Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 16 Như Lai Thọ Lượng

25 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7162)
Phẩm 16 Như Lai Thọ Lượng

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
GIẢNG GIẢI

Hoà thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Chân Không

 

PHẨM 16 NHƯ LAI THỌ LƯỢNG

Như ở trước đã nói Trí vô sư không lệ thuộc thời gian, không giới hạn trong không gian. Tuy Phật nói tất cả hội chúng đều nghe, nhưng chưa hiểu hết, nên giờ đây Phật mới nói tuổi thọ của Phật không thể tính kể. Tuổi thọ của Phật đây không phải tuổi thọ của Phật Thích-ca tám mươi tuổi thị tịch, mà là tuổi thọ của Phật pháp thân

CHÁNH VĂN:

1.- Lúc bấy giờ, Phật bảo các Bồ-tát và tất cả đại chúng: "Các thiện nam tử! Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai."

Lại bảo các đại chúng: "Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai."

Lại bảo các đại chúng: "Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai."

Lúc đó, đại chúng Bồ-tát, ngài Di-lặc làm đầu, chấp tay bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật." Ba phen bạch như thế rồi lại nói: "Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật."

GIẢNG:

Tại sao Phật bảo tới ba lần là phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai? Vì điều Phật nói là một lẽ thật, nhưng lẽ thật quá tầm tin hiểu của con người. Nên Phật lặp lại nhiều lần để cho mọi người chú ý lắng nghe.

 Ba lần Phật bảo phải tin hiểu lời Phật nói. Đáp lại ba lần các vị Bồ-tát hứa sẽ tin lời Phật. Sau Phật mới nói.

CHÁNH VĂN:

2.- Bấy giờ, đức Thế Tôn biết các vị Bồ-tát ba phen thỉnh chẳng thôi, mà bảo đó rằng: 

- Các ông lóng nghe! Sức bí mật thần thông của Như Lai, tất cả trong đời, trời, người và a-tu-la đều cho rằng nay đức Thích-ca Mâu-ni Phật ra khỏi cung họ Thích, cách thành Già-da chẳng bao xa, ngồi nơi đạo tràng, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Nhưng, thiện nam tử! Thiệt ta thành Phật nhẫn lại đây, đã vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức na-do-tha kiếp. Ví như năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi tam thiên đại thiên, giả sử có người nghiền làm vi trần qua phương Đông, cách năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước, bèn rơi một bụi trần, đi qua phía Đông như thế cho đến hết vi trần đó.

Các thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Các thế giới đó có thể suy gẫm so tính biết được số đó chăng?

Di-lặc Bồ-tát thảy, đều bạch Phật rằng: 

- Thế Tôn! Các thế giới đó vô lượng vô biên, chẳng phải tính được, đếm được, cũng chẳng phải tâm lực biết đến được. Tất cả Thanh văn, Duyên giác dùng trí vô lậu, chẳng có thể suy nghĩ biết được hạng số đó. Chúng con trụ bậc bất thoái, ở trong việc này cũng chẳng thông đạt.

Thế Tôn! Các thế giới như thế, nhiều vô lượng vô biên.

GIẢNG:

Đại đa số người nghĩ rằng: Phật thành Phật, theo sử ghi Thái tử Sĩ-đạt-ta từ cung vua Tịnh Phạn xuất gia tu hành thành Phật dưới cội bồ-đề. Chớ không ai tin rằng Phật thành Phật từ vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp rồi. Phật Thích-ca thành đạo dưới cội bồ-đề là căn cứ trên sự tướng tu hành. Vì mọi người quên Trí vô sư sẵn có nơi mình, bây giờ nhờ tu, phá sạch vô minh phiền não, Trí vô sư hiển hiện gọi là thành Phật. Vì vậy mà nói tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật. Nếu căn cứ trên Thể tánh, thì Trí vô sư đã sẵn có nơi mỗi người từ bao giờ, không hạn cuộc bởi thời gian. Vì vậy mà nói tất cả chúng sanh đều đã thành Phật. Với tâm phàm phu, chúng ta nghe nói tất cả chúng sanh ai cũng sẽ thành Phật, thì chấp nhậnhy vọng, cố gắng tu để sau này thành Phật. Còn nói tất cả chúng sanh đã thành Phật thì nghi vấn: Mọi người ai cũng còn phàm phu, tham sân si dẫy đầy, đụng chạm gây phiền não cho nhau không ít, mà nói đã thành Phật, làm sao tin? Bây giờ tôi ví dụ như mặt trăng đã có sẵn từ bao giờ. Nếu người ở trong vòng quay của quả đất thì thấy mặt trăng khi mọc khi lặn, khi khuyết khi tròn, khi có khi không. Nếu người ra khỏi vòng quay của quả đất thì thấy mặt trăngmặt trăng, không còn có hiện tượng trăng mọc, trăng lặn, trăng tròn, trăng khuyết... Cũng vậy, Trí vô sư có sẵn từ thuở nào không tối không sáng. Nhưng vì vô minh phiền não phủ che, người lúc mê lúc giác nên thấy có tối có sáng. Khi hết vô minh phiền não, Trí vô sư hằng hiển hiện, thì không còn nói tối nói sáng nữa.

CHÁNH VĂN:

3.- Bấy giờ, Phật bảo các chúng đại Bồ-tát: 

- Các thiện nam tử! Nay ta sẽ tuyên nói rành rõ cho các ông. Các thế giới đó, hoặc dính vi trần hoặc chẳng dính, đều nghiền cả làm vi trần, cứ một trần là một kiếp, từ ta thành Phật nhẫn lại đến nay, lại lâu hơn số đó trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp. Từ đó nhẫn lại, ta thường ở cõi Ta-bà này nói pháp giáo hóa, cũng ở trong trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước khác, dắt dẫn lợi ích chúng sanh.

Các thiện nam tử! Nơi chặng giữa đó ta nói Phật Nhiên Đăng v.v... và lại có các đức Phật nhập Niết-bàn, như thế đều là dùng phương tiện để phân biệt.

Các thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào đến chỗ ta, ta dùng Phật nhãn quan sát: tín, v.v... các căn lợi độn của chúng, tùy theo chỗ đáng độ, nơi nơi tự nói văn tự chẳng đồng, niên kỷ hoặc lớn, hoặc nhỏ, cũng lại hiện nói sẽ nhập Niết-bàn, lại dùng các trí phương tiện nói pháp vi diệu, có thể làm cho chúng sanh phát lòng vui mừng.

Các thiện nam tử! Như Lai thấy những chúng sanh ưa nói pháp Tiểu thừa, đức mỏng tội nặng. Phật vì người đó nói: Ta lúc trẻ xuất gia được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhưng thiệt, từ ta thành Phật nhẫn lại, lâu xa dường ấy, chỉ dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, khiến vào Phật đạo, nên nói như thế.

GIẢNG:

Trên Phật dùng ví dụ: Nghiền nát trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi tam thiên đại thiên thành vi trần, cứ một vi trần tính là một kiếp. Phật nói từ khi Phật thành đạo tới nay lâu hơn số kiếp tính bằng vi trần nghiền nát, và Phật ở cõi Ta-bà cùng các cõi nước khác giáo hóa làm lợi ích chúng sanh cũng lâu như thế. Vậy tuổi thọ của Phật là bao nhiêu? Không thể nghĩ bàn tính đếm được. Thời gianý niệm của con người căn cứ trên hình tướng; quả đất quay một vòng quanh nó, phía hướng ra mặt trời có ánh sáng gọi là ngày, phía không có ánh sáng gọi là đêm, một lần sáng một lần tối qui định là một ngày đêm. Quả đất quay quanh mặt trời tính là một năm... Nếu định tinh lớn thì vòng quay lâu, mà vòng quay lâu thì ngày tháng năm cũng lâu. Như vậy thời gian không có cố định, tùy theo sự vận hành của vũ trụ mà thấy dài ngắn khác nhau. Thế nên, cái gì vượt ngoài sự vận hành của vũ trụ, thì không có hạn định thời gian. Cũng vậy, Trí vô sư không hình tướng, không sanh diệt, không lệ thuộc sự vận hành của vũ trụ, vì vậy không có hạn định thời gian. Nên nói tuổi thọ của Phật dài lâu nhiều hơn số vi trần của vô số thế giới được nghiền nát ra.

Mọi người ai cũng có Trí vô sư với tuổi thọ lâu dài không thể tính đếm, mà chúng ta lại không biết quên đi, chỉ biết sống với thân tứ đại tạm bợ tuổi thọ cao lắm chừng tám chín chục năm, nên rồi buồn than khóc lóc bởi mạng sống quá ngắn ngủi. Nếu chúng ta khéo nhận và sống với Tri kiến Phật tuổi thọ không thể tính đếm thì cười hoài, vì không thấy mình già, không thấy mình chết, lúc nào nó cũng như vậy thôi. Nhưng vì chúng ta chưa biết sống với Tri kiến Phật của mình, nên phẩm này Phật mới nói thọ lượng của Như Lai, để cho mọi người thấy: Nếu nhập được Tri kiến Phật, thì chúng ta sống không có hạn lượng tuổi tác thời gian là bao nhiêu năm.Nó lại trùm khắp cả không gian, nên đối với thân tứ đại này, thấy nó như hạt cát giữa sa mạc, sự chết sống không có nghĩa lý gì. Chừng đó mới chợt thấy rằng ngay nơi thân tứ đại nhỏ bé sanh diệt này, có một cái không hạn lượng không sanh không diệt.

Sở dĩ nói Phật là Vua thầy thuốc, vì nếu có một thầy thuốc trị lành bệnh và kéo dài tuổi thọ cho một bệnh nhân hấp hối từ tám mươi tuổi tới chín mươi tuổi, thì thầy thuốc đó coi như đại tài. Nhưng đức Phật dạy cho chúng ta tu để thể nhập Tri kiến Phật, tuổi thọ không thể tính đếm được, như vậy Ngài không phải Vua thầy thuốc là gì? Điều này không thể dùng thức mà hiểu, nên không thể tin, chỉ tu và thể nhập mới có thể tin lời Phật nói: "Nơi chặng giữa đó ta nói có Phật Nhiên Đăng v.v... Và lại có đức Phật nhập Niết-bàn..." đó là đứng trên hình tướng của thân tứ đại mà nói, nên thấy có gần có xa khác nhau, nếu căn cứ trên Pháp thân thì Phật không có sanh không có diệt. Tùy theo trình độ, người ưa những cái nhỏ thì Phật nói chuyện gần như: Phật xuất gia, tu thành Phật rồi ra giáo hóa. Vậy các ông hãy ráng tu cho hết vô minh phiền não rồi cũng thành Phật như Ngài. Đối với người căn cơ cao thì nói: Các ông cũng như ta đều có sẵn Phật tánh từ vô lượng kiếp, nếu hằng sống với Phật tánh thì thành Phật. Đó là sống được với kinh Pháp Hoa.

 Đại sư Trí Khải tụng kinh Pháp Hoa, Ngài tụng luôn hai mươi mốt ngày, một hôm tụng tới phẩm Dược Vương Bồ-tát thì Ngài nhập Pháp Hoa tam-muội, Ngài thấy Phật đang thuyết pháp cho hội chúng nghe ở hội Linh Sơn trên núi Kỳ-xà-quật. Tôi có một lần qua Ấn Độ đến đó mà không thấy Phật và chúng Tăng, chỉ thấy còn một nền thất trên một hòn đá thôi. Như vậy qua Ấn Độ tìm Phật hay nhập chánh định để tìm Phật? Tâm an định thì thấy được Phật sống dài lâu vô lượng vô biên kiếp, còn đang nói pháp vang như sấm cả bầu trời. Nếu tâm còn loạn động dù qua đến Ấn Độ, chỉ thấy cảnh hoang tàn đổ nát chớ không thấy Phật đâu nữa! Nếu nhận được lý này mới thấy lý kinh cao siêu, bằng không chỉ thấy kinh nói cái gì huyền hoặc. Như vậy nói Phật đản sanh, Phật niết-bàn là dùng phương tiện mà nói, chớ mỗi đức Phật đều thể nhập Pháp thân thì không có sanh không có diệt.

CHÁNH VĂN:

4.- Các thiện nam tử! Kinh điển của đức Như Lai nói ra, đều vì độ thoát chúng sanh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân người, hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ thân người, hoặc chỉ việc mình, hoặc chỉ việc người. Các lời nói ấy đều thiệt chẳng dối.

Vì sao? Vì đức Như Lai đúng như thật thấy biết tướng của tam giới, không có sanh tử, hoặc thoái, hoặc xuất, cũng không ở đời và diệt độ, chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng phải như, chẳng phải dị, chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Các việc như thế Như Lai thấy rõ, không có sai lầm.

Bởi các chúng sanh có các món tánh, các món dục, các món hạnh, các món nhớ tưởng phân biệt muốn làm cho sanh các căn lành, nên dùng bao nhiêu nhân duyên, thí dụ ngôn từ, các cách nói pháp, chỗ làm Phật sự, chưa từng tạm bỏ. Như thế, từ ta thành Phật nhẫn lại, thật là lâu xa, thọ mạng vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, thường còn chẳng mất.

Các thiện nam tử! Ta xưa tu hành đạo Bồ-tát, cảm thành thọ mạng, nay vẫn chưa hết, lại còn hơn số trên, nhưng nay chẳng phải thiệt diệt độ, mà bèn xướng nói sẽ diệt độ. Đức Như Lai dùng phương tiện đó, giáo hóa chúng sanh.

Vì sao? Vì nếu Phật ở lâu nơi đời, thời người đức mỏng, chẳng trồng cội lành, nghèo cùng hèn hạ, ham ưa năm món dục, sa vào trong lưới nhớ tưởng vọng kiến. Nếu thấy đức Như Lai thường còn chẳng mất, bèn sanh lòng buông lung nhàm trễ, chẳng có thể sanh ra ý tưởng khó gặp gỡ cùng lòng cung kính, cho nên đức Như Lai dùng phương tiện nói rằng: "Tỳ-kheo phải biết, các đức Phật ra đời khó có thể gặp gỡ."

Vì sao? - Những người đức mỏng, trải qua trăm nghìn muôn ức kiếp, hoặc có người thấy Phật, hoặc người chẳng thấy, do việc này, nên ta nói rằng: "Tỳ-kheo! Đức Như Lai khó có thể được thấy."

Các chúng sanh đó nghe lời như thế, ắt sẽ sanh ý tưởng khó gặp gỡ, ôm lòng luyến mộ khát ngưỡng nơi Phật, bèn trồng cội lành, cho nên đức Như Lai dầu chẳng diệt mà nói diệt độ.

Lại thiện nam tử! Phương pháp của các đức Như Lai đều như thế, vì độ chúng sanh đều thiệt chẳng dối.

GIẢNG:

Ở đây đức Phật chỉ rõ rằng: Phật nói pháp, có khi vì độ chúng sanhcăn cứ vào thân tứ đại của mình, hoặc căn cứ trên thân người khác, hoặc chỉ việc của mình, hoặc chỉ việc của người, mà phương tiện chỉ bày cho người thấy được lẽ thật. Chỗ thấy của Phật là tướng của tam giới không có sanh tử, hoặc thoái hoặc xuất, cũng không ở đời và diệt độ, chẳng phải thật chẳng phải hư, chẳng phải như chẳng phải dị, chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Tại sao thấy tam giới không có sanh tử? Vì các pháp hữu vi do duyên hợp tạm có; có thì gọi là sanh, hư hoại thì gọi là tử. Ví dụ như cái đồng hồ, khi các bộ phận ráp lại, máy chạy kim quay kêu tích tắc thì gọi thành cái đồng hồ. Khi các bộ phận hư, máy không chạy kim không quay, thì nói đồng hồ chết. Nếu mở từng bộ phận của đồng hồ ra, thì đồng hồ không có sanh không có tử, sanh tử là căn cứ trên duyên hợp hay tan. Nếu căn cứ trên thân tứ đại của con người, khi duyên tan, đất, nước, gió, lửa rã, thì nói người chết. Bấy giờ, tóc, lông, móng, xương... trở về đất; máu, mồ hôi, nước miếng... trở về nước; hơi ấm trở về lửa; hơi thở trở về gió. Bốn đại chưa từng chết mà cũng chưa từng sống, bốn đạibốn đại. Khi duyên hợp đủ thì có sanh, có hoạt động thì gọi là sống. Khi duyên tan nó lặng yên thì gọi là chết. 

Với trí tuệ nhìn qua bốn đại, thấy bốn đại chưa có chết sống, huống nữa là ngay nơi thân này có cái không hình tướng, hằng thanh tịnh sáng suốt làm sao có chết sống? Chúng ta thấy rõ tứ đại nơi mình không có sanh tử, thì biết rõ Tri kiến Phật nơi mình cũng không có sanh diệt. Nếu tứ đại nơi mình không có sống chết, thì tứ đại bên ngoài có sống chết hay không? Thay hình biến dạng là do duyên hợp rồi tan, tan rồi hợp. Thấy có hợp tan, còn mất, là thấy theo duyên. Chớ tứ đại vẫn là tứ đại. Vậy, nhìn tất cả vạn vật trên vũ trụ này, Tự thể nó vốn không có sanh tử, sanh tử chẳng qua chỉ là giả tướng thôi. Nếu chúng ta biết nhìn thẳng vào Tự thể của vạn vật như Phật đã nhìn, thì thấy tam giới không có sanh tử, không thoái không xuất... chẳng phải như ba cõi mà tạm thấy là ba cõi. Và tứ đại không phải là ta mà thấy có thân ta, rồi thấy có sống có chết. Nếu thấy đúng lẽ thật thì nó đâu có sanh diệt.

Sở dĩ đức Phật nói pháp dùng nhân duyên thí dụ..., chẳng qua tùy theo tâm bệnh của chúng sanh mà nói, chớ Ngài thì sống vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, từ trước tới giờ đâu từng sanh đâu từng diệt. Nhưng Ngài cũng tạm xướng lên rằng "Ta sắp vào Niết-bàn", để cho những chúng sanh có bệnh buông lung nhàm trễ lo tu hành. Và đối với những chúng sanh đời sau phước mỏng nghiệp dày, có bệnh khinh lờn, thì Ngài nói "Khó gặp được Phật" để họ khởi tâm tôn quí khởi lòng khao khát, nương theo kinh điểnnỗ lực tu hành. Chớ Phật có bao giờ diệt độ đâu?

CHÁNH VĂN:

5.- Ví như vị lương y, trí huệ sáng suốt, khéo luyện phương thuốc trị các bệnh. Người đó nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi nhẫn đến số trăm, do có sự duyên đến nước xa khác. Sau lúc đó các người con uống thuốc độc khác, thuốc phát muộn loạn, lăn lộn trên đất.

Bấy giờ, người cha từ nước xa trở về nhà. Các con uống thuốc độc, hoặc người mất bổn tâm, hoặc chẳng mất, xa thấy cha về, đều rất vui mừng, quì lạy hỏi thăm: "An lành về an ổn, chúng con ngu si, lầm uống thuốc độc, xin cứu lành cho, lại ban thọ mạng cho chúng con."

Cha thấy các con khổ não như thế, y theo các kinh phương, tìm cỏ thuốc tốt, mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ. Đâm nghiền hòa hiệp, đưa bảo các con uống mà nói rằng: "Thuốc đại lương dược này mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ, các con nên uống, mau trừ khổ não, không còn lại có các bệnh hoạn."

Trong các con, những người chẳng thất tâm, thấy thuốc lương dược ấy, sắc hương đều tốt liền bèn uống đó, bệnh trừ hết được lành mạnh. Ngoài ra những người thất tâm, thấy cha về, dầu cũng vui mừng, hỏi thăm, cầu xin trị bệnh, song trao thuốc cho mà không chịu uống.

Vì sao? Vì hơi độc đã thâm nhập làm mất bổn tâm, nơi thuốc tốt thơm đẹp này mà cho là không ngon. Người cha nghĩ rằng: "Người con này đáng thương, bị trúng độc, tâm đều điên đảo, dầu thấy ta về, mừng cầu xin cứu lành, nhưng thuốc tốt như thế, mà chẳng chịu uống, nay ta bày chước phương tiện, khiến chúng uống thuốc này."

Nghĩ thế rồi liền bảo rằng: "Các con phải biết, ta nay già suy, giờ chết đã đến, thuốc 'lương dược' tốt này nay để ở đây các con nên lấy uống, chớ lo không lành." Bảo thế, rồi lại đến nước khác, sai sứ về nói: "Cha các ngươi đã chết."

Bấy giờ, các con nghe cha chết, lòng rất sầu khổ mà nghĩ rằng: "Nếu cha ta còn, thương xót chúng ta, có thể được cứu hộ, hôm nay bỏ ta xa chết ở nước khác." Tự nghĩ mình nay côi cút, không có chỗ cậy nhờ, lòng thường bi cảm, tâm bèn tỉnh ngộ, biết thuốc này, sắc hương vị ngon, liền lấy uống đó, bệnh độc đều lành. Người cha nghe các con đều đã lành mạnh, liền trở về cho các con đều thấy.

Các thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Vả có người nào có thể nói ông lương y đó mắc tội hư dối chăng?

- Thưa Thế Tôn, không thể được!

Phật nói: "Ta cũng như thế, từ khi thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp, vì chúng sanh dùng sức phương tiện nói: 'Sẽ diệt độ', cũng không ai có thể đúng như pháp mà nói ta có lỗi hư dối."

Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

6.-Từ ta thành Phật lại

Trải qua các kiếp số 

Vô lượng trăm nghìn muôn

A-tăng-kỳ ức năm

Thường nói pháp giáo hóa

Vô số ức chúng sanh 

Khiến vào nơi Phật đạo

Đến nay vô lượng kiếp

Vì độ chúng sanh vậy

Phương tiện hiện Niết-bàn

Mà thiệt chẳng diệt độ

Thường trụ đây nói pháp.

Ta thường ở nơi đây

Dùng các sức thần thông

Khiến chúng sanh điên đảo

Dầu gần mà chẳng thấy

Chúng thấy ta diệt độ

Rộng cúng dường xá-lợi

Thảy đều hoài luyến mộ

Mà sanh lòng khát ngưỡng,

Chúng sanh đã tín phục

Ngay thiệt ý dịu hòa

Một lòng muốn thấy Phật 

Chẳng tự tiếc thân mạng

Giờ ta cùng chúng Tăng

Đều ra khỏi Linh Thứu

Ta nói với chúng sanh 

Thường ở đây chẳng diệt

dùng sức phương tiện

Hiện có diệt chẳng diệt.

Nước khác có chúng sanh 

Lòng cung kính tín nhạo

Ta lại ở trong đó

Vì nói pháp Vô thượng

Ông chẳng nghe việc đó

Chỉ nói ta diệt độ.

Ta thấy các chúng sanh 

Chìm ở trong khổ não

Nên chẳng vì hiện thân

Cho kia sanh khát ngưỡng

Nhân tâm kia luyến mộ

Hiện ra vì nói pháp 

Sức thần thông như thế

Ở trong vô số kiếp

Thường tại núi Linh Thứu

Và các trụ xứ khác.

Chúng sanh thấy tận kiếp

Lúc lửa lớn thiêu đốt

Cõi ta đây an ổn

Trời người thường đông vầy

Vườn rừng các nhà gác

Những món báu trang nghiêm

Cây báu nhiều bông trái

Chỗ chúng sanh vui chơi

Các trời đánh trống trời

Thường trỗi những kỹ nhạc

Rưới bông mạn-đà-la

Rải Phật và đại chúng

Tịnh độ ta chẳng hư

Mà chúng thấy cháy rã

Lo sợ các khổ não

Như thế đều đầy dẫy

Các chúng sanh tội đó

nhân duyên nghiệp dữ

Quá a-tăng-kỳ kiếp

Chẳng nghe tên Tam Bảo.

Người nhu hòa ngay thiệt

Có tu các công đức

Thời đều thấy thân ta

Ở tại đây nói pháp.

Hoặc lúc vì chúng này

Nói Phật thọ vô lượng,

Người lâu mới thấy Phật 

Vì nói Phật khó gặp.

Trí lực ta như thế

Huệ quang soi vô lượng

Thọ mạng vô số kiếp

Tu hành lâu cảm được.

Các ông người có trí

Chớ ở đây sanh nghi

Nên dứt khiến hết hẳn

Lời Phật thiệt không dối.

Như lương y chước khéo

Vì để trị cuồng tử

Thiệt còn mà nói chết

Không thể nói hư dối.

Ta là cha trong đời

Cứu các người đau khổ

phàm phu điên đảo

Thiệt còn mà nói diệt,

Vì cớ thường thấy ta

Mà sanh lòng kiêu tứ

Buông lung ham ngũ dục

Sa vào trong đường dữ

Ta thường biết chúng sanh 

Hành đạo chẳng hành đạo

Tùy chỗ đáng được độ

Vì nói các món pháp

Hằng tự nghĩ thế này:

Lấy gì cho chúng sanh 

Được vào huệ Vô thượng

Mau thành tựu thân Phật.

 

GIẢNG:

Sau đây là Phật đưa ví dụ: Một thầy thuốc giỏi có duyên sự đi xa, ở nhà những đứa con ông uống nhầm thuốc, bị nhiễm độc nên phát cuồng điên. Khi ông trở về, con ông tuy bệnh nhưng cũng mừng và biết ông là thầy thuốc, nên xin thuốc giải độc. Ông chế ra những liều thuốc hay quí để giải cứu các con. Những người con bị nhiễm độc nhẹ, ông đưa thuốc uống liền thì khỏi bệnh. Còn những người con nhiễm độc nặng, không chịu uống nên bệnh không lành. Ông mới dùng phương tiện nói, ông có việc phải đi xa, thuốc để ở nhà, các con tùy tiện lấy đó mà uống. Và khi đi xa, ông nhắn tin về là ông đã chết. Những người con nghe tin cha đã chết, không còn ỷ lại, bèn lấy thuốc uống và được khỏi bệnh.

Ông cha là vị lương y, dụ cho đức Phật. Những đứa con bị nhiễm độc ít dụ cho những bậc thượng căn như ngài Xá-lợi-phất, ngài Mục-kiền-liên... là những vị bị vô minh ái kiến phủ che mỏng. KhiPhật nói pháp giáo hóa, liền tin nhận tu hành và phá sạch vô minh phiền não, giải thoát mọi khổ đau. Còn những đứa con bị nhiễm độc nhiều dụ chohạng chúng sanh hạ căn bị vô minh phiền não phủ che dầy, tuy nghe Phật nói pháp giáo hóa mà chưa đủ lòng tin, vẫn còn bị quay cuồng trong vòng vô minh phiền não. Mãi đến khi Phật niết-bàn rồi, kinh điển Phật còn để lại, mới chịu nghiên cứu đọc tụngứng dụng tu hành, khả dĩ hết vô minh phiền não, tâm thanh tịnh thì Phật hiện tiền.

Vậy thử xét lại, chúng ta là những đứa con cuồng loạn hay tỉnh táo? Nếu chúng ta tỉnh táo thì đã hết khổ từ lâu rồi. Vì chúng ta cuồng loạn quên mất Bản tâm nên trôi lăn mãi cho tới ngày nay, bây giờ gặp pháp Phật để lại, ráng lo tu để hết khổ và được giải thoát. Như vậy, hiện tướng Phật niết-bàn là vì lòng từ bi, khiến cho chúng sanh đem lời Phật dạy ra ứng dụng tu hành. Chúng ta đã có thuốc hay, chỉ biết khen mà không uống, đó là lỗi tại chúng ta, để rồi cũng cuồng loạn cũng chạy ngược chạy xuôi. Vậy xin mời quí vị uống đi, thật tình uống đi, đừng khen hoài mà không uống thì không hết bệnh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13970)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10739)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10403)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11075)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11868)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13039)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13526)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33513)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11251)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12823)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12958)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11525)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17771)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11319)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11746)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11404)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18871)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12460)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11214)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13060)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15623)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11732)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11607)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12630)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12545)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13860)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12889)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12833)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13200)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12651)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12608)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11665)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11651)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12221)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12252)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19687)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11877)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11905)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16728)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12573)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14947)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15977)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12761)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12132)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11799)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11841)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13047)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16419)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13140)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12388)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11731)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19736)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11068)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11169)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10315)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11014)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10883)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9950)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11655)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant