Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

17 Phẩm Diệu Âm Bồ-tát

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6822)
17 Phẩm Diệu Âm Bồ-tát

ĐỀ CƯƠNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Nhật Quang
Thiền Viện Thường Chiếu

 

Phẩm Diệu Âm Bồ-Tát

CHÁNH VĂN

Phẩm Diệu Âm là nhiếp phẩm Dược Vương trước. Ý bảo rằng, căn này từ lúc mới vào, vẫn cần nhờ các âm thinh, để bày tỏ tánh nghe, tiêu mòn vọng niệm, vào Xa-ma-tha. Dần dần vào sâu, giữ nơi chí tịnh. Cho đến cả động tịnh đều quên. Phải ngay nơi đây mà vào Tam-ma-địa. Khi đó chẳng cần thinh trần hiện bên ngoài nữa, mà ở trong tự có diệu âm, riêng sáng, độc chiếu. Thiền sư Cổ Linh Thần Tán(1) nhắc lại:

Linh quang riêng chiếu,
Vượt khỏi căn trần,
Bày thể thường chân,
Chẳng kẹt văn tự.
Đấy là lúc rõ được pháp không vậy.

Tiết này lấy Bồ-tát Hoa Đức làm hợp cơ, mà được Pháp Hoa Tam-muội. Nói Hoa, đó là tri kiến. Còn Đức là diệu thể của các đức đầy đủ trong bản tánh. Tóm lại, nói hoa đức là nhằm tiêu biểu cho tánh tự nghe tánh, tâm tự biết tâm, cũng chính là nghĩa minh tâm kiến tánh vậy.

Nói Pháp Hoa Tam-muội. Pháp tức là Diệu tánh chân như sẵn có. Hoa tức tánh ấy đủ Diệu năng Tri kiến thanh tịnh. Tam-muội hoặc bảo là Tam-ma-đề, đây nói rằng chánh thọ, cũng gọi rằng chánh định. Lại gọi là định tuệ đẳng trì, tứ là nghĩa chánh quán vậy. Đây nói rõ, chính được đại định sẵn có tri kiến chân như, cũng là phá lớp vọng tưởng hư minh của thọ ấm thứ hai.

Kệ rằng:

Đảnh Phật thần quang tịch chiếu thông,
Diệu Âm Bồ-tát hiện thân dung,
Rộng phô Tam-muội nêu tri kiến,
Bày hiện Nhất thừa, rõ đạo tông,
Thể dụng về như, nghe tức tiếng,
Căn trần rốt ráo, sắc mà không,
Chương này mượn huyễn bày chân tế,
Giáo thể từ nghe vào thật dòng.

GIẢNG: 

Phẩm Diệu Âm, là nhiếp phẩm Dược Vương trước. Ý bảo rằng, căn này từ lúc mới vào, vẫn cần nhờ các âm thinh, để bày tỏ tánh nghe, tiêu mòn vọng niệm, vào Xa-ma-tha. Dần dần vào sâu, giữ nơi chí tịnh. Cho đến cả động tịnh đều quên. Phải ngay nơi đây mà vào Tam-ma-địa. Khi đó chẳng cần thinh trần hiện bên ngoài nữa, mà ở trong tự có diệu âm, riêng sáng, độc chiếu. 

Phẩm Dược Vương Bồ-tát Bản Sự ở trước nói lên công tu hành đến giai đoạn phá sắc ấm. Tới phẩm Bồ-tát Diệu Âm là phá thọ ấm

Mỗi chúng ta đều có tánh nghe được biểu trưng ra ngoài qua lỗ tai tức nhĩ căn. Do đó ai cũng nghe. Những vị có bệnh về căn tai hoặc người lớn tuổi cũng nghe, nhưng âm thanh không rõ ràng. Đó là âm thanh không rõ chớ không phải tánh nghe không rõ. Tánh nghe vẫn thế. Nghe có tiếng hoặc nghe không có tiếng. Chúng ta nắm vững chỗ này để ứng dụng công phu tu. 

Hòa thượng Tôn sư thường dạy “nghe như không nghe” hoặc “nghe mà như điếc”. Tại sao? Vì nếu ta chạy theo âm thanh là bị trói buộc, bị thinh trần dẫn. Nó dẫn thì đi vào con đường tạo những nghiệp nhân không tốt. Đã tạo nghiệp nhân không tốt, dù có chạy trốn đường trời cũng bị nghiệp quả thôi, chắc chắn như vậy. Phật dạy mình tu từ nhân. Đối với căn tai, ta vẫn nghe bình thường, như nghe tiếng chim kêu, tiếng gió thổi động bên ngoài, nghe tiếng huynh đệ nói nho nhỏ với nhau, nhưng không chạy theo những âm thanh ấy, không thắc mắc, không yêu thích, không ghét bỏ. Như vậy là nghe như không nghe.

Ví dụ nghe huynh đệ nói cái gì đó không được hài lòng, gương mặt không vui, chứng tỏ bên trong bất ổn. Người biết tu ngang đó tỉnh táo sáng suốt, không lầm chạy theo. Đó là một trường hợp. Kế đến, đối với những âm thanh thuận lòng, thích thú cũng không lầm, không chạy theo. Người không nắm bắt bất cứ loại âm thanh nào, luôn bình thường an nhiên, như vậy là nhĩ căn viên thông

Trong quá trình tu tập căn bản, huynh đệ nhẹ nhẹ từ từ, bước từng bước thật vững. Thứ nhất chúng ta nghe rõ ràng, thứ hai nghe mà không chấp, không dính thì được bình yên chút chút. Vì sao bình yên? Vì không bỏ cái thật chạy theo cái giả, không bỏ chủ thể chạy theo bóng dáng bên ngoài. Thường chúng ta khổ vì chạy theo bóng dáng bên ngoài quá nhiều. Mỗi khi ngoại trần khơi động, ta chạy theo và nắm bắt. Chạy theo nó rồi giống như người cùng tử tha phương cầu thực, xa nhà nhớ quê, không biết đường về. 

Người tu không có chủ lực, không có nội tại, nhất là tu thiền mà không có định tỉnh sẽ bị trần cảnh kéo lôi, rồi cột trói mình luôn. Xiềng bên ngoài dễ gỡ dễ tháo, chớ những loại trói buộc vô hình này khó gỡ lắm, ta cũng không biết manh mối nó ở đâu để mà gỡ. Có nhiều huynh đệ, cuộc đời chồng chất năm mươi, sáu mươi, bảy mươi, cho tới tám mươi năm, gần chết cũng chưa biết manh mối chỗ nào để gỡ. Thì sao? Thì mang luôn cái còng ấy đi theo, đời sau tiếp tục trói nữa. Chúng sanh theo nghiệp đã gây tạo, từ đời này sang đời khác chồng chất, hết lớp còng trói này tới lớp còng trói khác. Cho nên Phật nói rất đáng thương vậy!

Chúng tanhân duyên đặc biệt, ngang đây gặp Phật pháp, biết rõ những còng trói đó cần phải tháo gỡ. Phương tiện để tháo gỡtrí dụng. Mỗi người phát huy trí dụng của mình thật tỉnh sáng. Vừa có một niệm dấy khởi, chúng ta biết nó không thật nên không chạy theo, không chấp nhận, không để nó kéo lôi mình, đó là định. Người có định, không bị pháp trần kéo lôi ngược xuôi là có tuệ, gọi là định tuệ đồng thời hay định tuệ đẳng trì

Phật nói thân này không thật, danh vọng không thật, tiền tài không thật, sắc đẹp không thật v.v… tất cả đều hư ảo. Chúng ta nhớ như vậy để trị bệnh tham sân si. Nếu không quyết tâm buông bỏ những thứ hư ảo ấy, cả đời chúng ta không tu tiến nổi đâu. Vì chúng sẽ theo quấy nhiễu và lôi mình đi vào những con đường tăm tối, khổ đau. Người bình yên và người không bình yên khác nhau xa lắm. Người bình yên luôn tự tại, tỉnh táo, sáng suốt trước mọi cảnh duyên và không bị vọng động bên trong sai khiến. Người không bình yên luôn ngược xuôi, mắc mứu, bị trần cảnh bên ngoài và vọng tưởng bên trong sai sử làm những việc mê muội dẫn đến kết quả khổ đau. 

Sở dĩ nói đạo Phật là đạo của trí tuệ, của từ bi hỷ xả, đạo giác ngộ giải thoát là vì giáo lý Phật dạy chúng ta vượt qua những tăm tối, không bị nghiệp lực sai sử khiến chúng sanh trôi giạt vào trầm luân sanh tử. Người học Phật, tu Phật không thực tập được như vậy thì đâu thể gọi là đệ tử Như Lai. Cho nên chúng ta phải áp dụng pháp học vào đời sống để chuyển hóatháo gỡ hết mọi sự trói buộc. Như thế mới có lợi ích và an vui.

Chúng ta còn vui buồn, phiền não là vì mình chưa làm chủ được nên cứ mắc mứu việc này việc kia. Nếu không tu không sửa đổi, mình sẽ bất ổn khổ đau hoài. Như vậy thì vô lý quá! Chúng ta đã chọn đạo pháp làm lẽ sống, làm mục đích duy nhất đời mình. Vậy mà không hành đạo, không tu đạo, nghĩa là sao? Cho nên chỗ này chư huynh đệ cần phải xác định thật rõ ràng để chúng taphương hướng hành động đúng đắn. Nếu không như thế, đêm ba mươi sau cùng, chúng ta sẽ không có đường đi, đừng nói chuyện tự tại

Người được tự tại là người không sợ chết. Bởi người này thấy rõ thân không thật, địa vị không thật, tiền tài không thật, không có gì thật hết, nên lúc bỏ thân họ cười. Thật ra chết là thay đổi một món đồ cũ xấu, rách nát để có món đồ tốt. Muốn đổi món đồ tốt không thể nào thiếu vốn. Cũng vậy, muốn đi con đường tốt, không thể thiếu sự chuẩn bị. Người muốn tự tại lúc lâm chung, bình nhật phải có định tuệ. Bây giờ đối với ngũ dục không sợ mất, đối với thân tứ đại không ngán chết, thì lúc ra đi mới bình thản an nhiên, không bị ngưu đầu ngục tốt lôi xuống điện Diêm vương đối chất. Anh em học đạo không khai thông chỗ này, chỉ nói trên mây xanh mà không làm được việc gì thì đừng than trách lúc về sau.

Thiền sư Văn Hỷ đi hành khước học đạo, đến Ngũ Đài Sơn mong được yết kiến Bồ-tát Văn Thù. Lên tới Ngũ Đài Sơn, ngài gặp một ông cụ nhưng không nhận ra đó là hiện thân của Bồ-tát Văn Thù. Vì vậy ngài bị đuổi xuống núi. Sau này ở trong hội Ngưỡng Sơn, ngài khế ngộ bản tâm, được cử chức Điển tọa. Một hôm ngài đang nấu cháo, thấy Bồ-tát Văn Thù hiện lẫn trong khói của nồi cháo. Ngài cầm cây dằm quậy cháo đập, nói “Văn Thù là Văn Thù, Văn Hỷ là Văn Hỷ”. Hồi còn mê muốn gặp Bồ-tát, Bồ-tát hiện không biết. Bây giờ đã ngộ đạo, Bồ-tát bên ngoài hiện đến không nhận. 

Một khi đã nhận đã sống được với cái thực của mình rồi, dù cho cảnh duyên bên ngoài có hấp dẫn tới đâu, cũng không bì được với cái thật ấy. Anh em có một niệm không bình yên, không làm chủ với các hiện tượng bên ngoài, dù lúc đó Phật hiện, Bồ-tát hiện vẫn là ma sự, không nên lầm lẫn. Tại sao? Vì nó là thuộc bên ngoài. Công phu của chúng ta cốt nhận ra cái thật sẵn có của mình. Bằng mọi cách, trong sinh hoạt đời thường, chúng ta sống được với tri kiến Phật của mình, thì không bị thinh trần dẫn, không bị pháp trần kéo, không mắc mứu và trôi giạt. 

Chỗ này các thiền tăng phải nghiệm thật kỹ, nắm thật vững, đi vào công phu cho sâu sắc, chúng ta mới an ổn toàn bị. Huynh đệ nhớ dè dặt từng chút, đối với các sự việc, xem tâm như thế nào? Nếu còn buồn vui chao đảo là chưa ổn, chưa tu tiến. Nghe người ta gọi mình là Thượng tọa, thấy vui vẻ, việc gì cũng dễ chấp nhận. Nhưng nếu họ chỉ mặt gọi thằng này thằng nọ, nghe khó chịu. Họ nói gì cũng không muốn nghe, nếu có nghe thì bực bội, không ưng thuận việc nào cả. Những thứ đồ bỏ như thế mà hại mình vô cùng. Cho nên trong công phu tu hành phải chính chắn xem xét lấy mình. Chúng ta chưa phải thánh hiền thì đừng bao giờ lầm, để bị mất mình. 

Ngay trong giai đoạn có thể lo cho mình, sửa sang tu tập, các huynh đệ cố gắng. Làm sao nhìn lại mình, tập trung công phu để có năng lực. Lúc đầu chúng ta làm tiêu mòn những vọng niệm, không để nó kéo lôi. Vào Xa-ma-tha tức là dừng được, cắt đứt những vọng tưởng, những dấy niệm. Dần dần vào sâu trong định, đến chỗ dứt bặt hết thì trí tuệ hiện tiền. Đến được chỗ định tuệ đẳng trì thì tự tại giải thoát không còn là chuyện mơ hồ viển vông nữa.

Cổ Linh Thần Tán nhắc: 

Linh quang riêng chiếu,

Vượt khỏi căn trần,

Bày thể thường chân,

Chẳng kẹt văn tự.

Ngài muốn nói trong thân tứ đại ngũ uẩn, nếu chúng ta phá được những lầm chấp, những mê đảo thì sẽ được linh quang riêng chiếu. Cái đó vượt khỏi căn trần, nó là cái chân thường, không bị kẹt vướng ở đâu. 

Cổ Linh Thần Tán học đạo với ngài Bá Trượng. Sau khi sáng được việc lớn trở về hầu thầy tổ. Thầy ngài ở quê, chưa có cơ hội học đạo nên còn vướng mắc. Một hôm Thần Tán đứng hầu, thầy ngài đang ngồi đọc sách bên cửa sổ có dán giấy. Bấy giờ có con ong muốn bay ra ngoài, mà bị lớp giấy chắn ngang nên chui không được. Ngài ứng khẩu nói:

Cửa Không chẳng chịu ra,

Quá ngu chui cửa sổ,

Giấy cũ trăm năm dùi,

Ngày nào dùi được phủng.

Mấy câu kệ làm động đến thầy, thầy thấy lạ. Lần khác thầy đi tắm, ngài làm thị giả kỳ lưng cho thầy. Ngài vỗ vào lưng thầy nói: Điện Phật đẹp mà Phật chẳng thánh. Thầy ngài nghe vậy quay lại hỏi “Ngươi đi học được cái gì mà về đây nghe nói những lời lạ thường như vậy”. Ngài trình bày sự thật. “Con được thầy cho đi học đạo, tới pháp hội của tổ Bá Trượng, con đã sáng nên rất mang ân thầy. Bây giờ đến lúc con phải đền ân thầy”. 

“Điện Phật đẹp mà Phật không thánh” nghĩa là sao? Nghĩa là thân ngũ uẩn này giống như điện Phật, đầy đủ oai nghi tướng tốt v.v... nhưng không nhận ra tánh giác. Chỉ có điện Phật thôi chứ Phật không thiêng, vì Phật chưa giác. Cũng thế, mỗi chúng ta đều có điện Phật, mà không sống được với ông Phật của mình thì như ngài Cổ Linh nói điện Phật đẹp mà Phật không thánh. 

Tiết này lấy Bồ-tát Hoa Đức làm hợp cơ, trong kinh văn nói Bồ-tát Hoa Đức được Pháp Hoa Tam-muội, tức chứng được Pháp Hoa tam-muội. Nói Hoa, đó là tri kiến. Còn Đức là diệu thể của các đức đầy đủ trong bản tánh. Tóm lại, nói hoa đức là nhằm tiêu biểu cho tánh tự nghe tánh, tâm tự biết tâm, cũng chính là nghĩa minh tâm kiến tánh vậy. Tánh tự nghe tánh, tâm tự biết tâm là sao? Tánh nghe của mình bình thường, không kéo đi đâu hết, tâm sáng suốt không dính theo vật. Nếu nghe mà dính theo cái bị nghe, đó không phải là tánh nghe nữa, mà gọi là bỏ tánh nghe theo thinh trần bên ngoài. Minh tâm cũng vậy, nếu đối vật dính mắc, chạy theo thì không còn minh tâm, mà bị vật chuyển. 

Nói Pháp Hoa Tam-muội. Pháp tức là Diệu tánh chân như sẵn có. Hoa tức tánh ấy đủ Diệu năng Tri kiến thanh tịnh. Tam-muội hoặc bảo là Tam-ma-đề, đây nói rằng chánh thọ, cũng gọi rằng chánh định. Lại gọi là định tuệ đẳng trì, tứ là nghĩa chánh quán vậy. Đây nói rõ, chính được đại định sẵn có tri kiến chân như, cũng là phá lớp vọng tưởng hư minh của thọ ấm thứ hai.

Muốn phá lớp chấp thứ hai gọi là thọ ấm, chúng ta phải có định tuệ đầy đủ. Định là tai nghe tiếng mà không chạy theo tiếng, tuệ là biết nó không thật, nên không dính mắc. Có định có tuệ, không thiên lệch gọi là định tuệ đẳng trì. Xa-ma-tha là chỉ. Ví dụ người ta chọc cho mình nổi nóng, nhưng mình không nổi nóng. Đó là Xa-ma-tha, là chỉ, là dừng. Nói theo danh từ bình dân nó như cái thắng. Huynh đệ nên có một cái thắng thật tốt, cần thắng thì thắng lại, đừng để tuột dốc. Chúng ta không bị âm thanh kéo lôi là có định. Mình biết nó không thật nên không chạy theo. Cái biết không thậttrí tuệ Bát-nhã. Lục tổ dạy đó là định tuệ đồng đẳng, hễ có định là có tuệ. Có định mà không có tuệ, gọi là si định. Có tuệ mà không địnhđiên đảo vọng tưởng. Pháp tu thiền dạy chúng ta thực hành như vậy. 

Phẩm này nằm trong giai đoạn triệt phá ấm thứ hai. Trong kinh Lăng Nghiêm, sau khi Phật chỉ cho A Nanđại chúng thấy được cái Diệu tịnh minh thể rồi, qua giai đoạn tháo gỡ các nút gút, tức tới công phu triệt phá ngũ ấm. Đến đây, Bồ-tát Diệu Âm đã tự tại đối với các âm thanh, phá được cảm thọ. Phá được thọ ấm là một bước tiến rất lớn đối với hành giả tu thiền như chúng ta, không thể xem thường được. Như trời đang nắng nóng, chúng ta ngồi thiền trong thất nhỏ, mồ hôi nhễ nhại. Có Phật tử đem cúng dường cho một ly nước mát dịu, thấm vào cổ họng nghe thật dễ chịu. Sau cái dễ chịu đó mình thích. Sau cái thích đó còn nhiều chuyện khác nữa. Nhưng nội cái thích thôi, mình buông dễ không? Không dễ. Bây giờ ở độ cao tỉnh giác, chúng ta phải thấy nó không thật, đó là dùng trí tuệ Bát-nhã để phá thọ ấm. Biết dấy niệm không thật, thì không bị nó dẫn, không chạy theo nó.

Nói tóm lại, phẩm Diệu Âm là nói đến giai đoạn phá thọ ấm. Căn nêu lên trong phẩm này là nhĩ căn. Từ căn nghe chúng ta buông hết những lầm chấp để vào chánh định, được tự tại.

Kệ rằng:

Đảnh Phật thần quang tịch chiếu thông,

Diệu Âm Bồ-tát hiện thân dung,

Rộng phô tam-muội nêu tri kiến,

Bày hiện Nhất thừa, rõ đạo tông,

Thể dụng về như, nghe tức tiếng,

Căn trần rốt ráo, sắc mà không,

Chương này mượn huyễn bày chân tế,

Giáo thể từ nghe vào thật dòng.

Phẩm Diệu Âm dạy phá được thọ ấm rồi, mượn chỗ huyễn bày cái thật. Hy vọngquyết tâm của huynh đệ chúng ta trước nhất là nhận ra tánh giác của mình, kế đến phát huy tròn đầy được như Phật mới vừa lòng mình. Con đường tu hành cho đến thành Phật, ta nguyện sấn bước đến cùng. Nói như thế nghe mồ hôi lạnh toát ra cho nên ta phải gan, phải là tráng sĩ chặt tay trên Tung Sơn thuở nào. Chúng ta học chánh pháp, mỗi ngày một tươi nhuận, một thể nhập, biểu trưng ra mọi sinh hoạt, qua các giác quan là sự sáng suốt, tỏ rõ, an vui. Mong anh em lúc nào cũng tích cực tu học như lời Phật tổ dạy. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10249)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12231)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11526)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28680)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11926)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12897)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11340)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12256)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17276)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52689)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35367)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21207)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10585)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19085)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12304)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25828)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13205)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14269)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15956)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13625)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16708)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17400)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13013)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12428)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11521)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11470)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20258)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18812)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19415)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18491)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12100)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12185)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13740)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14885)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14953)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13860)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15413)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11296)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17016)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14827)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20040)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13745)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11629)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14932)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12884)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22749)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14470)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11541)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13076)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16775)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18236)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11857)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11410)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15713)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12788)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18781)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18258)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant