Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 20 Thường Bất Kinh Bồ Tát

25 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7845)
Phẩm 20 Thường Bất Kinh Bồ Tát

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
GIẢNG GIẢI

Hoà thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Chân Không

 

PHẨM 20 THƯỜNG BẤT KINH BỒ TÁT


Thường Bất Khinh Bồ-tát là vị Bồ-tát tên Thường Bất Khinh. Ngài có tâm hạnh kính trọng tất cả mọi người, không có một niệm xem thường ai cả, vì Ngài thấy ai ai cũng có Phật tánh, và sẽ thành Phật.

CHÁNH VĂN:

1.- Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Đắc Đại Thế đại Bồ-tát rằng: 

- Ông nay nên biết! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào thọ trì kinh Pháp Hoa này được công đức như trước đã nói, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân cùng ý thanh tịnh, như có người nói lời thô ác mắng nhiếc, chê bai, mắc tội báo lớn cũng như trước đã nói.

GIẢNG:

Đoạn này Phật lặp lại ý trước với Bồ-tát Đắc Đại Thế rằng người thọ trì kinh Pháp Hoa thì được công đức sáu căn thanh tịnh. Ngược lại, người nào chê bai kinh Pháp Hoa thì chịu quả báo không tốt. Như vậy, chúng ta thấy ai tùy thuận kinh Pháp Hoa thì sẽ được thanh tịnh, ai chống ngược lại thì chịu khổ họa. Tại sao như thế? Vì người không chịu trở về với Tri kiến Phật thanh tịnh sáng suốt, thì người đó đang mê mờ loạn động, sáu căn chạy theo sáu trần tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử nên khổ đau. Còn nếu trở về sống với Tri kiến Phật, thì người đó luôn tỉnh giác, nên sáu căn cũng thanh tịnh, ngang đó dứt nghiệp, không tạo nhân đi trong luân hồi sanh tử được giải thoát.

CHÁ�NH VĂN:

 2.- Đắc Đại Thế! Về thuở xưa quá vô lượng vô biên bất khả tư nghì vô số kiếp, có Phật hiệuOai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.

 Kiếp đó tên là Ly Suy, nước đó tên là Đại Thành. Đức Oai Âm Vương Phật trong đời đó vì hàng trời, người, a-tu-la mà nói pháp, vì người cầu Thanh văn mà nói pháp Tứ đế, thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, rốt ráo Niết-bàn; vì người cầu Bích-chi Phật mà nói pháp Mười hai nhơn duyên; vì các Bồ-tát nhơn Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà nói Sáu pháp ba-la-mật rốt ráo trí huệ của Phật.

Đắc Đại Thế! Đức Oai Âm Vương Phật đó sống lâu bốn mươi vạn ức na-do-tha hằng hà sa kiếp, chánh pháp trụ ở đời kiếp số như vi trần trong một Diêm-phù-đề; tượng pháp trụ ở đời kiếp số như số vi trần trong một Diêm-phù-đề; tượng pháp trụ ở đời kiếp số như số vi trần trong bốn châu thiên hạ. Đức Phật đó lợi ích chúng sanh, vậy sau mới diệt độ. Sau khi chánh pháp, tượng pháp diệt hết, trong cõi nước đó lại có Phật ra đời, cũng hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, cứ thứ lớp như thế có hai muôn ức đức Phật đều đồng một hiệu.

GIẢNG:

Phật dẫn lại chuyện xưa, vô số kiếp về trước, có đức Phật đầu tiên ra đời tên là Oai Âm Vương. Sau khi Phật Oai Âm Vương đầu tiên diệt độ, thì tuần tự như thế có hai muôn ức đức Phật ra đời, cùng một hiệu là Oai Âm Vương, Phật Oai Âm Vương ra đời trước tất cả chư Phật, nên có câu là: "Oai Âm Vương dĩ tiền vô Phật chúng sanh danh, tư thời chánh thị đạo", nghĩa là trước Phật Oai Âm Vương không có tên Phật tên chúng sanh, chính khi đó mới là đạo. Tại sao vậy? Vì có tên Phật tên chúng sanh, là có thấy phân biệt đối đãi, mà thấy phân biệtvô minh. Trước khi khởi niệm phân biệt đối đãi, lúc ấy tâm vô niệm là đang sống với Tri kiến Phật. Phật Oai Âm Vương là chỉ cho Tánh giác có sẵn nơi mỗi người chúng ta từ thuở nào.

CHÁNH VĂN:

 3.- Đức Oai Âm Vương Như Lai dầu hết diệt độ rồi, sau lúc chánh pháp đã diệt trong đời tượng pháp những Tỳ-kheo tăng thượng mạnthế lực lớn.

 Bấy giờ, có vị Bồ-tát Tỳ-kheo tên Thường Bất Khinh. Đắc Đại Thế! Vì cớ gì tên là Thường Bất Khinh? Vì vị Tỳ-kheo đó phàm khi ngó thấy hoặc Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, hoặc Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, thảy đều lễ lạy khen ngợi mà nói rằng: "Tôi rất kính quí Ngài chẳng dám khinh mạn. Vì sao? Vì quí Ngài đều tu hạnh đạo Bồ-tát sẽ được làm Phật."

 Mà vị Tỳ-kheo đó chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ đi lễ lạy, nhẫn đến xa thấy hàng tứ chúng, cũng cố qua lễ lạy, ngợi khen mà nói rằng: "Tôi chẳng dám khinh quí Ngài, quí Ngài đều sẽ làm Phật." Trong hàng tứ chúng có người lòng bất tịnh sanh giận hờn buông lời ác mắng nhiếc rằng: "Ông vô trí Tỳ-kheo này từ đâu đến đây tự nói ta chẳng khinh Ngài, mà thọ ký cho chúng ta sẽ được làm Phật chúng ta chẳng dùng lời thọ ký hư dối như thế."

Trải qua nhiều năm như vậy, thường bị mắng nhiếc chẳng sanh lòng giận hờn, thường nói: "Ngài sẽ làm Phật." Lúc nói lời đó, chúng nhơn hoặc lấy gậy cây, ngói đá để đánh ném. Ông liền chạy tránh đứng xa mà vẫn to tiếng xướng rằng: "Ta chẳng dám khinh quí Ngài, quí Ngài đều sẽ thành Phật." Bởi ông thường nói lời đó, nên hàng tăng thượng mạn Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di gọi ông là Thường Bất Khinh.

GIẢNG:

Đây giải thích công hạnh của một vị Bồ-tát, và nhân Bồ-tát thực hành công hạnh ấy nên đặt thành tên. Vậy Ngài tu hạnh gì? Bồ-tát Thường Bất Khinh không siêng trì tụng, lễ bái, giảng nói kinh Pháp Hoa... mà chỉ đi lễ lạy người và nói rằng: "Tôi không dám khinh quí Ngài, quí Ngài đều sẽ thành Phật." Như vậy Bồ-tát Thường Bất Khinh có trì kinh Pháp Hoa không? Như chúng ta đã biết, chư Phật ra đời chỉ có mục đích duy nhất là chỉ cho chúng sanh nhận ra Tri kiến Phật có sẵn nơi mình. Chúng sanh biết mìnhTri kiến Phật, tức là đã có Phật nhân, nếu khéo tu sẽ thành Phật quả. Ngài không lễ lạy, trì tụng giảng nói bộ kinh Pháp Hoa văn tự in bằng giấy mực gồm bảy quyển. Mà chỉ đi gieo rắc niềm tinmọi người, khiến cho mọi người tin rằng mình sẵn có Tri kiến Phật, nếu tu sẽ được thành Phật. Như vậy, Ngài có dạy người trì kinh Pháp Hoa chưa? Việc làm của Ngài có đúng với bản hoài của chư Phật không? Rõ ràng Ngài thực hành không sai yếu chỉ mà Phật đã dạy. Sở dĩ Ngài nói như vậy, là vì mọi chúng sanh ai ai cũng có sẵn Tánh giác, nhưng vì vô minh che phủ nên quên không chịu nhận. Vì vậy Ngài phải khơi dậy, phải đánh thức cho mọi người biết và nhận ra cái sẵn có nơi mình, để tu hành thành Phật. Câu nói của Ngài tuy đơn giản ngắn gọn nhưng nêu rõ bản hoài của mười phương chư Phật. Ngài nói tuy ngắn gọn nhưng thực hành không phải dễ, người ưa thì im lặng vâng làm, người không ưa thì mắng nhiếc đánh đập Ngài. Mặc dù vậy, với lòng từ bi rộng lớn, Ngài không nản lòng thối chí, chấp nhận mọi sự khó khăn, vui vẻ đi khắp nơi, khơi dậy niềm tinmọi người, để cùng tu tập tiến đến quả Phật.

CHÁNH VĂN:

4.- Vị Tỳ-kheo đó lúc sắp chết, nơi giữa hư không nghe trọn hai mươi nghìn muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của đức Oai Âm Vương Phật đã nói thuở trước, nghe xong đều có thể thọ trì, liền được nhãn căn thanh tịnh, nhĩ, tỹ, thiệt, thân cùng ý căn thanh tịnh như trên. Được sáu căn thanh tịnh đó rồi lại sống thêm hai trăm muôn ức na-do-tha tuổi, rộng vì người nói kinh Pháp Hoa đó.

 Lúc đó hàng tăng thượng mạn Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, khinh tiện vị đó đặt cho tên "Bất Khinh", nay thấy vị đó được sức thần thông lớn, sức đại thiện tịch, nghe vị đó nói pháp đều tin phục tùy tùng.

 Vị Bồ-tát đó giáo hóa nghìn muôn chúng khiến trụ trong Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi mạng chung được gặp hai nghìn ức Phật đều hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh, ở trong pháp hội đó nói kinh Pháp Hoa này. Do nhơn duyên đó lại gặp hai nghìn ức Phật đồng hiệu là Vân Tự Tại Đăng Vương, ở trong pháp hội của các đức Phật đó thọ trì, đọc tụng, và hàng tứ chúng nói kinh điển này, cho nên được mắt thanh tịnh thường trên đó, tai, mũi, lưỡi, thân cùng ý các căn thanh tịnh, ở trong bốn chúng nói pháp lòng không sợ sệt.

Đắc Đại Thế! Vị Thường Bất Khinh đại Bồ-tát đó cúng dường bao nhiêu đức Phật như thế, cung kính tôn trọng ngợi khen, trồng các cội lành. Lúc sau lại gặp nghìn muôn ức Phật, cũng ở trong pháp hội các đức Phật nói kinh điển này, công đức thành tựu sẽ được làm Phật.

GIẢNG:

Bồ-tát Thường Bất Khinh do gieo rắc lòng tin nơi mỗi người, nên khi Ngài sắp tịch được nghe kinh Pháp Hoa do Phật Oai Âm Vương nói, sáu căn Ngài liền thanh tịnh và sống thêm hai trăm muôn ức na-do-tha kiếp, vì người nói kinh Pháp Hoa. Tại sao lúc Ngài còn khỏe mạnh không được nghe và thọ trì kinh Pháp Hoa, mãi đến lúc sắp tịch mới được nghe kinh Pháp Hoa và sống thêm. Như vậy là ý nghĩa gì? Như đã nói, thọ trì kinh Pháp Hoa là xoay lại sống với cái bất tửTri kiến Phật. Bất tử thì không chết. Vì vậy mà Ngài được tất cả công đức như sáu căn thanh tịnh v.v... Rồi những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di trước khinh chê Ngài, nay tin phục theo Ngài tu hành.

Bồ-tát Thường Bất Khinh giáo hóa vô số chúng trụ trong Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi mệnh chung, được gặp hai ngàn ức Phật đều hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh và lại gặp hai ngàn ức Phật đồng hiệu Vân Tự Tại Đăng Vương. Bồ-tát Thường Bất Khinh nhờ tu hạnh ấy, sau công đức viên mãn thành tựu trí tuệ Phật.

CHÁNH VĂN:

 5.- Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Thường Bất Khinh Bồ-tát thuở đó đâu phải người nào lạ, chính là thân ta. Nếu ta ở đời trước chẳng thọ trì, đọc tụng kinh này, vì người khác giải nói đó, thời chẳng có thể mau được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì ta ở chỗ các đức Phật thuở trước thọ trì, đọc tụng kinh này vì người khác nói, nên mau được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

GIẢNG:

Bồ-tát Thường Bất Khinh là tiền thân của Phật Thích-ca. Phật nói sở dĩ Ngài được thành Phật là do thời quá khứ, Ngài thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa. Chúng ta thấy lúc tu nhân Ngài không đọc tụng văn tự kinh, mà Ngài nhận ra nơi Ngài có sẵn Phật tánh, rồi đi lễ bái mọi người, nhắc cho mọi người nhớ biết nơi mình cũng có Phật tánh, nếu khéo tu thì sẽ thành Phật, do huân tu hạnh này dần dần công đức viên mãn nên thành Phật.

CHÁNH VĂN:

6.- Đắc Đại Thế! Thuở đó bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, do lòng giận hờn khinh tiện ta, nên trong hai trăm ức kiếp thường chẳng gặp Phật, chẳng nghe pháp, chẳng thấy Tăng, nghìn kiếp ở địa ngục A-tỳ chịu khổ não lớn. Hết tội đó rồi lại gặp Thường Bất Khinh Bồ-tát giáo hóa đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác

Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Bốn chúng thường khinh vị Bồ-tát thuở đó đâu phải người nào lạ, chính là nay trong hội này bọn ông Bạt-đà-bà-la năm trăm vị Bồ-tát, bọn ông Sư Tử Nguyệt năm trăm vị Tỳ-kheo, bọn ông Ni-tư Phật năm trăm Ưu-bà-tắc, đều bất thoái chuyển ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

 Đắc Đại Thế! Phải biết kinh Pháp Hoa này rất lợi ích cho các vị đại Bồ-tát, có thể làm cho đến nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên các vị đại Bồ-tát sau khi Phật diệt độ phải thường thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh này.

Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

7.-Thuở quá khứ có Phật

Hiệu là Oai Âm Vương

Sức trí thần vô lượng

Dìu dắt tất cả chúng

Hàng trời, người, long, thần

Đều chung nhau cúng dường.

Sau khi Phật diệt độ

Lúc pháp muốn dứt hết

Có một vị Bồ-tát

Tên là Thường Bất Khinh.

Bấy giờ hàng tứ chúng

Chấp mê nơi các pháp

Thường Bất Khinh Bồ-tát

Qua đến chỗ của họ

Mà nói với đó rằng:

Ta chẳng dám khinh Ngài

Quí Ngài tu đạo nghiệp

Đều sẽ đặng làm Phật.

Những người đó nghe rồi

Khinh chê thêm mắng nhiếc

Thường Bất Khinh Bồ-tát

Đều hay nhẫn thọ đó.

Tội Bồ-tát hết rồi

Đến lúc gần mạng chung

Đặng nghe kinh pháp này

Sáu căn đều thanh tịnh

Vì sức thần thông vậy

Sống lâu thêm nhiều tuổi

Lại vì các hạng người

Rộng nói kinh pháp này.

Các chúng chấp nơi pháp

Đều nhờ Bồ-tát đó

Giáo hóa đặng thành tựu

Khiến trụ nơi Phật đạo

Thường Bất Khinh mạng chung

Gặp vô số đức Phật

Vì nói kinh này vậy

Đặng vô lượng phước đức

Lần lần đủ công đức

Mau chứng thành Phật đạo.

Thuở đó Thường Bất Khinh

Thời chính là thân ta

Bốn bộ chúng khi ấy

Những người chấp nơi pháp

Nghe Thường Bất Khinh nói:

Ngài sẽ đặng làm Phật

Do nhờ nhơn duyên đó

Mà gặp vô số Phật,

Chính trong pháp hội này

Năm trăm chúng Bồ-tát

Và cùng bốn bộ chúng

Thanh tín nam nữ thảy

Nay ở nơi trước ta

Nghe kinh Pháp Hoa đó,

Ta ở trong đời trước

Khuyên những hạng người đó

Nghe thọ kinh Pháp Hoa

Là pháp bậc thứ nhứt

Mở bày dạy cho người

Khiến trụ nơi Niết-bàn

Đời đời thọ trì luôn

Những kinh điển như thế.

Trải ức ức muôn kiếp

Cho đến bất khả nghì

Lâu lắm mới nghe đặng

Kinh Diệu Pháp Hoa này,

Trải ức ức muôn kiếp

Cho đến bất khả nghì

Các đức Phật Thế Tôn

Lâu mới nói kinh này

Cho nên người tu hành

Sau khi Phật diệt độ

Nghe kinh pháp như thế

Chớ sanh lòng nghi hoặc.

Nên phải chuyên một lòng

Rộng nói kinh điển này

Đời đời đặng gặp Phật

Mau chứng thành Phật đạo.

Tvhs

GIẢNG:

Bồ-tát Thường Bất Khinh khi đi gieo rắc lòng tinmọi người. Người hoan hỉ tin theo được gặp Phật, người không tin mắng chửi lại, sau cũng được gặp Phật. Người hoan hỉ tin theo nên được Phật trực tiếp giáo hóa, tiến tu thành Phật. Còn người không tin mắng chửi lại, tuy họ mắc tội bị đọa một thời gian để trả quả, nhưng rồi cũng trở lại gặp Phật giáo hóa nương theo mà tiến tu, sau cũng thành Phật. Chúng ta thấy ý nghĩa này rất thâm trọng. Khi vị Bồ-tát đi giáo hóa luôn đem điều lành điều tốt đến với mọi người, người kính mến tin và làm theo, đó là đã kết duyên thuận với Bồ-tát để tu. Còn người không ưa mắng chửi đánh đập Bồ-tát, bị đọa trả quả cũng kết duyên mà duyên nghịch. Nên sau khi thọ quả báo rồi, cũng gặp Bồ-tát, nhận sự giáo hóa của Ngài để tiến tu. Duyên thuận hay duyên nghịch, trước sau gì cũng gặp nhau, vì đã kết duyên rồi. Thông thường chúng ta thấy người mà mình thương thì tìm đến để gặp nhau, người mà mình ghét cũng có chuyện tìm gặp để phân bua cãi vã. Vì sao? Vì người thương nhiều thì luôn nghĩ tới, mà người ghét nhiều cũng không quên được. Bởi nhớ nhau nên gặp nhau. Thế nên, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, mắng chửi đánh đập Bồ-tát Thường Bất Khinh, mắc quả báo đọa địa ngục, trả quả xong, trở lại gặp Bồ-tát nhận sự giáo hóa của Ngài, vì còn nhớ Ngài. Như vậy, ngày nay chúng ta đi giáo hóa nếu người nghe thực hành theo, thì biết người này sẽ gặp lại mình, tiếp tục giáo hóa nữa. Nếu gặp người mắng chửi mình, thì cũng biết rằng người này sẽ gặp lại để mình giáo hóa, tuy có cách thời gian thọ quả báo nhưng rồi cũng gặp nhau. Thế nên, đừng giận họ vì họ sẽ làm đệ tử dưới sự giáo hóa của mình. Nếu mình buồn giận họ, thì chẳng lẽ họ tạo nghiệp xuống địa ngục, mình cũng đi theo họ xuống địa ngục sao?

Thế nên, kẻ chống đối, người mến thương, Bồ-tát đều có tâm bình đẳng giáo hóa, không chối bỏ người nào. Như vậy, chúng ta đã thấy, Bồ-tát Thường Bất Khinh trì và truyền bá kinh Pháp Hoa như thế nào rồi. Việc làm của Ngài quá đơn giản, nhưng hợp với lý kinh, nên lợi ích không thể nghĩ lường. Còn chúng ta một ngày tụng hết một bộ Pháp Hoa hai mươi tám phẩm, mà không biết Phật dạy cái gì, tu hành ra sao, tham sân si phiền não vẫn còn nguyên vẹn, không giảm chút nào, như vậy là chưa trì kinh Pháp Hoa!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188494)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43718)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25006)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30793)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21005)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38717)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27346)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31076)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33083)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23946)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16956)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20487)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31886)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18072)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20523)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 26995)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18008)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25530)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26615)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36549)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28035)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27264)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30313)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37055)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37217)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23853)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32263)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55111)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36879)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27547)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28284)
Công Phu Khuya
(Xem: 37919)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25380)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24120)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11213)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14478)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10605)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant