Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 28 Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát

25 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7625)
Phẩm 28 Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
GIẢNG GIẢI

Hoà thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Chân Không

 

PHẨM 28 PHỔ HIỀN BỒ TÁT 
KHUYẾN PHÁT


Phổ Hiền Bồ-tát Khuyến Phát có nghĩa là Bồ-tát Phổ Hiền khuyên người phát tâm trì kinh Pháp Hoa. Người sau khi Nhập Tri kiến Phật, công hạnh đã viên mãn có đầy đủ diệu dụng, theo sở nguyện sở cầu của chúng sanh mà vào đời ngũ trược để giáo hóa họ. Mở đầu kinh này, Bồ-tát Văn-thù đứng ra giải nghi cho Bồ-tát Di-lặc, nói lên ý nghĩa muốn Nhập Tri kiến Phật là phải bắt đầu bằng trí tuệ tức là Căn bản trí. Sau khi nhập Tri kiến Phật phá hết năm ấm, công hạnh tu hành viên mãn, khởi Sai biệt trí biết rõ tâm bệnh của chúng sanh, mà dùng mọi phương tiện để giáo hóa. Bấy giờ ra giáo hóa thì không còn chướng ngại thoái lui.

CHÁNH VĂN:

1.- Lúc bấy giờ, ngài Phổ Hiền Bồ-tát dùng sức thần thông tự tại oai đức danh văn, cùng vô lượng vô biên bất khả xưng sổ chư đại Bồ-tát từ phương Đông mà đến; các nước đi ngang qua khắp đều rúng động, rưới hoa sen báu, trỗi vô lượng trăm nghìn muôn ức các thứ kỹ nhạc.

Lại cùng vô số các đại chúng: trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân, phi nhân v.v... vây quanh, đều hiện sứ�c oai đức thần thông đến cõi Ta-bà trong núi Kỳ-xà-quật, đầu mặt lạy đức Thích-ca Mâu-ni Phật, đi quanh bên hữu bảy vòng, bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Con ở nơi nước của đức Bảo Oai Đức Thượng Vương Phật, xa nghe cõi Ta-bà này nói kinh Pháp Hoa nên cùng với vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức chúng Bồ-tát đồng đến để nghe thọ, cúi mong đức Thế Tôn nên vì chúng con nói đó.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân sau khi Như Lai diệt độ, thế nào mà có thể được kinh Pháp Hoa này?"

GIẢNG:

Bồ-tát Phổ Hiền từ cõi Phật phương Đông, nghe Phật Thích-ca ở cõi này nói kinh Pháp Hoa, Ngài cùng với chúng đồng đến để nghe pháp. Bồ-tát Phổ Hiền không dùng tai để nghe, mà Ngài dùng tâm để nghe. Ngài đặt câu hỏi: Sau khi Phật diệt độ, thiện nam tử, thiện nữ nhân, làm sao có thể được kinh Pháp Hoa này? Dưới đây Phật trả lời.

CHÁNH VĂN:

2.- Phật bảo Phổ Hiền Bồ-tát rằng: "Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân thành tựu bốn pháp, thời sau khi Như Lai diệt độ sẽ được kinh Pháp Hoa này: Một là được các đức Phật hộ niệm, hai là trồng các cội công đức, ba là vào trong chánh định, bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh.

Thiện nam tử, thiện nữ nhân thành tựu bốn pháp như thế, sau khi Như Lai diệt độ quyết được kinh này."

GIẢNG:

Phật dạy muốn được kinh Pháp Hoa phải thực hành bốn pháp. Một là được chư Phật hộ niệm, hai là trồng các cội công đức, ba là vào trong chánh định, bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh. Pháp thứ nhất là được chư Phật hộ niệm, chúng ta có được Phật hộ niệm không? Nơi mỗi người ai cũng có Tri kiến Phật, tuy có nhưng vì quên, nên không được Phật hộ niệm. Nếu chúng ta hằng sống với Tri kiến Phật thì Phật luôn luôn ở bên cạnh mình không có xa vắng. Như vậy Phật không hộ niệm là gì? Pháp thứ hai là trồng các cội công đức, hiện tại chúng ta đang gieo trồng công đức qua việc tự giácgiác tha. Pháp thứ ba là vào trong chánh định, thì hiện tại chúng ta đang buông bỏ những vọng tưởng điên đảo, khi vọng tưởng điên đảo lắng xuống, đó là chúng ta đang ở trong chánh định chớ gì? Còn phát lòng từ làm lợi ích chúng sanh, thì chúng ta đang thực hiện, tuy chưa làm được những việc lớn, nhưng những việc nhỏ đang làm. Như vậy, là bốn pháp phải có để được kinh Pháp Hoa, hiện tại mỗi người chúng ta ai cũng có, mặc dù chưa được viên mãn

Chúng ta nhớ, được kinh Pháp Hoa không phải đem tiền đi thỉnh bộ kinh bằng văn tự in trên giấy mực. Được kinh Pháp Hoa đây là phải thực hiện bốn pháp vừa nêu để sống với Tri kiến Phật. Đó là được kinh Pháp Hoa.

CHÁNH VĂN:

3.- Lúc đó ngài Phổ Hiền Bồ-tát bạch Phật rằng:

- Thế Tôn! Năm trăm năm sau trong đời ác trược, nếu có người thọ trì kinh điển này, con sẽ giữ gìn trừ các sự khổ hoạn làm cho được an ổn, khiến không ai được tiện lợi rình tìm làm hại; hoặc ma, hoặc con trai của ma, hoặc con gái của ma, hoặc dân ma, hoặc người bị ma dựa, hoặc dạ-xoa, hoặc la-sát, hoặc cưu-bàn-trà, hoặc tỳ-xá-xà, hoặc kiết-giá, hoặc phú-đơn-na, hoặc vi-đà-la v.v... những kẻ làm hại người đều chẳng được tiện lợi.

Người đó hoặc đi, hoặc đứng, đọc tụng kinh này, bấy giờ con cưỡi tượng vương trắng sáu ngà cùng chúng đại Bồ-tát, đều đến chỗ người đó mà tự hiện thân ra, để cúng dường thủ hộ an ủi tâm người đó, cũng để cúng dường kinh Pháp Hoa.

Người đó nếu ngồi suy nghĩ kinh này, bấy giờ con lại cưỡi tượng vương trắng hiện ra trước người đó, người đó nếu ở trong kinh Pháp Hoa có quên mất một câu, một bài kệ, con sẽ dạy đó chung cùng đọc tụng làm cho thông thuộc.

Bấy giờ, người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa được thấy thân con, lòng rất vui mừng lại càng tinh tấn, do thấy thân con nên liền được tam-muội và đà-la-ni tên là "Triền đà-la-ni", trăm nghìn muôn ức "Triền đà-la-ni", "Pháp âm phương tiện đà-la-ni", được những môn đà-la-ni như thế.

GIẢNG:

Bồ-tát Phổ Hiền phát nguyện đi vào cõi đời ác trược để ủng hộ cho người trì kinh Pháp Hoa. Tất cả các loại ma muốn phá phách, làm cho người trì kinh Pháp Hoa thoái tâm, thì Ngài liền tới ủng hộ, để cho những người đó tu hành, không bị tổn hại vì ma. Những người đó đi, đứng, ngồi, nằm đều trì kinh Pháp Hoa thì Ngài sẽ cưỡi tượng vương trắng sáu ngà, cùng với chúng đại Bồ-tát đến thủ hộ an ủi những người đó và cúng dường kinh Pháp Hoa. Chúng ta thấy Bồ-tát Phổ Hiền từ cõi tịnh đi vào cõi uế, để bảo hộ người tu theo kinh Pháp Hoa. Thường, chúng ta thấy tượng Phật Thích-ca ở giữa, hai vị Bồ-tát ở hai bên là Văn-thù và Phổ Hiền. Bồ-tát Văn-thù cưỡi sư tử tượng trưng cho Căn bản trí phá dẹp tà kiến xiển dương chánh pháp. Cũng như con sư tử một phen rống lên, thì mọi con thú khác đều né tránh bỏ chạy hết, chỉ còn lại loài sư tử, chúa sơn lâm thôi.

Qua giai đoạn Căn bản trí phá tà hiển chánh, tới giai đoạn Sai biệt trí khởi phát từ bi đi vào đời giáo hóa ủng hộ người tu. Biểu trưng qua hình ảnh Bồ-tát Phổ Hiền cưỡi voi trắng sáu ngà. Voi trắng ngầm nói lên tâm hạnh vững mạnh rộng lớn mà thanh tịnh của Bồ-tát. Sáu ngà là chỉ cho Lục độ. Bồ-tát Phổ Hiền vào cõi trần tục ô uế với tâm hạnh lớn mạnh, trí tuệ sáng suốt không bị nhiễm nhơ, lúc nào cũng dùng pháp Lục độ an ủi làm lợi ích cho chúng sanh chóng viên thành đạo quả. Tương tợ, trong mười bức Tranh chăn trâu Thiền tông, chúng ta thấy bức tranh thứ mười, Thiền sư mặc áo bày ngực, đi chân trần, tay cầm bầu rượu, tay xách con cá chép, đi vào xóm làng hòa mình với chúng sanh để độ họ. Các ngài đã vào Phật quốc là chỗ thanh tịnh rồi, bấy giờ tùy theo căn cơ chúng sanh đi vào chỗ uế trược, để cứu độ làm lợi ích cho họ. Đó là hạnh nguyện lợi sanh.

Như vậy, người tu tới chặng chót này là phải lao mình vào trần thế để cứu độ chúng sanh, cứu độ chúng sanh viên mãn mới thành Phật. Đó là tinh thần Tự giác Giác tha Giác hạnh viên mãn. Nếu mình được giác ngộ mà chưa giác tha thì chưa đủ công hạnh để thành Phật. Vì vậy mà phẩm chót của bộ kinh Pháp Hoa nói lên hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Cũng như bức tranh thứ mười trong Thập mục ngưu đồ, Thiền sư thõng tay vào chợ, vào làng hòa mình với những người nhiễm nhơ trần tục, để giáo hóa hướng dẫn họ trở về với chánh pháp.

Đây nói người suy nghĩ kinh Pháp Hoa, nếu quên hoặc một câu hoặc một bài kệ, thì Bồ-tát Phổ Hiền đến chung đọc tụng làm cho thông thuộc. Quí vị tụng kinh Pháp Hoa có vị nào được nhắc chưa? Chưa. Tại sao ở đây nói như vậy? Vì kinh Pháp Hoa là chỉ cho người nhận ra Tri kiến Phật, mọi ngườiTri kiến Phật, nếu quên thì có thiện tri thức nhắc cho nhớ để tu. Và Bồ-tát Phổ Hiền sẽ đến gia hộ cho được tất cả đà-la-ni tức là nhớ hết các pháp.

CHÁNH VĂN:

4.- Thế Tôn! Nếu đời sau, sau năm trăm năm trong đời ác trược, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, người cầu tìm, người thọ trì, người đọc tụng, người biên chép, mà muốn tu tập kinh Pháp Hoa này, thời trong hai mươi mốt ngày, phải một lòng tinh tấn, mãn hai mươi mốt ngày rồi, con sẽ cưỡi tượng trắng sáu ngà, cùng vô lượng Bồ-tát vây quanh, dùng thân mà tất cả chúng sanh ưa thấy, hiện nơi trước người đó để vì nói pháp chỉ dạy cho lợi ích vui mừng cũng lại cho chú Đà-la-ni.

Được chú Đà-la-ni này thời không có phi nhân nào có thể phá hoại được, cũng chẳng bị người nữ làm hoặc loạn. Con cũng đích thân thường hộ người đó. Cúi mong đức Thế Tôn nghe con nói chú Đà-la-ni này. Liền ở trước Phật mà nói chú rằng:

"A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đà tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba chuyên nể, tác bà đà la ni a bà đa ni, tác bà bà sa a bà đa ni, tu a bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni, tăng già niết dà đà ni, a tăng kỳ, tăng già bà dà địa, đế lệ a đọa tăng già đâu lược, a la đế ba la đế, tát bà tăng già địa, tam ma địa, dà lan địa, tát bà đạt ma tu ba lợi sát đế, tát bà tát đỏa lâu đà kiêu xá lược, a nâu dà địa, tân a tỳ kiết lợi địa đế."

Thế Tôn! Nếu có Bồ-tát nào được nghe chú Đà-la-ni này, phải biết đó là sức thần thông của Phổ Hiền.

GIẢNG:

Người trì hay biên chép kinh Pháp Hoa khoảng hai mươi mốt ngày, thì Bồ-tát Phổ Hiền sẽ tới hiện thân cho thấy để chỉ dạy cho người đó và tặng thêm thần chú. Đây ngầm ý nói rằng người biết hướng về Tri kiến Phật, hoặc hằng sống với Tri kiến Phật thì lúc nào cũng được gia hộ, được tâm đại tổng trì

Ý này có hai nghĩa. Một là người thọ trì kinh Pháp Hoa, muốn cho nhân và phi nhân không hoặc loạn nhiễu hại, thì phải giữ tâm thanh tịnh không dấy động nhiễm nhơ, đó là được chú Đà-la-ni. Hai là người hướng về sống với Tri kiến Phật, không có tâm trông cầu ở người khác. Tuy không trông cầu, mà vẫn được gia hộ của chư Phật và Bồ-tát. Hằng ngày, tuy làm mọi việc mà vẫn ở trong Thiền định, nên nói Bồ-tát Phổ Hiền nói thần chú để gia hộ.

CHÁNH VĂN:

5.- Nếu kinh Pháp Hoa lưu hành trong Diêm-phù-đề có người thọ trì, thời nên nghĩ rằng: Đều là sức oai thần của Phổ Hiền.

Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chân chánh hiểu nghĩa thú trong kinh đúng như lời mà tu hành, phải biết người đó tu hạnh Phổ Hiền, ở nơi vô lượng vô biên các đức Phật, sâu trồng cội lành, được các Như Lai, lấy tay xoa đầu. Nếu chỉ biên chép người này mạng chung sẽ sanh lên trời Đao-lợi.

Bấy giờ, tám muôn bốn nghìn thiên nữ trỗi các kỹ nhạc mà đến rước đó, người đó liền đội mão bảy báu, ở trong hàng thể nữ vui chơi khoái lạc, huống là thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chân chánh hiểu nghĩa thú kinh, đúng như lời mà tu hành.

Nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, giải nghĩa thú kinh này, người đó khi mạng chung được nghìn đức Phật trao tay, khiến chẳng sợ sệt, chẳng đọa vào đường dữ, liền lên cung trời Đâu-suất, chỗ Di-lặc Bồ-tát mà sanh vào hàng quyến thuộc trăm nghìn muôn ức thiên nữ, đức Di-lặc Bồ-tát có ba mươi hai tướng, chúng đại Bồ-tát cùng nhau vây quanh. Có công đức lợi ích như thế cho nên người trí phải một lòng tự chép hoặc bảo người chép, thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chân chánh đúng như lời tu hành.

Thế Tôn! Con nay dùng sức thần thông giữ gìn kinh này, sau khi Như Lai diệt độ, làm cho rộng lưu bố trong Diêm-phù-đề khiến chẳng dứt mất.

GIẢNG:

Người trì kinh Pháp Hoa thì được Bồ-tát Phổ Hiền gia hộ. Và nếu người thọ trì đọc tụng hiểu nghĩa thú trong kinh, đúng như lời dạy của Phật mà tu hành, đó là người tu theo hạnh Phổ Hiền. Có nghĩa là Bồ-tát xoay lại sống với Tri kiến Phật của mình và biết chúng sanh cũng có Tri kiến Phật mà họ quên, nên khởi lòng thương xót, giáo hóa khiến cho họ nhận ra Tri kiến Phật của họ. Và khi giáo hóa, với Trí sai biệt, Bồ-tát biết rõ căn cơ trình độ của chúng sanh, dùng phương tiện thích ứng với căn tánh họ, khiến họ tin nhận và tu theo. Nên việc giáo hóa không chướng ngại, thực hành được hạnh nguyện lớn của Phổ Hiền.

Phật nói, chỉ cần biên chép kinh Pháp Hoa thôi mà được phước báo sanh lên cõi trời, rồi được đội mão bảy báu, được thiên nữ tới đón vui chơi khoái lạc đầy đủ. Còn nếu trì tụng ghi nhớ chân chánh nghĩa thú kinh và đúng như lời Phật dạytu hành, thì công đức không thể lường được. Chư Bồ-tát luôn luôn khuyến khích chúng sanh tu bằng mọi hình thức, hoặc là dùng lời ngon ngọt để khuyến khích, hoặc dùng những hình ảnhchúng sanh ưa thích, hoặc nói lên lý đạo chân chánh, để cho chúng sanh phát tâm tu. Đó là phương tiện của Bồ-tát giáo hóa, khiến chúng sanh hướng về Tri kiến Phật, hoặc ít hoặc nhiều rồi tiến tu cho đến thành tựu viên mãn. Cuối cùng Bồ-tát Phổ Hiền tuyên bố rõ ràng rằng: Ngài sẽ làm lưu bố kinh Pháp Hoa khắp cõi Diêm-phù-đề chẳng để dứt mất. Hạnh nguyện của Ngài cốt làm sao đưa mọi người tới chỗ tỉnh giác, nhận ra nơi mình có Tri kiến Phật. Phật giáo hóa giảng dạy cốt đưa chúng sanh ngộ được Tri kiến Phật, Bồ-tát giúp chúng sanh cũng trở về với Tri kiến Phật, là cái gốc của sự tu hành.

CHÁNH VĂN:

6.- Lúc bấy giờ, đức Thích-ca Mâu-ni Phật khen rằng: 

- Hay thay! Hay thay! Phổ Hiền! Ông có thể hộ trợ kinh này làm cho nhiều chúng sanh an vui lợi ích. Ông đã thành tựu bất khả tư nghì công đức, lòng từ bi sâu lớn, từ lâu xa đến nay phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mà có thể thật hành nguyện thần thông đó, để giữ gìn kinh này.

Ta sẽ dùng sức thần thông giữ gìn người hay thọ trì danh hiệu Phổ Hiền Bồ-tát.

Phổ Hiền! Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chân chánh tu tập biên chép kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó thời là thấy đức Thích-ca Mâu-ni Phật, như từ miệng Phật mà nghe kinh điển này. Phải biết người đó cúng dường cho đức Thích-ca Mâu-ni Phật, phải biết người đó được Phật, Ngài khen lành thay, phải biết người đó được Thích-ca Mâu-ni Phật lấy tay xoa đầu. Phải biết người đó được đức Thích-ca Mâu-ni Phật lấy y trùm cho. Người như thế chẳng còn lại ham ưa sự vui trong đời, chẳng ưa kinh sách viết chép của ngoại đạo, cũng lại chẳng ưa gần gũi ngoại đạo và các kẻ ác, hoặc kẻ hàng thịt, hoặc kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, hoặc thợ săn, hoặc kẻ buôn bán sắc gái. Người đó tâm ý ngay thiệt, có lòng nghĩ nhớ chân chánh có sức phước đức. Người đó chẳng bị ba món độc làm não hại, cũng chẳng bị tánh ganh ghét, ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn làm não hại. Người đó ít muốn biết đủ, có thể tu hạnh Phổ Hiền.

GIẢNG:

Phật khen ngợi Bồ-tát Phổ Hiềnlòng từ bi rộng lớn, đem hết khả năng để thực hiện hạnh nguyện của mình, là giữ gìn kinh này tồn tại ở cõi Ta-bà, để cho chúng sanh được lợi ích. Phật hứa sẽ bảo hộ cho những người phát tâm thọ trì danh hiệu Bồ-tát Phổ Hiền. Nói cách khác là Phật sẽ gia hộ cho người tu theo hạnh nguyện Phổ Hiền, khởi lòng đại bi quán xét căn cơ của chúng sanh, rồi đi vào đời ngũ trược để tiếp độ chúng sanh khiến cho họ được giác ngộ.

Phật lại xác nhận một lần nữa, người mà thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa một cách chân chánh, thì người đó sẽ được thấy Phật Thích-ca, như từ miệng Phật mà nghe kinh điển này, được Phật Thích-ca khen ngợi, được Phật Thích-ca xoa đầu và lấy y trùm cho... Vì sao được như thế? Vì bản hoài của Phật là muốn cho chúng sanh nhận ra Tri kiến Phật của chính mình. Vậy nếu ai thực hành theo bản hoài của Phật, đấy là trung thành với Phật, nên được Phật nâng đỡ. Đó là nói sự gia hộ bên ngoài. Sau đây là nói đến bản thân của người trì tụng kinh Pháp Hoa. Người khi nhận ra Tri kiến Phật là cái Thể sáng suốt không sanh không diệt, hằng hữu thì những thú vui tạm bợ ở đời không nhiễm trước, những cái nhân gây ra phiền não có thể dẹp bỏ được như đối với kinh sách của ngoại đạo không thích đọc và không thích gần gũi với những người ngoại đạo. Đối với những thú vui tạm bợ ở thế gian, cùng những người có nghiệp ác thì không tương ưng, không thân cận. Vì mọi ý niệm xấu xa không còn, nên nói chẳng bị tánh ghen ghét, ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn làm não hại; lại còn ít muốn biết đủ, nên có thể tu theo hạnh Phổ Hiền, làm lợi ích cho chúng sanh.

CHÁNH VĂN:

7.- Phổ Hiền! Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có người nào thấy người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa phải nghĩ rằng: Người này chẳng bao lâu sẽ đến đạo tràng, phá các chúng ma thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chuyển pháp luân, đánh pháp cổ, thổi pháp loa, rưới pháp vũ, sẽ ngồi trên pháp tòa sư tử trong đại chúng trời, người.

Phổ Hiền! Nếu ở đời sau, có người thọ trì, đọc tụng kinh điển này, người đó chẳng còn lại ham ưa y phục, giường nằm, những vật nuôi sống, chỗ mong cầu chẳng luống, cùng ở trong hiện đời được phước báo đó.

Nếu có người khinh chê đó rằng: "Ông là người điên cuồng vậy, luống làm hạnh ấy trọn không được lợi ích." Tội báo như thế sẽ đời đời không mắt. Nếu có người cúng dường khen ngợi đó, sẽ ở trong đời nay được quả báo hiện tại.

Nếu lại thấy người thọ trì kinh này mà nói bày lỗi quấy của người đó, hoặc thiệt, hoặc chẳng thiệt, người này trong hiện đời mắc bệnh bạch lại[1]. Nếu khinh cười người trì kinh sẽ đời đời răng nướu thưa thiếu, môi xấu, mũi xẹp, tay chưn cong quẹo, mắt lé, thân thể hôi dơ, ghẻ dữ máu mủ, bụng thủng, hơi ngắn, bị các bệnh nặng dữ.

Cho nên Phổ Hiền! Nếu thấy người thọ trì kinh điển này phải đứng dậy xa rước, phải như kính Phật.

GIẢNG:

Khi Phật diệt độ khoảng năm trăm năm về sau, có người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa, thì biết người đó chẳng bao lâu sẽ là người ngồi đạo tràng phá chúng ma, thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, và chuyển pháp luân giáo hóa chúng sanh. Người đó được nhiều phước báo về bốn món: ăn, mặc, ở, bệnh, vì công phu tu hành đã tới mức phải được, dù không muốn cũng có, còn người chưa đủ phước đó, dù muốn cũng không được. Ý Phật nói rằng người mà biết sống với Tri kiến Phật thì mọi phước đức không cầu mà vẫn được.

Đến đây Phật nêu ra hai trường hợp. Nếu ai thấy người trì kinh Pháp Hoa mà chê bai và cho rằng điên dại, thì người đó bị tội báo nặng nề. Ngược lại ai mà tán thán khen ngợi, thì người đó sẽ được quả báo tốt trong đời hiện tại này. Thông thường chúng ta thấy ai khen người hiền trí, không khen kẻ hung ác thì biết người đó đã có chủng tử lành, mà đã có chủng tử lành, thì tự nhiên sẽ hưởng phước lành. Ngược lại, kẻ khinh chê người hiền trí, lại khen người hung dữ, thì chúng ta biết kẻ đó ác và ngu, vì đã có chủng tử ác, ắt phải đọa vào cõi ác, chịu quả báo khổ đau không nghi ngờ.

Sau đây Phật lại nói, kẻ chê bai người trì kinh Pháp Hoa thì răng thưa thiếu, môi xấu, mũi xẹp... Xét lại, nếu người nào mắc phải những tướng xấu đó, là trước đã chê bai người trì kinh Pháp Hoa, nay phải sám hối và khen ngợi đừng chê nữa. Đây Phật kết thúc cho chúng ta thấy rằng người biết xoay lại sống với Tri kiến Phật thì chắc chắn quả Phật sẽ đến. Và đối với người sống với Tri kiến Phật, chớ có khinh thường, nếu khinh thường là tạo nghiệp ác đi trong đường dữ chịu khổ đau.

CHÁNH VĂN:

8.- Lúc Phật nói phẩm Phổ Hiền Bồ-tát Khuyến Phát này có hằng hà sa vô lượng vô biên Bồ-tát được trăm nghìn muôn ức môn "Triền đà-la-ni", tam thiên đại thiên thế giới vi trần số các đại Bồ-tát, đủ đạo Phổ Hiền.

Lúc Phật nói kinh này, Phổ Hiền v.v... các vị Bồ-tát, Xá-lợi-phất v.v... các vị Thanh văn và hàng trời, rồng, nhân, phi nhân v.v... tất cả đại chúng đều rất vui thọ trì lời Phật làm lễ mà đi.

GIẢNG:

Phẩm Phổ Hiền là phẩm chót khuyến khích người trì kinh Pháp Hoaủng hộ người trì kinh Pháp Hoa. Đó là phần lưu thông cho mọi người thấy rằng, người thọ trìbảo hộ kinh Pháp Hoa sẽ được Phật và Bồ-tát ủng hộ. Vậy chớ có xem thường.

 


[1] Bạch lại: Củi

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12473)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10343)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12321)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11621)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28778)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12024)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12990)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11429)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12344)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17428)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52986)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35468)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21361)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10665)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19214)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12393)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26006)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13300)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14353)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16064)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13714)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16821)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17547)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13109)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12510)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11595)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11581)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14485)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20432)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18954)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19530)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18610)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12170)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12286)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13831)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14990)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15023)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13970)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15504)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11379)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17148)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14951)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20167)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14599)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13818)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11689)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15031)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12976)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22841)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14538)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11637)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13146)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16852)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18320)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11925)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11486)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15825)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12861)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18885)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18401)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant