Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Hai: Sám Hối Tội Nghiệp

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 12416)
Chương Hai: Sám Hối Tội Nghiệp

CHƯƠNG HAI
SÁM HỐI TỘI NGHIỆP

Nghi lễ Bồ Tát

Ca ngợi

1. Để con nắm giữ được
Tâm nguyện quí giá này 
Con cúng dường ch
ư Phật 
Pháp Bảo thiêng liêng 
Con cúng dường Bồ tát 
Đầy phẩm tính tốt lành

Cúng dường

2. Cúng dường hoa quả tươi 
Thức ăn ngon quý nhất 
Nước uống thật tinh khiết 
Vật quý báu trên đời. 

3. Cúng dường núi châu báu 
Rừng thanh tịnh ngát hương 
Hoa cõi trời diễm tuyệt 
Trái quý buông trĩu cành. 

4. Cúng dường những hương thơm
Ngào ngạt cõi trời đất
Cúng dường trang sức quý 
Cúng dường cây như ý 
Thành tựu mọi ước mơ
Cúng dường mọi ngũ cốc
Tự sinh không người trồng. 

5. Cúng dường ao sen đẹp 
Thiên nga hót êm dịu
mọi vật vô chủ 
Đầy dẫy khắp bầu trời. 

6. Con giữ chúng trong tâm
Dâng lên đấng Thế Tôn
Và chư vị Bồ tát 
Thỉnh cầu đức Thế Tôn 
Từ bi nghĩ đến con
Mà nhận vật cúng dường

7. Con vô phước bần cùng 
Không một chút tài sản 
Kính xin đức Phật thương 
Nhận lễ vật tâm con. 

8. Con nguyện đem thân tâm 
Để làm kẻ nô bộc 
Phụng sự Phật, Bồ tát 
Mong quí ngài xót thương 
Thâu nhận lễ vật này. 

9. Được các ngài thâu nhận
Thân tâm con siêu thoát 
Con nguyện sống lợi tha 
Diệt trừ các ác nghiệp

10-11. Đây nhà tắm tráng lệ 
Nền thủy tinh long lanh 
Cột trụ khảm trân châu 
Lọng dù bằng ngà ngọc 

Trần thiết lộc bình quý 
Đầy nước thơm thích ý 
Ngân vang muôn diệu âm 
Thỉnh Phật, Bồ tát tắm 

12. Đây khăn tắm sạch thơm
Lau khô thân các ngài 
Đây y phục cõi trời
Với màu sắc mỹ lệ 
Lan tỏa hương dịu thơm. 

13. Đây y phục mềm mại 
Và trăm trang sức quý 
Dâng lên Đức Phổ Hiền, 
Văn Thù, Quán Thế Âm

14. Hương liệu thơm vũ trụ 
Xin thoa ngọc thể Ngài 
Tỏa hào quang thanh tịnh 
Óng ánh sắc vàng ròng

15. Xin cúng dường chư Phật 
Các tràng hoa đẹp đẽ 
Kết từ hoa tươi thơm 
Như hoa sen, hoa lài 
Hay hoa mạn đà la

16. Con xin dâng chư Phật 
Vầng mây hương ngây ngất
Dâng thực phẩm cõi trời 
Thức ăn uống đẹp ngon. 

17. Con dâng đèn hoa ngọc 
Chân chạm đá sen vàng 
Nền nhà dịu mát hương 
Rải đầy hoa đẹp ý. 

18. Xin cúng dường chư Phật 
Những lâu đài tráng lệ 
Rèm buông ngọc lung linh 
Du dương ngân tiếng hát. 

19. Xin dâng hiến chư Phật 
Lọng che bằng châu ngọc 
Cán đúc toàn vàng ròng 
Viền thêu hoa mỹ lệ. 

20. Cúng phẩm nhiều như mây 
Nhạc du dương hoà tấu
Khổ đau được dịu xoa
Mong sao chúng mãi còn. 

21. Mưa hoa, mưa ngọc ngà 
Mong luôn luôn buông rơi 
Trên thân Phật, tháp Phật
Trên giáo pháp diệu kỳ. 

22. Như Ngài Diệu Cát Tường (10)
Xưa kia cúng dường Phật 
Nay con xin cúng dường 
Phật, Bồ tát như vậy. 

23. Dùng âm vang hải triều 
Tán dương công đức Phật 
Nguyện tiếng tán dương này 
Luôn vang đến các Ngài. 

24. Nguyện hoá thân như bụi 
Lễ lạy Phật ba đời 
Lễ lạy Pháp và Tăng 
Cùng khắp cả pháp giới

25. Con lễ lạy tháp Phật 
Các nơi Bồ tát ở (3)
Lễ bậc trì giới nhất 
Kính lễ hàng thánh tăng

Quy y 

26. Từ nay cho đến khi
Đạt Vô thượng Bồ đề 
Con nguyện quy y Phật
Pháp và chư Bồ Tát.

Sám hối 

27. Trước chư Phật, Bồ Tát
Ở cùng khắp mười phương
Con xin chấp hai tay 
Thành khẩn nguyện như vầy

28-29. Từ vô thỉ đến nay 
Trôi lăn trong sinh tử 
Với tội ác không lường
Do tự mình gây ra
Hay xúi giục người làm
vô minh che lấp 
Nay con biết lỗi lầm 
Thành tâm xin sám hối

30-31. Lỗi lầm con đã phạm 
Qua nghiệp thân, khẩu, ý 
Đã gây bao tổn hại
Cho Tam bảo (4), mẹ cha 
Cũng như cho Thầy Tổ
Và cho bao kẻ khác 
Nay trước đức Thế Tôn 
Con thành tâm sám hối 
Mọi tội lỗi gây ra. 

32. Nếu sám hối chưa trọn 
Con lỡ chết thì sao? 
Vậy xin Ngài mau cứu 
Trước khi thần chết đến. 

33. Thần chết thật lừa lọc
Nó không biết đợi chờ 
Tội rửa sạch hay chưa 
Dù đang bệnh hay khỏe
Con không thể nào tin 
Vào mạng sống mong manh 
Lập loè như lửa đóm. 

34. Con đã không ý thức 
Chết là bỏ tất cả 
Nên con đã quanh quẩn
Với bè bạn, kẻ thù
Vì vậy tự gây ra
Biết bao điều xấu ác.

35. Đời người như mộng ảo 
Điều gì đã trải nghiệm 
Cũng chỉ là ký ức
Tất cả đều trôi qua 
Không bao giờ trở lại

36. Kẻ thù thành hư vô 
Người thân như mây khói
Thân tôi rồi phải chết 
Tất cả trở về không. 

37. Trong đời ngắn ngủi này 
Kẻ thân, thù đã chết 
Duy nghiệp ác đã gây 
Còn ở lại với tôi. 

38. Tôi đã không ý thức 
Rồi cũng chết như họ 
Nên cứ tham sân si 
Tạo ra bao lầm lỗi. 

39. Mạng sống giảm từng ngày 
Chẳng bao giờ ngừng nghỉ 
Không thể nào kéo dài 
Làm sao thoát khỏi chết? 

40. Đến lúc sắp lâm chung
thân thuộc vây quanh 
Thống khổ lúc hấp hối
Tôi gánh chịu riêng mình. 

41. Khi Diêm Vương đến bắt 
Thân thuộc có ích gì? 
Chỉ phước đức mới cứu 
Tôi lại chưa tu tập! 

42. Do buông lung không biết
Hậu quả xấu mai sau 
Bám víu đời phù phiếm
Tôi tạo bao nghiệp xấu. 

43. Như kẻ ra pháp trường 
Kinh hãi, miệng khô đắng 
Mắt trợn trắng, thất thần 
Hình sắc cũng đổi khác. 

44. Huống chi khi thấy bóng 
Ma vương đến bắt ta 
Kinh hoàng sao kể xiết 
Khổ đau dâng tột cùng. 

45. Ai cứu tôi ra khỏi 
Cơn sợ hãi lớn này 
Tôi tròn xoay đôi mắt 
Nhìn bốn phương van cầu. 

46. Bốn phương không thấy ai
Sợ hãi lại càng tăng
Không nơi nào che chở 
Tôi phải làm sao đây? 

47. Con xin quy y Phật
Ngài là đấng Từ Bi 
Bảo vệ, đem lợi ích 
Cho tất cả muôn loài 
năng lực giải cứu
Tiêu trừ bao sợ hãi

48. Con xin quy y Pháp 
Mà chư Phật chứng ngộ
Có thể đưa muôn loài
Sang đến bờ giải thoát
Và con xin quy y
Nơi chư vị Bồ Tát

49. Trong cơn sợ bấn loạn
Con xin dâng thân mạng 
Lên Bồ tát Phổ Hiền 
Bồ tát Văn Thù.

50. Với tiếng kêu khẩn thiết 
Con cầu Đức Quan Âm 
Mở đại từ bi tâm
Cứu con, kẻ mê lầm

51. Con cầu cứu các Ngài 
Hư Không Tạng Bồ Tát 
Địa Tạng Vương Bồ Tát 
Chư Bồ Tát đại bi

52. Con cũng xin nương tựa 
Kim Cương Trí Bồ Tát 
Ngài mà các sứ giả 
Của Diêm vương khiếp vía . 

53. Xưa trái lời Phật dạy
Nay gặp nạn hãi hùng 
Con xin quy y Phật
Mau cứu độ cho con. 

54-56. Với bệnh nhẹ tầm thường
Đã tuân lời thầy thuốc
Huống chi trăm thứ bệnh
Sinh từ tham sân si! 

Một trong trăm bệnh này
Đã đủ làm tiêu hủy
Mọi loài Nam Diêm phù
Nay chạy khắp mọi nơi
Tìm không ra thuốc chữa. 

Phật là đại y vương
Dạy giáo lý thoát bệnh
Những ai không làm theo
Thực ngu si đáng trách

57. Bên hố sâu vài trượng 
Tôi đi phải đề phòng 
Cạnh địa ngục sâu thẳm
Sao đời đời nhởn nhơ? 

58. Bởi nghĩ rằng chưa chết
Sống nhởn nhơ phóng dật
Quả thật là dại khờ
Nhưng rồi sớm hay muộn
Cái chết phải đến thôi. 

59. Tôi không thể có được
Cái cảm giác dễ chịu
Rằng trong ngày hôm nay
Thần chết sẽ không đến
Chắc chắnxuất hiện
Làm sao yên hưởng nhàn?

59. Ai giúp bớt lo sợ
Ai chỉ tôi lối thoát 
Làm sao thoát hãi kinh 
Của sự chết phải đến 
Sao có thể nhởn nhơ? 

60. Khoái lạc đã trải qua 
Chỉ còn là hoài niệm 
Bám víu mà làm chi 
Để trái lời Phật dạy? 

61. Chết là lìa bỏ hết 
Người thân và bạn bè 
Đi vào cõi vô định 
Bạn hay thù ích chi? 

62. Tôi nên hằng ngày đêm
Tỉnh thức với tư duy
Rằng gieo ác, gặt ác
Làm sao tránh khỏi đây
Sự gieo xấu ác này 

63-64. Vì ngu đần, vô minh
Phạm giới do Phật chế
Gây biết bao tội lỗi
Lòng run sợ ác báo

Nay trước đấng Giác ngộ
Con chấp tay đãnh lễ
Chư Phật và Bồ tát
Xin thành tâm sám hối

65. Mong quí Ngài tha thứ
Hành động ác từ xưa
Và con xin thệ nguyện 
Vĩnh viễn không tái phạm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11964)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11115)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11349)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12068)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12562)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10768)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17985)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11728)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9950)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10169)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12352)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15344)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14329)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12098)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15369)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12004)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11185)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12086)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10618)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14842)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12688)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19667)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13112)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12671)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12267)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11853)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10905)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13527)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11954)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11637)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12769)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14520)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13627)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12897)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9876)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11166)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9083)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12180)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12217)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11483)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14272)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14153)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant