Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

08 Phẩm Hiện Bảo Tháp

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6657)
08 Phẩm Hiện Bảo Tháp

ĐỀ CƯƠNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Nhật Quang
Thiền Viện Thường Chiếu

 

Phẩm Hiện Bảo Tháp

CHÁNH VĂN

Tháp Phật Đa Bảo vọt hiện lên chứng minh, là biểu trưng cho Diệu pháp của bản lai thanh tịnh, được sự hộ niệm của các đức Phật thuở quá khứ và sự ủng hộ gìn giữ của các đức Phật thời hiện tại, cũng là chỗ tu chứng của các đức Phật trong tương lai. Số mục theo đời chia làm ba, nhưng tâm này chỉ là một. Từ xưa đến giờ, trước sau chẳng khác. Cũng chẳng theo trình tự đổi dời của ba thuở. Thế nên, kinh Kim Cương nói: “Tâm quá khứ chẳng thể được, tâm hiện tại chẳng thể được, tâm vị lai cũng chẳng thể được”. 

GIẢNG

Với người tu hành luôn khắc tỉnh, để ý đến công phu của mình, chịu cực chịu khó, chấp nhận gian lao, chịu mọi thử thách là vì mình thương mình, chứ không vì ai khác. Nếu ai không vì mình mà nói vì người khác, e rằng công phu đó chẳng đi tới đâu cả. Tâm sanh tử diệu vợi từ vô lượng kiếp chúng ta đã đeo mang, nên rồi loay hoay lẩn quẩn từ đời này sang đời khác, không có ngày cùng. Người biết như vậy, mà không chịu thương mình để giải quyết cho rồi thì quả thật là tay cực kỳ phiêu lưu. Chư huynh đệ nắm vững ý đó mà hạ thủ công phu tu hành. Mình thương mình mà xuất gia, chấp nhận tất cả để trong từng phút giây, gầy dựng sự tỉnh sáng, quyết tâm chấm dứt nhiều kiếp trôi lăn. Có như vậy mới gọi là hồi đầu thị ngạn

Phẩm Hiện Bảo Tháp là giai đoạn đức Phật chỉ cho chúng ta biết mình đào giếng tới đất ướt, sắp tới nước và sẽ dùng được nước. Nếu không được chỉ rõ thì đào giếng tới nước, ta sẽ chết ngộp trong nước, chứ không biết dùng nước. Chư Tổ thường nói các ông đứng trong nước ngập đầu mà kêu khát nước, hoặc “Bính Đinh tìm hỏa”, Bính đinh là lửa mà đi tìm lửa nữa… đại loại đều chỉ cho những kẻ ở trong tánh Phật mà đi tìm tánh Phật. 

Mỗi chúng ta đều có tánh Phật. Tánh Phật ấy được sự hộ niệm của chư Phật thuở quá khứ, sự ủng hộ gìn giữ của các đức Phật thời hiện tại, cũng là chỗ tu chứng của các đức Phật trong tương lai. Số mục thì có thời quá khứ hiện tại tương lai, nhưng thực ra như kinh Kim Cương nói: “tâm quá khứ chẳng thể được, tâm hiện tại chẳng thể được, tâm vị lai cũng chẳng thể được”. Hay là từ xưa tới giờ trước sau chẳng khác, chẳng theo trình tự đổi dời v.v… Nghĩa là cái đó hiện tiền ngay đây, của chính mình mà ta không nhận ra

Chúng ta có tánh giác mà quay lưng với nó, rồi kêu Phật ban cho. Đêm đêm niệm Bồ-tát Quán Thế Âm cầu Bồ-tát cho con sự bình an. Trong khi sự bình an dính trên lưng lại không chịu nhận, có lạ chưa? Đã thế thì chúng ta là kẻ phiêu lãng rồi, chấp nhận đứng trên đầu bờ tử sinh, đứng trên chỗ điêu linh, ngược xuôi dong ruổi, chả biết ta là gì. Mình không thương mình, đợi ai thương mình? 

Số mục theo đời chia làm ba, nhưng tâm này chỉ là một. Từ xưa đến giờ, trước sau chẳng khác. Cũng chẳng theo trình tự đổi dời của ba thuở. Ngài nói tâm này chỉ là một, không còn cách nào khác nữa. Nhưng chúng ta cũng chưa dám nhận. 

CHÁNH VĂN

Lại Phật Đa Bảo là biểu trưng cho Pháp thân. Hiện tại đức Thích Tôn là biểu trưng cho Ứng thân. Chư Phật phân thân khắp nơi trong mười phương là biểu trưng Hóa thân. Đây nhằm bày tỏ ba thân cùng một lý vậy.

GIẢNG

Ứng thân, Pháp thân, Hóa thân đều là tâm thể của chúng ta. Nói Phật thì có Pháp thân Phật, Báo thân Phật, Hóa thân Phật. Tuy có nhiều danh từ nhưng thực sự là nói tâm thể của chính chúng ta. Tâm thể thì thế nào? Rỗng rang sáng suốt trùm khắp. Rõ ràng nếu không có tánh đó chúng ta sẽ không biết gì cả. Bây giờ ta biết tất cả. Thiên hạ chửi ta biết, bụng đói ta biết, thấy huynh đệ, thiền viện v.v... tất cả mọi cảnh vật và con người, chúng ta đều biết hết. Như vậy bên trong chúng ta có cái gì, chúng ta mới biết chứ! Nếu bên trong không có tánh giác thì nhất định ta không biết gì hết. Nghe tiếng gì mình biết, thấy cái gì mình biết, có mùi vị gì mình biết, có xúc giác gì mình biết, như vậy chứng tỏ bên trong có cái gì đó, nên mới tác dụng biết như thế. Rõ ràng mỗi chúng ta đều có sẵn tánh biết. Nhà thiền gọi tánh biết ấy là bản lai xưa nay của chúng ta. Nhận được cái đó thì giàu có vô vàn, khổ đau không còn làm gì được chúng ta.

CHÁNH VĂN

Tháp bảy báu là biểu trưng cho bảy đại, năm uẩn, thân và tâm. Đức Phật trong đó khen “Lành thay” đối với đức Thích Tôn, đây là biểu trưng Pháp thân Phật, ẩn kín trong lầu năm uẩn bảy đại mà phát huy ra sáu căn thấy, nghe, hiểu biết ấy vậy. Chính trong kinh Lăng Nghiêm nói Như Lai tạng tánh là đấy. Đại chúng muốn mở cửa tháp báu để thấy đức Đa Bảo Như Lai. Nhưng đức Phật kia có lời thệ lớn, là cần đợi các phân thân của đức Thích Tôn trong mười phương nhóm họp đông đủ, Ngài mới xuất hiện. Đây là biểu trưng cho hành nhân, muốn tự thấy tâm thể xưa nay của mình, tức phải thu cái nhìn nghe trở lại. Thu nhiếp sáu căn, chẳng cho căn tánh tán loạn ngoài cảnh giới sáu trần. Đến lúc một niệm không sanh, liền đó tự thấy tâm thể xưa nay của mình.

GIẢNG

Tới đây thì tháp Phật Đa Bảo vọt lên chứng minh v.v… Tháp bảy báu là biểu trưng cho bảy đại, năm uẩn, thân và tâm. Chúng ta học về pháp số, về kinh giáo đã nắm rồi. Năm uẩn là gì? Bảy đại là gì? Thân và tâm là gì? Năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng gọi là năm ấm. Chữ uẩn có nghĩa là nhóm họp, chữ ấm có nghĩa là che đậy. Sắc tức sắc pháp gồm có bốn đại: địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại. Trong thân này có đủ bốn thứ: Cứng là địa đại như xương, hơi thởphong đại, hơi ấm là hỏa đại, nước là thủy đại

Bốn thứ thọ, tưởng, hành, thức thuộc về tâm. Nội cảm thọ không chúng ta tu mấy chục năm cũng chưa thể nghiệm hết được. Nó là một loại vọng tưởng, người ta thường nói tâm mình nhưng thực ra nó là vọng tưởng. Các loại cảm thọ chẳng qua là bóng dáng của tiền trần, cho nên nó là vọng tưởng. Thế mà chúng ta chấp nhận, nuôi dưỡng, sống và bị nó đẩy vào thế lầm nhận chính là mình, cho nên ta nuôi vọng tưởng và sống với vọng tưởng.

Thứ hai là tưởng. Tưởng tượng của chúng ta dồi dào lắm, ta ngồi đây mà có thể tưởng voi tưởng trâu, tưởng thứ nọ thứ kia. Ngồi nghe làn gió mát thoảng qua là tưởng tượng Đà Lạt lạnh lẽo cô đơn chẳng hạn. Thế thì tưởng tượng cũng thuộc về vọng, nó sâu kín hơn vọng tưởng thứ nhất một chút.

Thứ ba là hành tức những dòng niệm nghĩ. Các triết gia phương Tây thường nói “Có suy nghĩ là có tôi”. Theo tinh thần Phật dạy, suy nghĩ chẳng qua là vọng tưởng. Loại vọng tưởng này sâu sắc hơn các loại vọng tưởng kia. Tưởng tượng thì phải có một hình bóng nào đó để căn cứ, rồi tưởng tượng. Cái suy nghĩ ở đây, đối tượng sâu kín bên trong. Chúng ta dùng trí não suy gẫm về cái gì, xét nét về cái gì, đây là lãnh vực của ý thức, không phải tâm thể, nên nó là vọng tưởng.

Cuối cùng là thức, chú này vô cùng bén nhạy. Nó chuyên phân biệt hay biện biệt. Trong chữ Hán, “biện” có nghĩa là chia chẻ, “biệt” là từng món từng phần. Cho nên đến giai đoạn này, mọi hiện tượng vừa nhìn tới liền được phân tích nhận định tận căn để, giống như đang trong lúc phẩu thuật vậy.

Thế gian cho những người ý thức nhạy bén lanh lợithông minh, nhìn sâu hiểu rộng. Với nhà Phật, hạng người ấy chưa đáng khen ngợi, chưa thể giải thoát, giác ngộ được. Do vậy các triết gia, bác họchiểu biết rộng lớn, nhưng không phải là người giải thoát. Mẫu người lý tưởng của đạo Phật là mẫu người giác ngộ giải thoát, đó mới là đỉnh cao. Bởi thế chúng ta xuất gia, dám bỏ những thứ người khác không bỏ được, như bỏ cha bỏ mẹ, bỏ tất cả để tiến thẳng vào công phu dẹp sạch những suy tư biện biệt, những vọng tưởng điên đảo, với mục đích thể nhập tâm thể sáng suốt trùm khắp của chính mình.

Hòa thượng Viện trưởng dạy vừa có niệm khởi, bỏ đi. Tại sao bỏ đi? Vì biết nó là vọng tưởng. Vừa có niệm khởi dù đó là niệm gì, cũng đừng để nó kéo đi, như thế là người được định, có tỉnh lực. Biết vọng tưởng không thật nên không chấp nhận nó, đó là tuệ. Có định và tuệ rồi thì mọi thứ trên đời chỉ là mớ bòng bong vô nghĩa. Người xuất gia mà ngồi đó tơ tưởng thì quả thật đáng bị quở trách. Chúng ta ngồi thiền chìm sâu trong những suy gẫm, đó chính là điên đảo vọng tưởng. Như thế là đã đánh mất cái định tuệ bản hữu của mình. Cái định tuệ bản hữu này không phải tìm ở đâu cả. Vừa có một dấy niệm mình không động, không chạy theo, cũng không dấy khởi gì hết mà bình thản an nhiên, đó là định tuệ hiện tiền, đó là người có lực lượng, không gì có thể phá hại được. Người đó là người có cung thiền địnhkiếm trí tuệ. Chúng ta học và tu là để nhận lại cái bản hữu này.

Đọc lịch sử của đức Thế Tôn, tới khoảng ngài sắp thành đạo, ma quân rầm rộ phủ vây, nhe răng múa kiếm hù dọa đủ thứ chuyện. Bọn ấy hỏi: 

- Ông sợ ta không? 

Bồ-tát Sĩ Đạt Đa trả lời

- Ta không sợ. 

- Ông nói dối. Ông có một mình lại tay không, bọn ta đông đảo và khí giới như thế này mà ông nói không sợ? 

Ngài trả lời

- Ta có cung thiền địnhkiếm trí tuệ, biết các ngươi không thật nên ta không sợ. 

Như vậy cung thiền địnhkiếm trí tuệ ở đâu? Ở sẵn ngay nơi ta, nhưng mình quay lưng bỏ đi, có người nhắc cũng không chịu nhận, nên mới bị ma nhác. Nó nhe răng mình hết hồn chạy tuốt, cung đâu mà thiền định, kiếm đâu mà trí tuệ! 

Người thật sự tu hành sẽ cảm nhận được công phu của mình. Bao giờ ta còn điên đảo bởi những hiện tượng bên ngoài tức là chưa vào được công phu. Tánh giác rỗng rang sáng suốt chưa hiện bày thì luôn bị các vọng tưởng kéo lôi hoặc rơi vào một trong bốn trường hợp thọ, tưởng, hành, thức như Phật đã nói ở trên. Ngược lại cả ngày lẫn đêm, trong tất cả thời, mọi sinh hoạt, nếu người có công phu, có lực lượng thì không gì làm lay chuyển nổi.

Trong Thiền Quan Sách Tấn ngài Hoàng Bá nói, cái đó của các ông khi hiện bày thì dù bao nhiêu đức Phật ra đời cũng không biết được, đừng nói là ma quân. Tuy nhiên cái phi thường rơi vào tay thỏ đế cũng trở thành tầm thường. Còn người đã phi thường thì bất cứ cái gì trong tay cũng trở thành phi thường. Người có công phu tự thầm nhận sự tỉnh lặng an lạc thực sự nơi mình. Chỉ có điều mình biết rõ là cái an lạc này chỉ là giai đọan, chưa phải rốt ráo nên không bị đắm chìm trong ngả tẻ. Nếu người tu mà không có cảm nhận an vui nào hết, sẽ không tu nổi. Như các vị cư sĩ tập tu một thời gian thấy chán nản, mệt mỏi thì làm sao tu tiến? Khi nào chúng ta nhận được mình có tánh Phật sẽ bình an. Trời nắng cũng bình an, trời mưa cũng bình an. Mọi thứ chung quanh đều là những chất liệu cần thiết bổ sung cho công phu tu hành của chúng ta.

Công phu hành thiền là tự nguyện, tự nhận, tự sống lại với tâm thể rỗng rang sáng suốt của mình. Tuy nhiên những danh từ này cũng chưa phải thật, nó là dụng có ra từ tâm thể kia. Bao giờ vọng tưởng yên lắng hết thì không cần nói từ gì cả. Vì vậy chúng ta học kinh Duy Ma Cật, ngay chỗ pháp môn Bất Nhị, ngài Duy Ma Cật không nói. Các vị đại thánh người thì diễn tả như vầy người diễn tả như kia, chỉ tôn giả Duy Ma Cật im lặng. Đó là thể hiện tròn đầy tánh giác. Lý tưởng đỉnh cao của chúng ta ở chỗ ấy. Nói thế cũng là một cách nói để động viên chư huynh đệ tu hành thôi. Thật ra chỗ này càng nói càng xa.

Tháp bảy báu là biểu trưng cho bảy đại, năm uẩn, thân và tâm. Đức Phật trong đó khen “Lành thay” đối với đức Thích Tôn, đây là biểu trưng Pháp thân Phật, ẩn kín trong lầu năm uẩn bảy đại mà phát huy ra sáu căn thấy, nghe, hiểu, biết ấy vậy. Tức là pháp thân Phật ẩn kính trong tháp bảy báu, nhưng biểu trưng ra ngoài là thấy nghe hiểu biết, tức các giác quan của chúng ta. Mỗi người chúng ta đều có pháp thân nằm ẩn trong lầu năm uẩn. Nó biểu hiện ra ngoài qua thấy nghe hiểu biết, tức là những cảm giác từ các giác quan của chúng ta.

Nếu chúng ta thấy đẹp thấy xấu và chạy theo các duyên bên ngoài, coi như chúng ta đã cắt đứt cái mạng mạch giác tánh của mình rồi. Do vậy mà sống theo pháp trần vọng tưởng điên đảo, bị trầm luân sanh tử. Nghe cũng như thế. Như ta ngồi nghe tiếng xe chạy, tiếng người nói chuyện, tất cả âm thanh trong khu vực này đều nghe hết. Nếu ta chạy theo một loại âm thanh nào, liền khi đó cắt đứt sinh mệnh, quên mất giác tính. Tóm lại, chúng tasáu giác quan, chúng đều biết, đó là biểu trưng sáng suốt của tâm thể. Tuy nhiên chúng ta lao theo bên ngoài thì mất mình. 

Kinh Lăng Nghiêm nói mỗi chúng ta đều có cái Viên Trạm Thường Tính. Như viên ngọc sáng để trong căn phòng, nó phát ánh sáng ra sáu cửa. Chúng ta nhìn thấy gốc cây đẹp liền chạy theo, muốn gốc cây đó của mình, bằng mọi cách đem xe cẩu cẩu về để trước nhà. Đó là chúng ta đã cắt đứt sinh mệnh, giác tánh của mình. Cho nên nơi sáu cửa, chúng ta không chịu quay về mà lao theo pháp trần là nhận giặc làm con. Từ đó mê mờ ngược xuôi theo cảnh duyên bên ngoài. Người như thế Phật nói chưa thể nhận ra Viên Trạm Thường Tính. Người không chạy theo trần cảnh mới sống được với Viên Trạm Thường Tính, Diệu Tịnh Minh Thể của mình. Ở đây cũng vậy, chúng ta đang ngồi thiền, đang tụng kinh, đang làm công việc mà lao theo, vướng mắc, không sống với tánh giác của mình là đã xa cội nguồn. 

Trong sự tu hành, chỉ mình khéo nhận thôi. Tuy chúng ta có sẵn cái đó nhưng không khéo nhận thì cũng không được chi. Người khéo nhận ra thì cắt đứt dòng trầm luân sanh tử, các nỗi khổ điêu đứng. Nỗi khổ lớn nhất của chúng sanhu mê, không nhận được đâu là thật, bám theo cái giả tạo nghiệp, để trôi nổi trong luân hồi sanh tử. Sanh chỗ này chết chỗ kia, nay trồi lên mai sụt xuống, thay hình đổi dạng đời kiếp trôi lăn. Đây là nỗi khổ trầm thống nguy hiểm nhất, chứ không phải khổ thiếu ăn thiếu mặc, thiếu tình thương gì. Cái khổ đó chỉ trong đời này, nó giả tạm thôi, còn cái khổ kia đến bao giờ ta sáng đạo, phá được mầm tăm tối mới giải trừ hết. Nếu chúng ta cứ tăm tối, lăng xăng điên đảo hoài là nuôi dưỡng gốc khổ, sẽ phải chịu ngược xuôi dính mắc dài dài trên con đường sanh tử triền miên

Chúng ta không nhận định được như thế thì quả thực là mù mờ. Suốt đời chỉ sống với vọng tưởng, hết đời này đến đời khác. Con người với dây mơ rễ má trầm luân sanh tử, từ đâu tới đâu mình không biết. Do đó tổ Quy Sơn nói “Tiền lộ man man vị tri hà vãng” đường trước mờ mờ chưa biết về đâu. “Tùng tư thỉ tri hối quá, lâm khát quật tỉnh hề di” từ đây mới biết hối hận, đợi đến khát đào giếng thì làm sao cho kịp. Cho nên hiểu biết rồi thì ráng tu, chớ lăng xăng hoài giống như người đợi khát cháy cổ mới đào giếng thì làm sao kịp, chắc phải chết khát.

Tu hành thật ra không khó, chỉ ta chịu tu, ta biết thương mình hay không thôi. Một khi quyết tâm rồi nhất định chúng ta sẽ tu tiến, sẽ gắn bó với Phật pháp. Tuy nhiên trong kinh A Hàm, Phật có dạy dù học hiểu Phật pháp thấu đáo rồi nhưng có người tu tiến, có người tu không tiến. Vì sao? Vì nhận ra mà người chịu sống thì mới đến Niết-bàn, còn người nhận ra mà không tu thì không đến được Niết-bàn. Rõ ràng như thế. Chúng ta còn ngao du, còn lăng xăng thì không được gì cả. 

Nhưng đức Phật kia có lời thệ lớn, là cần đợi phân thân của đức Thích Tôn trong mười phương nhóm họp đông đủ, Ngài mới xuất hiện. Đây là biểu trưng cho hành nhân, muốn tự thấy tâm thể xưa nay của mình, tức phải thu cái nhìn nghe trở lại. Thu nhiếp sáu căn, chẳng cho căn tánh tán loạn ngoài cảnh giới sáu trần. Đến lúc một niệm không sanh, liền đó tự thấy tâm thể xưa nay của mình. Đoạn này ngài dạy chúng ta phải thu nhiếp sáu căn trở lại. Chúng ta ngồi thiền, hành thiền, sống thiền, sinh hoạt thế nào mà các giác quan không dính mắc trần cảnh. Đó là hằng sống với tâm thể xưa nay của mình. 

CHÁNH VĂN

Bởi tâm thể không hình nhưng tác dụng của tâm có dấu vết, ứng hiện ra các căn. Hợp cơ, chỉ hiển bày kiến căn, mà sáu căn vẫn đủ. Căn là chỗ của tâm quang ứng dụng, tâm tức là căn thể xưa nay. Đây là tâm căn soi lẫn nhau, thể dụng đều rõ rệt. Muốn thấy bản tâm từ căn mà vào. Trong kinh nói: “Từ ánh sáng mà được lửa, nắm mũi là dắt cả con trâu”. 

GIẢNG

Kiến căn là mắt, dùng một căn nhận ra tánh giác thì các căn khác đều biết. Ở đây nói muốn thấy bản tâm, từ căn mà vào. Nói rõ hơn là muốn nhận được cái Viên Trạm Thường Tính thì từ các giác quan của chúng ta mà soi lại. Các tổ sư thiền tông Việt Nam dạy thường phản quan tự kỷ, tức là từ ánh sáng kia soi rọi, nhận lại cái Viên Trạm Thường Tính của chính mình, như trong Đề cương kinh Pháp Hoa tổ Minh Chánh đã chỉ đây. 

Từ mắt thấy chúng ta không chạy theo, xoay trở về sống với chính mình, là sống với cái Viên Trạm. Từ nghe không chạy theo thinh trần, phản quan sống lại với cái Viện Trạm, các giác quan khác cũng vậy. Cho nên ở đây nói “Từ ánh sáng mà được lửa, nắm mũi là dắt cả con trâu”. Chúng ta đừng sợ gì hết, sống được với tâm thể xưa nay rồi thì mọi thứ đều đầy đủ. Giống như hạt châu để trong chéo áo, bao giờ nhận ra được, lấy xài là giàu có muôn hộ.

CHÁNH VĂN

Lại đức Phật Đa Bảo biểu trưng cho tâm thể xưa nay. Đức Thích Tôn biểu trưng cho căn dụng của căn tánh. Các Hóa Phật biểu trưng cho thức tản mạn theo sáu trần. Nay thì chuyển thể đến dụng là nghĩa các phân thân nhóm họp. Nhiếp dụng về thể là nghĩa thấy được Phật Đa Bảo. Hai đức Như Lai cùng ngồi một tòa trong tháp là nghĩa xưa nay một lý, cũng chính là nghĩa thể dụng không hai. Lại có nghĩa là ba thân đồng một thể. Các học giả, phải hiểu như thế!

GIẢNG

Ở đây nhắc lại đức Phật Đa Bảo trong tháp báu là biểu trưng cho tâm thể, đức Thích Tôn là biểu cho ứng dụng căn tánh, tức là ứng thân, hóa thân. Các hóa Phật biểu trưng cho thức tản mạn theo sáu trần tức là những hóa thân tùy loại mà hiện các tướng sai biệt. Trong phẩm Phổ Môn, Bồ-tát Quán Thế Âmtam thập nhị ứng, nghĩa là tùy theo loại chúng sanh mà ngài ứng hóa ra ba mươi hai thân để giáo hóa chúng. Như muốn độ loài quỷ trong địa ngục khổ đau, ngài hiện ra đại quỷ thần tức Tiêu diện Đại sĩ hay gọi một cách bình dân là ông Tiêu. Bồ-tát Quán Thế Âm, vì từ bi muốn độ loài quỷ đói nên thị hiện một đại quỷ lực như thế để nhiếp thống ma quỷ, đưa họ trở về con đường tu hành.

Trong đạo tràng này, dù nội viện hay khu ngoại viện chung quanh, tất cả huynh đệ đều hướng về đời sống của người xuất gia, sống hạnh thanh tịnh giải thoát, cố gắng nỗ lực tu và kích dương động viên cho huynh đệ chung quanh cùng tu cho đến sáng đạo. Mình vừa tu vừa giáo hóa. Như huynh đệ ngồi thiền ngủ gục hoài, muốn rút lui mà thấy mình ngồi nghiêm trang tề chỉnh quá nên vị ấy thấy xấu hổ, không bỏ đi mà cố gắng ngồi ngay thẳng tỉnh táo lên. Cho nên mình tu đàng hoàng, sẽ là chỗ nương cho huynh đệ cùng tu. Đó là chúng ta hỗ trợ nhau tu. Như vậy mình đã làm được việc vừa tự độ vừa độ tha, vừa tự tu vừa giáo hóa những chúng sanhliên hệ gần gũi với mình cùng tu. Đó là những huynh đệ cùng ăn một mâm, cùng sống trong một thiền viện, cùng làm một việc. Đời sống trở nên có ý nghĩa biết bao nhiêu, nhưng nếu ta không biết sẽ thấy buồn tẻ lắm.

Sống trong tập thể hơn một trăm thiện hữu tri thức mà mình không dính dáng với ai hết, là một khiếm khuyết lớn. Làm sao thấy huynh đệthiền việnbà con ruột thịt của mình. Phật nói tất cả người nam là cha của ta, tất cả người nữ là mẹ của ta, người ngang với ta là anh chị, người nhỏ hơn ta là em út, không ai là không ruột thịt của mình. Đợi gì cha mẹ anh em ở nhà mới là ruột thịt. Chỉ thay đổi quan niệm như thế là tu tiến rồi.

Ở đây nói Phật Đa Bảopháp thân, hiện thời Phật Thích Caứng thân, các vị Phật hóa ra của đức Thích Cahóa thân. Muốn cho pháp thân hiện bày thì ba thân này cùng về một thể. Do đó kinh nói tháp Đa Bảo được mở cửa, Phật Đa Bảo mời đức Thế Tôn lên, hai vị Thế Tôn ngồi chung một tòa, gọi là trở về với pháp thể thanh tịnh. Trước khi ngồi một tòa như thế thì các ứng hóa thân của Phật Thích Ca khắp trong mười phương đều tập trung về hết, bấy giờ tháp Đa Bảo mới được mở cửa, rồi đức Phật Thích Ca, Phật Đa Bảo ngồi chung một tòa trước đại chúng. Đó là chuyển thức dụng, phân thân nhóm họp các nơi trở về.

CHÁNH VĂN

Kệ rằng: 

Nhân gì tháp báu vọt trước đây,
Lại nghe trong đó tiếng "Lành thay",
Đại Nhạo Thuyết Tôn, nghi đến hỏi,
Thích-ca Văn Phật quyết tỏ bày,
Phân thân vốn thật Mâu-ni hóa, 
Tháp báu nguyên là cổ Phật đài,
Đấy chỉ ba thân về một chỗ,
Tòa sen cùng ngự, lý không sai.

GIẢNG:

Nhân gì tháp báu vọt trước đây, trong kinh đã chỉ rõ nhân duyên tháp báo hiện rađức Phật muốn nêu bày tất cả chúng sanh đều có pháp thân thanh tịnh ẩn nơi thân năm uẩn này. Lại nghe trong đó tiếng “Lành thay”, khi bảo tháp vọt lên, đại chúng trong hội nghe tiếng đức Phật trong ấy nói “Lành thay, lành thay”, đó là lời Phật Đa Bảo khen ngợi đức Phật Thích Ca. Vì ngài thệ nguyện nơi nào có giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì ngài thị hiện đến chứng minh, khen lành thay lành thay.

Đại Nhạo Thuyết Tôn nghi đến hỏi, Thích-ca Văn Phật quyết tỏ bày, bấy giờ trong hội có vị Bồ-tát tên là Đại Nhạo Thuyết, thấy những sự kiện ấy mới nghi và hỏi, đức Phật Thích Ca liền vì tỏ bày. Phân thân vốn thật Mâu-ni hóa, Tháp báu nguyên là cổ Phật đài, phân thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khắp mười phương giáo hóa chúng sanh, đó chỉ là thân ứng hóa thôi, không phải thân chân thật. Trong tháp báu này mới là pháp thân Phật.

Đấy chỉ ba thân về một chỗ, Tòa sen cùng ngự lý không sai. Muốn pháp thân hiện thì phải gom hết các phân thân của Phật Thích-ca về một nơi, pháp Đa bảo mới mở, để nói lên ý nghĩa chúng ta muốn thể nhập pháp thân thì mọi vọng tưởng lăng xăng phải lặng hết, trở về pháp thân mới được. Chúng ta sống được với tâm xưa nay của mình là tâm thể rỗng rang sáng suốt thì được yên ổn, không còn khổ nữa. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32611)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6439)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11096)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30233)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30315)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7886)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12039)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11497)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12590)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34460)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9724)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52120)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10629)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10388)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10595)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21646)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9521)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12533)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16397)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16407)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11963)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14230)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16129)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16108)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12619)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11952)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15551)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11408)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12517)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14865)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11880)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14386)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20543)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13113)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20567)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14233)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20155)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17469)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13858)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11909)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant