ-tát lớn để làm Thị giả qua cõi Ta-bà đều đến dưới cây báu, mỗi mỗi cây báu cao năm trăm do-tuần, nhánh lá bông trái thứ lớp rất trang nghiêm. Dưới các cây báu đều có tòa sư tử cao năm do-tuần cũng dùng đồ báu tốt mà trau dồi đó.

 Khi ấy, các đức Phật đều ngồi xếp bằng trên tòa này, như thế lần lựa đến khắp đầy cả cõi tam thiên đại thiên mà ở nơi thân của đức Thích-ca Mâu-ni Phật phân ra trong một phương vẫn còn chưa hết.

Bấy giờ, đức Thích-ca Mâu-ni vì muốn dung thọ các vị Phật của mình phân thân, nên ở tám phương lại biến thành hai trăm muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh, không có địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh cùng a-tu-la, lại cũng dời các hàng trời người để ở cõi khác.

Những nước của Phật biến hóa ra đó cũng dùng lưu-ly làm đất, cây báu trang nghiêm cao năm trăm do-tuần, nhánh lá bông trái đều có thứ lớp tốt đẹp, dưới cây đều có tòa báu sư tử cao năm do-tuần, dùng các thứ báu để trau dồi. Những nước đó cũng không có biển cả sông ngòi và các núi lớn: núi Mục-chân-lân-đà, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, núi Tu-di v.v... thông làm một cõi nước Phật, đất báu bằng thẳng, các báu xen lẫn nhau làm màn trùm khắp ở trên, treo các phan lọng, đốt hương báu lớn, các hoa trời báu trải khắp trên đất.

 Đức Thích-ca Mâu-ni Phật vì các Phật sẽ đến ngồi, nên ở nơi tám phương lại đều biến thành hai trăm muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh, không có địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và a-tu-la, lại dời các hàng trời người để ở cõi khác. Những nước biến hóa ra đó cũng dùng lưu-ly làm đất, cây báu trang nghiêm, cao năm trăm do-tuần, nhánh, lá, bông, trái thứ tự tốt đẹp, dưới cây đều có tòa sư tử bằng báu cao năm do-tuần, cũng dùng chất báu tốt mà trau dồi đó.

Những nước này cũng không có biển cả sông ngòi và các núi lớn: núi Mục-chân-lân-đà, núi Đại Mục-chân-lân-đà, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, núi Tu-di v.v... thông lại làm một cõi nước Phật đất báu bằng thẳng, các báu đương xen lẫn nhau thành màn trùm khắp ở trên, treo các phan lọng, đốt hương báu tốt, các thứ hoa trời báu trải khắp trên đất.

Bấy giờ, ở phương Đông, các đức Phật trong trăm nghìn muôn ức na-do-tha hằng hà sa cõi nước của đức Thích-ca Mâu-ni Phật phân thân ra, thảy đều nói pháp đến nhóm ở cõi này. Tuần tự như thế, các đức Phật trong cõi nước ở mười phương thảy đều đến nhóm ngồi ở tám phương. Bấy giờ, mỗi mỗi phương các đức Như Lai ngồi khắp đầy trong bốn trăm muôn ức na-do-tha cõi nước.

GIẢNG:

Đức Phật Thích-ca được đại chúng yêu cầu họp các Hóa thân Phật của Ngài về, để chúng chiêm ngưỡng và được thấy đức Phật Đa Bảo ở trong tháp. Bấy giờ Phật Thích-ca từ giữa chặng mày phóng ra một luồng hào quang sáng qua vô số cõi nước ở phương Đông, Nam, Tây, Bắc... Các Hóa thân Phật thấy hào quang liền biết Phật muốn mình qui hội về, tuần tự các ngài rủ nhau về. Khi vô số Hóa thân Phật đều qui hội về thì cõi Ta-bà này được dẹp hết các loài trời, người, a-tu-la, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục, chỉ còn một cõi thanh tịnh, hiện ra các tòa báu để cho Hóa thân Phật an trụ. Khi Hóa thân Phật an trụ xong thì Phật mới mở cửa tháp cho đại chúng thấy Phật Đa Bảo. Chúng ta phải hiểu như thế nào về ba đức Phật này? Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ có nói về ba thân Phật như sau:

Pháp thân khởi niệm; Pháp thânTự tánh pháp thân, khởi niệm là Hóa thân. Khi khởi niệm mà không dính không kẹt hai bên có không, tà chánh v.v... là Báo thân thanh tịnh. Thân tuy nói là ba nhưng cùng một Thể. Pháp thân là chỉ cho Tự tánh thanh tịnh của chính mình, Báo thân là chỉ cho tâm thanh tịnh lìa chấp hai bên, còn niệm tưởng dấy từ tâm gọi là Hóa thân. Như chúng ta mỗi ngày khởi vô số nghĩ tưởng hết chuyện xưa đến chuyện nay, hết chuyện thiện tới chuyện ác, hết chuyện bên Đông tới chuyện bên Tây... Đó là Hóa thân của chúng ta, vì chúng taphàm phu nên Hóa thân không đi giáo hóa chúng sanh, mà là đi phá phách chọc ghẹo chúng sanh, chớ không làm được điều gì hay. Ví dụ như đang tu, bỗng dưng khởi lên những niệm rất trần tục đó là phá phách chớ gì? Chư Phật đã giác ngộ thấy nơi nào chúng sanh có duyên liền khởi nguyện đến giáo hóa. Phật khởi niệm, khởi trong giác ngộ chớ không khởi trong mê mờ như chúng sanh. Do đó chúng sanhvô số phiền não, Phật cũng có vô số Hóa thân để giáo hóa. Bây giờ muốn thấy được Pháp thân Phật thì Hóa thân phải qui về với Báo thân và phải ngồi yên, nghĩa là những Hóa thân tức là những vọng tưởng chạy Đông chạy Tây khắp cả mười phương phải dừng, phải định thì Pháp thân Phật mới hiển hiện, nếu còn vọng tưởng rối loạn thì Pháp thân Phật không hiển hiện. Chúng ta tu hành lúc nào cũng vậy, nếu muốn được giác ngộ thì phải định, tức là sạch hết mọi loạn tưởng rồi mới phát tuệ, tức là nhận ra Tri kiến Phật sẵn có nơi mình. Đây là những hình ảnh biểu trưng, chúng ta chớ kẹt trên danh tướng mà không thấu được lý kinh, rồi không ứng dụng tu hành được.

Đến đây chúng ta thấy có cái gì mâu thuẫn: Tại sao cõi Ta-bà của Phật Thích-ca không thanh tịnh, nào là núi sông, gò nổng, sỏi cát... lộn xộn đủ thứ, còn các cõi phân thân Phật đến giáo hóa thì thanh tịnh trang nghiêm toàn là bảy báu? Như vậy phân thân do Phật hóa ra có giá trị hơn chính Báo thân Phật Thích-ca sao? Như trên đã nói Hóa thân là những vọng tưởng chạy khắp mười phương nghĩ về người, về trời, về thú, về địa ngục... đó là đang đi trong lục đạo. Tất cả những vọng tưởng đó đều bất tịnh. Khi mà dừng hết mọi vọng tưởng bất tịnh chạy Đông chạy Tây đó, thì tâm thanh tịnh an định, nên cõi nước cũng thanh tịnh, mà khi tâm thanh tịnh thì Phật hiện tiền. Nhưng muốn dừng hết mọi vọng tưởng không chạy Đông chạy Tây, hay nói theo trong kinh là gom hết Hóa thân Phật về một nơi thì trước tiên phải có trí tuệ không kẹt hai bên. Người đối với cảnh khởi niệm phân biệt hai bên, tốt xấu, hay dở, phải trái... rồi sanh ưa ghét, niệm khởi rồi diệt, diệt rồi sanh, sanh sanh diệt diệt, vô số vọng niệm chạy khắp sáu đường không dừng nghỉ, nên phiền não trần lao cũng vô số. Đó là người thấy một bên không có trí tuệ. Nếu người có trí tuệ đối với các pháp thấy đúng như thật, do duyên hợp tạm có, không có tự thể cố định nên không chấp thế này là tốt thế kia là xấu, không khởi niệm ưa chán tìm cầu hay ghét bỏ, nên không bị phiền não chi phối, tâm được an định. Như vậy là người có trí không kẹt hai bên. Trí không kẹt hai bên ở đây tượng trưng bằng hình ảnh hào quang phát ra ở giữa chặng mày.

CHÁNH VĂN:

6.- Lúc đó các đức Phật đều ngồi tòa sư tử dưới cây báu, đều sai vị Thị giả qua thăm viếng đức Thích-ca Mâu-ni Phật, đều đưa cho đầy bụm hoa báu mà bảo Thị giả rằng: 

- Thiện nam tử! Ngươi qua đến núi Kỳ-xà-quật, chỗ của đức Thích-ca Mâu-ni Phật, theo như lời của ta mà thưa cùng Phật thế này:"Như Lai có được ít bịnh ít khổ sức khỏe an vui, và chúng Bồ-tát cùng Thanh văn đều an ổn chăng?" Rồi đem hoa báu này rải trên Phật để cúng dường mà thưa rằng: "Đức Phật kia cùng muốn mở tháp báu này." 

Các đức Phật sai người đến cũng như vậy.

Bấy giờ, đức Thích-ca Mâu-ni Phật thấy các vị Phật của mình phân thân đều ngồi trên tòa sư tử, đều nghe các Phật cùng muốn đồng mở tháp báu, Phật liền từ chỗ ngồi đứng dậy trụ trên hư không, tất cả hàng bốn chúng đồng đứng dậy chấp tay một lòng nhìn Phật.

Khi ấy, đức Thích-ca Mâu-ni Phật dùng ngón tay hữu mở cửa tháp bảy báu vang ra tiếng lớn, như tháo khóa chốt mở cửa thành lớn.

Tức thời, tất cả chúng trong hội đều thấy đức Đa Bảo Như Lai ở trong tháp báu ngồi tòa sư tử, toàn thân không rã như vào Thiền định, lại nghe Phật đó nói: "Hay thay! Hay thay! Thích-ca Mâu-ni Phật sướng thích nói kinh Pháp Hoa đó, ta vì nghe kinh đó mà đến cõi này."

Bấy giờ,� hàng tứ chúng thấy đức Phật đã diệt độ vô lượng nghìn muôn ức kiếp về trước nói lời như thế đều khen là việc chưa từng có, đều đem hoa trời báu rải trên đức Phật Đa Bảo và Phật Thích-ca Mâu-ni.

Lúc đó, đức Đa Bảo Phật ở trong tháp báu chia nửa tòa cho Thích-ca Mâu-ni Phật mà nói rằng:"Thích-ca Mâu-ni Phật có thể đến ngồi trên tòa này." Tức thời đức Thích-ca Mâu-ni Phật vào trong tháp báu ngồi xếp bằng trên nửa tòa đó.

Bấy giờ, hàng đại chúng thấy hai đức Như Lai ngồi xếp bằng trên tòa sư tử trong tháp bảy báu thời đều nghĩ rằng: "Đức Phật ngồi trên cao xa, cúi mong đức Như Lai dùng sức thần thông làm cho bọn chúng con đều được ở trên hư không."

Tức thời đức Thích-ca Mâu-ni Phật dùng sức thần thông tiếp hàng đại chúng đều ở hư không, rồi dùng tiếng lớn mà khắp bảo đó rằng: "Ai có thể ở trong cõi Ta-bà này rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa nay chính phải lúc. Như Lai không bao lâu sẽ vào Niết-bàn, Phật muốn đem kinh Pháp Hoa này phó chúc cho có người."

GIẢNG:

Khi Hóa thân Phật cùng qui hội về, đều ngồi trên tòa sư tử sai Thị giả đem hoa báu đến núi Kỳ-xà-quật vấn an Phật Thích-ca, cùng với đại chúngcúng dường cung thỉnh Phật Thích-ca mở tháp bảy báu để chiêm ngưỡng Phật Đa Bảo.

Sau khi Hóa thân Phật qui hội về ngồi yên rồi, Phật Thích-ca mới mở được cửa tháp cho đại chúng thấy toàn thân Phật Đa Bảo trong tháp, và Phật Đa Bảo mời Phật Thích-ca cùng ngồi nửa tòa với Ngài. Như vậy để thấy rằng Pháp thân là có sẵn muôn đời nếu dừng hết vọng tưởng điên đảo thì ngay nơi Báo thân này Pháp thân hiện tiền. Nếu còn vọng tưởng duyên theo ngoại cảnh thì Pháp thân ẩn khuất không hiển hiện.

Khi đại chúng thấy hai đức Phật cùng ngồi tòa sư tử trong tháp bảy báu trên hư không, đều nghĩ rằng Phật ngồi trên hư không cao xa, mong đức Như Lai dùng sức thần thông khiến cho các ngài đều được ở trên hư không. Phật Thích-ca liền dùng thần thông tiếp đại chúng trên hư không. Tại sao có những hiện tượng như vậy? Như phẩm Pháp Sư đã nói, người nào muốn thấy được Tri kiến Phật là phải từ bi, nhẫn nhục và thấy tất cả pháp là Không. Vì vậy, đức Phật phương tiện giáo hóa để cho người dùng trí Bát-nhã tu, thấy tất cả pháp là Không, đó là thần thông, chớ không phải dùng thần lực đưa tất cả đại chúng từ mặt đất lên hư không để thấy Phật. Nếu Ngài biến hóa đại chúng được như vậy thì Ngài cũng biến hóa cho tất cả chúng sanh thành Phật, để họ khỏi tu, vì tu khó và lâu lắm mới được thành Phật. Đó là Ngài vận dụng phương tiện giáo hóa cho chúng sanh tỉnh giác, không còn lầm lẫn chấp các pháp là thật có. Thấy rõ các pháp duyên hợp giả có, Tự tánh là không, tâm không còn chấp, không còn chạy theo các pháp, tâm an định, Pháp thân hiển hiện. Vì vậy ở đây nói nâng đại chúng lên hư không để thấy Phật và được nghePhật nói pháp. Và sau khi nâng đại chúng lên hư không rồi, nói rằng: "Ai có thể ở trong cõi Ta-bà này rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nay chính phải lúc. Như Lai không bao lâu sẽ vào Niết-bàn, Phật muốn đem kinh Pháp Hoa này phó chúc cho có người." Khi nâng đại chúng lên hư không thì ngang chừng đó là phải lúc, là xứng đáng nhận lãnh lời phó chúc, nên Ngài kết luận là Ngài sắp vào Niết-bàn, ai có thể nói kinh Pháp Hoa thì Ngài giao phó. Khi đại chúng còn ở dưới đất tức là còn chấp có, chấp không, thấy hai bên, Ngài không tuyên bố lời này. Khi nâng đại chúng lên hư không, tức là đại chúng đã có trí tuệ thấy rõ tất cả pháp đúng như thật, không còn kẹt hai bên, Phật mới tuyên bố như vậy.

Qua những hình ảnh trên, nếu chúng ta căn cứ trên chữ nghĩa thì thấy khó hiểu khó tin, thấy như huyễn hoặc mê tín, rồi đâm ra phỉ báng kinh. Lý kinh thật cao siêu tuyệt diệu, nếu chúng ta không hiểu, vô tình biến thành cái tầm thường rồi phỉ báng, điều này không nên để xảy ra.

CHÁNH VĂN:

Khi ấy, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

7.-Đấng Thánh chúa Thế Tôn

Dầu diệt độ đã lâu

Ở trong tháp báu này

Còn vì pháp mà đến

Các ông lại thế nào

Há chẳng siêng vì pháp?

Phật Đa Bảo diệt độ

Đã vô lượng số kiếp

Nơi nơi đến nghe pháp

Vì khó gặp được vậy.

Phật kia bổn nguyện rằng:

Sau khi ta diệt độ

Nơi nơi tháp ta qua

Thường vì nghe Pháp Hoa.

Lại vô lượng các Phật

Số nhiều như Hằng sa

Của ta phân thân ra

Vì muốn đến nghe pháp

Và cùng để ra mắt

Phật diệt độ Đa Bảo

Nên đều bỏ cõi đẹp

Cùng với chúng đệ tử

Trời, người, rồng, thần thảy

Và các việc cúng dường

Muốn pháp lâu ở đời

Cho nên đến cõi này.

Ta vì các Phật ngồi

Dùng sức thần thông lớn

Dời vô lượng trời, người

Làm cho nước thanh tịnh.

Các đức Phật mỗi mỗi

Đều đến dưới cây báu

Như hoa sen trang nghiêm

Nơi ao báu trong sạch.

Dưới mỗi cây báu đó

Có tòa báu sư tử

Phật xếp bằng ngồi trên

Sáng suốt rất đẹp đẽ

Như giữa đêm tối tăm

Đốt đuốc lớn lửa sáng.

Thân Phật thoảng hương thơm

Bay khắp mười phương nước

Chúng sanh được hương xông

Vui mừng không kể xiết

Thí như luồng gió lớn

Thổi lay nhánh cây nhỏ

Dùng các phương tiện đó

Làm cho pháp ở lâu.

 

GIẢNG:

Phật khuyến khích đại chúng rằng Phật Đa Bảo đã niết-bàn lâu rồi, nay vì kinh Pháp Hoa mà hiện bảo tháp để nghe, bởi kinh Pháp Hoa khó gặp khó được, đại chúng nên phát tâm thọ trì kinh Pháp Hoa.

CHÁNH VĂN:

8.-Nói cùng hàng đại chúng

Sau khi ta diệt độ 

Ai có thể hộ trì

Đọc nói kinh pháp này

Thời nay ở trước Phật

Nên tự phát lời thệ.

Coi Phật Đa Bảo kia

Dầu đã diệt từ lâu

Do bổn thệ nguyện rộng

Mà còn rền tiếng lớn.

Đức Đa Bảo Như Lai

Và cùng với thân ta

Nhóm họp các Hóa Phật

Phải nên biết ý này.

Các hàng Phật tử thảy

Ai có thể hộ pháp

Nay nên phát nguyện lớn

Khiến pháp ở đời lâu.

Có ai hay hộ được

Kinh Diệu Pháp Hoa này

Thời là đã cúng dường

Thích-ca cùng Đa Bảo

Đức Đa Bảo Phật đây

Ở trong tháp báu lớn

Thường dạo qua mười phương

Vì để nghe kinh này.

Cũng là để cúng dường

Các Hóa Phật đến nhóm

Trang nghiêm rất sáng đẹp

Các thế giới vô lượng.

Nếu người nói kinh này

Thời là đã thấy ta

Cùng Đa Bảo Như Lai

Và các vị Hóa Phật.

 

GIẢNG:

Phật dạy tất cả những người đã phát tâm thọ trì kinh Pháp Hoa, sau đó là phải thệ nguyện. Tại sao phải thệ nguyện? Vì Phật Đa Bảo từ muôn kiếp tới giờ vẫn còn ở trong tháp không hư không hoại, đó là nói lên ý nghĩa Pháp thân không hoại diệt vì nó vô tướng, bởi vô tướng nên thọ trì rất là khó. Phàm cái gì có hình tướng mắt thấy tay sờ mó được thì nắm bắt gìn giữ tương đối dễ. Tri kiến Phật tuy không tướng mà hằng hiện hữu, muốn chỉ và muốn nhận rất khó, nên đòi hỏi người tu phải bền chí nhẫn nại tâm không lui sụt, mới có thể tiến tới đích được. Tuy biết mình có sẵn Tri kiến Phật, song thời gian tu để nhận ra nó không hạn định. Trong kinh thường diễn tả rất lâu xa, nếu thệ nguyện không vững, khi khỏe vui thì tu, mệt buồn thì nghỉ, như vậy không tiến. Do đó Phật dạy người phát tâm thọ trì kinh Pháp Hoa phải có chí nguyện bền vững.

CHÁNH VĂN:

9.-Các thiện nam tử này

Đều nên suy nghĩ kỹ

Đây là việc rất khó

Phải phát nguyện rộng lớn

Bao nhiêu kinh điển khác

Số nhiều như Hằng sa

Dầu nói hết kinh đó

Cũng chưa đủ làm khó,

Hoặc đem núi Diệu Cao

Ném để ở phương khác

Cách vô số cõi Phật

Cũng chưa lấy làm khó,

Nếu người dùng ngón chân

Động cõi nước Đại thiên

Ném xa qua cõi khác

Cũng chưa lấy làm khó,

Hoặc đứng trên Hữu đảnh

Nói vô lượng kinh khác

Vì để dạy bảo người

Cũng chưa lấy làm khó,

Nếu sau lúc Phật diệt

Người ở trong đời ác

Có thể nói kinh này

Đây thời rất là khó.

Giả sử lại có người

Dùng tay nắm hư không

Để mà khắp dạo đi

Cũng chưa lấy làm khó,

Sau khi ta diệt độ

Nếu người tự thơ trì[1]

Hoặc bảo người thơ trì

Đây thời là rất khó.

Hoặc đem cả cõi đất

Để trên móng ngón chân

Bay lên đến Phạm thiên

Cũng chưa lấy làm khó,

Sau khi Phật diệt độ

Người ở trong đời ác

Tạm đọc kinh pháp này

Đây thời mới là khó.

Giả sử gặp kiếp thiêu

Gánh mang những cỏ khô

Vào lửa không bị cháy

Cũng chưa lấy làm khó,

Sau khi ta diệt độ

Nếu người trì kinh này

Vì một người mà nói

Đây thời mới là khó.

Hoặc người trì tám muôn

Bốn nghìn các tạng pháp

Đủ mười hai bộ kinh

Vì người mà diễn nói

Khiến các người nghe pháp

Đều được sáu thần thông

Dầu được như thế đó

Cũng chưa lấy làm khó,

Sau khi ta diệt độ

Nghe lãnh kinh điển này

Hỏi nghĩa thú trong kinh

Đây thời mới là khó.

Hoặc có người nói pháp

Làm cho nghìn muôn ức

Đến vô lượng vô số

Hằng hà sa chúng sanh

Chứng được quả La-hán

Đủ sáu phép thần thông

Dầu có lợi ích đó

Cũng chưa phải là khó,

Sau khi ta diệt độ

Nếu người hay phụng trì

Những kinh điển như đây

Đây thời là rất khó.

 

GIẢNG:

Phật nói kinh Pháp Hoa rất khó thọ trì, khó đem ra giảng dạy. Ngài dùng những ví dụ để so sánh cái khó của kinh Pháp Hoa. Thứ nhất là dầu cho nói hết kinh điển của Phật nhiều như số cát sông Hằng cũng chưa đủ làm khó.

Thứ hai là đem núi Diệu Cao ném ở phương khác, cách vô số cõi Phật cũng chưa phải là khó. Thứ ba là dùng ngón chân động cõi nước Đại thiên ném xa qua cõi khác cũng chưa phải là khó. Thứ tư là đứng trên cõi trời Sắc cứu kính nói vô lượng kinh để dạy bảo người cũng chưa phải là khó. Thứ năm là dùng bàn tay nắm hư không để dạo đi khắp cõi nước cũng chưa phải là khó. Thứ sáu là đem tất cả cõi đất để trên móng ngón chân bay lên đến Phạm thiên cũng chưa phải là khó. Thứ bảy là gặp kiếp thiêu mang những cỏ khô vào lửa không bị cháy cũng chưa phải là khó. Thứ tám là trì tám muôn bốn ngàn tạng pháp đủ mười hai bộ kinh, giảng nói cho người nghe chứng Lục thông cũng chưa phải là khó. Thứ chín là nói pháp độ cho vô số chúng sanh chứng Lục thông La-hán cũng chưa phải là khó. Cái khó nhất là sau khi Phật diệt độ ở trong đời ác nói được kinh này mới thật là khó.

Chín việc khó vừa nêu trên, đối với khả năng chúng ta đã không làm được, thế mà sánh với việc thọ trì giảng nói kinh Pháp Hoa trong đời ác trược càng khó hơn nữa. Như vậy là sao? Đời ác trược là thời mà tâm người đang điên đảo móng vọng tìm cầu, tranh giành, dua nịnh, người mạnh lấn hiếp người yếu, khen mình chê người, lừa dối lẫn nhau. Với tâm người mê mờ cuồng loạn như thế, mà giảng nói Tri kiến Phật thì họ có tin có nhận được không? Thật khó mà tin nhận được! Vì muốn nhận ra Tri kiến Phật là phải dừng tất cả mọi vọng niệm. Nếu vọng niệm còn chạy ngược chạy xuôi, dù cho thuyết giảng thế nào chăng nữa, người ta cũng không hiểu không tin nên nói là khó. Nên nhớ, kinh này là chỉ cho Tri kiến Phật, chớ không phải bộ kinh văn tự được ghi chép bằng giấy mực và đóng lại thành tập thành bộ. Thế nên muốn giảng giải chỉ cho người nhận ra Tri kiến Phật là phải có đủ từ bi, nhẫn nhụctrí tuệ mới hội đủ điều kiện để thuyết giảng, nên nói là khó. Ngày nay chúng ta thấy giảng kinh Pháp Hoa tuy dễ, nhưng nếu làm đúng thì chúng ta ít ai làm được. Như hôm nay tôi giảng kinh Pháp Hoa cũng chỉ là gượng gạo nói, chưa trọn vẹn ý nghĩa trên và có lẽ người nghe cũng còn dính kẹt đủ thứ trần lao, nên nghe thì nghe chớ chưa nhận ra Tri kiến Phật.

CHÁNH VĂN:

10.-Ta vì hộ Phật đạo

Ở trong vô lượng cõi 

Từ thuở trước đến nay

Rộng nói nhiều các kinh

Mà ở trong kinh đó

Kinh này là bậc nhứt

Nếu có người trì được

Thời là trì thân Phật.

Các thiện nam tử này

Sau khi ta diệt độ

Ai có thể thọ trì

đọc tụng kinh này

Thời nay ở trước Phật

Nên tự nói lời thệ

Kinh pháp đây khó trì

Nếu người tạm trì đó

Thời ta rất vui mừng

Các đức Phật cũng thế

Người nào được như vậy

Các đức Phật thường khen

Đó là rất dõng mãnh

Đó là rất tinh tấn

Gọi là người trì giới

Bậc tu hạnh đầu-đà

Thời chắc sẽ mau được

Quả Vô thượng Phật đạo.

Có thể ở đời sau

Đọc trì kinh pháp này

chân thật Phật tử

Trụ ở bậc thuần thiện.

Sau khi Phật diệt độ

Có thể hiểu nghĩa này

Thời là mắt sáng suốt

Của trời người trong đời.

trong đời kinh sợ

Hay nói trong chốc lát

Tất cả hàng trời người

Đều nên cúng dường đó.

 

GIẢNG:

Vì muốn hộ trì Phật đạo thường còn mà Phật hằng nói kinh, và trong các kinh, Phật thường nói kinh Pháp Hoa là bậc nhất. Nên người nào thọ trì kinh này là hộ trì pháp Phật, thọ trì thân Phật được Phật hoan hỉ tán thán khen ngợi là người trì giới tinh tấn, dõng mãnh tu hạnh đầu-đà, chắc chắn sẽ mau được Vô thượng Phật đạo, sẽ là con mắt sáng cho thế gian, xứng đáng cho trời người cúng dường.

 


[1] Thơ trì: biên chép và thọ trì

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15666)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10975)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53444)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12874)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16390)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15261)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19055)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19813)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15420)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15240)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15057)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20183)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23725)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15349)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12948)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19848)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13174)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28928)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11602)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18184)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16523)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13128)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12691)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13121)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12880)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12768)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12898)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13437)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11587)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14142)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17647)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22275)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13344)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14194)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105554)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14500)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19632)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38296)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15419)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34544)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 15946)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11265)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15565)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13904)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12743)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13571)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12396)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19292)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26885)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13050)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13371)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21476)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17857)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21755)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14081)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15968)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15982)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18970)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24596)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant